Hôm nay,  

Niết Bàn: Tâm, Cảnh Vốn Không / Nirvana: Mind and its objects are inherently empty

05/02/202509:08:00(Xem: 3890)
blank 
Niết Bàn: Tâm, Cảnh Vốn Không

Nguyên Giác


Khi nào bạn thấy tâm và cảnh vốn là không, bạn sẽ thấy bất kỳ nơi nào cũng là Niết Bản. Lời dạy đó là từ một bài thơ của Thiền sư Tuệ Trung Thượng Sĩ (1230-1291) khi ngài dạy ý chỉ Thiền tông cho vua Trần Nhân Tông. Lời dạy đó cũng là đúc kết từ nhiều Kinh khác nhau do Đức Phật truyền dạy.

Bải thơ do ngài Tuệ Trung Thượng Sĩ dạy Trần Nhân Tông có mấy dòng cuối trong tiếng Hán-Việt như sau:

Nhựt nhựt đối cảnh thời
Cảnh cảnh tòng tâm xuất
Tâm cảnh bổn lai vô,
Xứ xứ Ba-la-mật.


Dịch nghĩa ra văn xuôi tiếng Việt hiện đại như sau: Ngày ngày, khi đối diện với các cảnh, hãy thấy tất cả các cảnh đều từ tâm sinh ra. Khi bạn thấy tâm và cảnh vốn là không, thì sẽ thấy khắp nơi đều là Niết bàn.

Như thế, hãy thấy cảnh vốn là từ tâm sinh khởi, và rồi hãy thấy cả tâm và cảnh vốn đều là rỗng không, là không hề có tự tánh nào cả. Thấy thường trực như thế, bạn sẽ thấy tất cả các nơi chốn mười phương đều là Niết Bàn.

Tới đây, chúng ta nhớ tới hai bài kệ đầu tiên trong Kinh Pháp Cú, trong bản dịch của Thầy Thích Minh Châu như sau.

Bài Kệ 1.
Ý dẫn đầu các pháp,
Ý làm chủ, ý tạo;
Nếu với ý ô nhiễm,
Nói lên hay hành động,
Khổ não bước theo sau,
Như xe, chân vật kéo.


Bài Kệ 2.
Ý dẫn đầu các pháp,
Ý làm chủ, ý tạo,
Nếu với ý thanh tịnh,
Nói lên hay hành động,
An lạc bước theo sau,
Như bóng, không rời hình.


Làm thế nào để hiểu rằng thế giới này là hiển lộ của tâm chúng ta? Nếu như thế, tâm của chúng ta sẽ nhỏ rất nhỏ, và cũng rộng lớn vô cùng tận. Đức Phật đã giải thích trong Kinh SN 35.23 rằng  tất cả thế giới này đối với từng người chúng ta chính là mắt và cái được thấy, tai và cái được nghe, mũi và cái được ngửi, lưỡi và cái được nếm, thấn và cái được chạm xúc, ý và cái được tư lường.

Trong Kinh SN 35.23, bản dịch của Thầy Thích Minh Châu trích như sau:

"Và này các Tỷ-kheo, thế nào là tất cả? Mắt và các sắc; tai và các tiếng; mũi và các hương; lưỡi và các vị; thân và các xúc; ý và các pháp. Như vậy, này các Tỷ-kheo, gọi là tất cả.
Này các Tỷ-kheo, ai nói như sau: “Sau khi từ bỏ tất cả này, ta sẽ tuyên bố (một) tất cả khác”, thời lời nói người ấy chỉ là khoa ngôn. Và bị hỏi, người ấy không thể chứng minh gì. Và hơn nữa, người ấy có thể rơi vào ách nạn. Vì sao? Này các Tỷ-kheo, như vậy ra ngoài giới vức (avisaya) của người ấy!
"

Khi nhận ra thế giới này chỉ là những gì tương tác với chúng ta, hiển nhiên mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý sẽ bao trùm cả vũ trụ này, trong chừng mực những gì chúng ta có thể tương tác được. Đúng như thế, Đức Phật nói trong Kinh SN 35.228 rằng mắt chính là đại dương; tương tự, tai, mũi, lưỡi, thân và ý cũng là những đại dương vô cùng tận. Người tu phải vượt qua những dòng chảy, những xoáy nước, cá mập và quỷ dữ trên đại dương để tới nơi bình yên của giải thoát.

Như thế, tâm của chúng ta là vô lượng, không thể đo lường được. Chúng ta nhận biết thế giới này qua tương tác của căn, trần và thức. Người tu phải sống xả ly, không bị vướng gì hết, mới có thể giải thoát với tâm không hạn cuộc.

Đức Phật giải thích trong Kinh AN 10.81 như sau, theo bản dịch của Thầy Thích Minh Châu:

"Từ mười pháp, này Bàhuna, Như Lai sống xuất ly, ly hệ, giải thoát với tâm không hạn cuộc. Thế nào là mười?
Từ sắc, này Bàhuna, Như Lai sống xuất ly, ly hệ, giải thoát với tâm không hạn cuộc. Từ thọ, này Bàhuna… Từ tưởng, này Bàhuna… Từ các hành, này Bàhuna… Từ thức, này Bàhuna… Từ sanh, này Bàhuna… Từ già, này Bàhuna…Từ chết, này Bàhuna…Từ các khổ này, Bàhuna…. Từ các phiền não, này Bàhuna, Như Lai sống xuất ly, ly hệ, giải thoát với tâm không hạn cuộc.
Ví như, này Bàhuna, hoa sen xanh, hay hoa sen hồng, hay hoa sen trắng, sanh ra trong nước, lớn lên trong nước, vươn lên mặt nước và đứng, không có dính nước. Cũng vậy, này Bàhuna, từ mười pháp này, Như Lai sống xuất ly, ly hệ, giải thoát với tâm không hạn cuộc
."

Khi nói rằng giải thoát với tâm không hạn cuộc, có nghĩa là tâm rộng vô giới hạn, và là tâm của người sống với cái bản gốc là Không. Tức là thấy được cả tâm và cảnh đều vốn là Không. Đó cũng là khi thức tịch diệt. Chúng ta có thể gọi đó là vô tâm, hay vô niệm, hay không tư lường.

Trong Kinh Snp 5.2, Đức Phật giải thích rằng khi thức tịch diệt thì giải thoát như sau, khi trả lời Ajita:

"Câu hỏi này đã được người hỏi, Ajita, ta có thể trả lời! Để cho tâm và thân tịch diệt không còn dư tàn: đó là khi chấm dứt của ý thức, tại nơi này thức tịch diệt."

Tới đây, chúng ta có thể nêu câu hỏi, làm sao để thấy tâm và cảnh là không, để thấy tận nơi thức tịch diệt? Chúng ta có thể dẫn ra Kinh Đàn Tỳ Bà SN 25.246, Đức Phật kể rằng một vị vua nghe tiếng đàn tỳ bà rất êm tai, dịu dàng, quyến rũ, nên ra lệnh đem cây đàn tỳ bà về, bảo tìm âm thanh tuyệt diệu kia. Không ai tìm được tiếng nhạc kia. Bởi vì âm nhạc đó là do nhiều duyên sinh khởi, do cây đàn làm bằng loại gỗ quý trên rừng, từ dây đàn, từ bản nhạc hay, từ tài năng người chơi đàn, và từng nốt nhạc khởi lên là biến mất theo dòng chảy vô thường.

Cho dù có chẻ cây đàn ra 100 mảnh cũng không ai tìm ra được tiếng đàn. Tất cả đều vô ngã, đều do nhiều duyên mà thành, và ngay khi sinh là tức khắc diệt. Người tu thấy được tất cả đều vô ngã, đều do nhiều duyên, đều vô thường chảy siết, thì sẽ thấy thức tịch diệt vì không có gì có thể nghĩ ngợi hay bàn luận. Lúc đó, thức sẽ tịch diệt, vắng lặng; và lúc đó, thân và tâm cùng tịch diệt. Lúc đó, hiểu rằng tâm và cảnh vốn là Không, là vắng lặng.

Đó là ý nghĩa lời dạy của Tuệ Trung Thượng Sĩ: Ngày ngày, khi đối diện với các cảnh, hãy thấy tất cả các cảnh đều từ tâm sinh ra. Khi bạn thấy tâm và cảnh vốn là không, thì sẽ thấy khắp nơi đều là Niết bàn.

.... o ....

Nirvana: Mind and its objects are inherently empty

Written and translated by Nguyên Giác

 
When you recognize that the mind and its objects are inherently empty, you will realize that Nirvana exists everywhere. This teaching is derived from a poem by Zen Master Tuệ Trung Thượng Sĩ (1230-1291), who imparted Zen teachings to King Trần Nhân Tông. It also serves as a summary of various sutras taught by the Buddha.

The Chinese poem composed by Tuệ Trung Thượng Sĩ to instruct Trần Nhân Tông concludes with the following lines, rendered in modern Vietnamese prose: Throughout the day, as you encounter various scenes, recognize that everything originates from the mind. When you understand that both the mind and its objects are inherently empty, you will realize that Nirvana exists everywhere.


Thus, recognize that all experiences originate from the mind, and understand that both the mind and its objects are inherently empty, lacking any intrinsic nature. By maintaining this awareness, you will come to realize that all locations in the ten directions are manifestations of Nirvana.

Here, we recall the first two verses of the Dhammapada, translated by Ācāriya Buddharakkhita, as follows.

Verse 1: Mind precedes all mental states. Mind is their chief; they are all mind-wrought. If with an impure mind a person speaks or acts suffering follows him like the wheel that follows the foot of the ox.

Verse 2: Mind precedes all mental states. Mind is their chief; they are all mind-wrought. If with a pure mind a person speaks or acts happiness follows him like his never-departing shadow.

How can we understand that this world is a manifestation of our mind? If that is the case, our mind must be both tiny and incredibly vast. The Buddha explained in the SN 35.23 Sutta that for each of us, this entire world consists of the eye and what is seen; the ear and what is heard; the nose and what is smelled; the tongue and what is tasted; the body and what is touched; and the mind and what is thought.
 
In the Sutta SN 35.23, Bhikkhu Bodhi's translation states the following:

And what, bhikkhus, is the all? The eye and forms, the ear and sounds, the nose and odours, the tongue and tastes, the body and tactile objects, the mind and mental phenomena. This is called the all.

“If anyone, bhikkhus, should speak thus: ‘Having rejected this all, I shall make known another all’—that would be a mere empty boast on his part. If he were questioned he would not be able to reply and, further, he would meet with vexation. For what reason? Because, bhikkhus, that would not be within his domain
.”

When we recognize that the world consists solely of our interactions, it becomes clear that our eyes, ears, nose, tongue, body, and mind encompass the entirety of the universe as far as our engagement allows. Indeed, the Buddha stated in the SN 35.228 Sutta that the eyes are like the ocean; similarly, the ears, nose, tongue, body, and mind represent an endless ocean as well. The practitioner must navigate the currents, whirlpools, sharks, and demons within this ocean to attain the tranquil state of liberation.
 
Thus, our minds are limitless and immeasurable. We perceive the world through the interaction of our senses, objects, and consciousness. A practitioner must live in detachment, free from entanglement, in order to achieve liberation with a boundless mind.
 
The Buddha explains in the AN 10.81 Sutta as follows, according to Bhikkhu Sujato's translation:

Bāhuna, the Realized One has escaped from ten things, so that he lives detached, liberated, his mind free of limits. What ten? Form … feeling … perception … choices … consciousness … rebirth … old age … death … suffering … defilements … Suppose there was a blue water lily, or a pink or white lotus. Though it sprouted and grew in the water, it would rise up above the water and stand with no water clinging to it. In the same way, the Realized One has escaped from ten things, so that he lives detached, liberated, his mind free of limits.”
  
When we say that liberation arises from a limitless mind, we mean that the mind is boundless and reflects the original nature of Emptiness. This perspective recognizes that both the mind and its objects are inherently empty. Consciousness extinguishes at this point. We can refer to this state as "no mind," "no thought," or "no conception."
 
In the Snp 5.2 Sutta, the Buddha explains that when consciousness ceases, liberation follows, in response to Ajita, according to Bhikkhu Ānandajoti's translation as follows:

This question that was asked, Ajita, I can answer it! As to where mind and body ceases without remainder:
with the cessation of consciousness, in this place it ceases
.”

At this point, we can pose the question: How can we perceive that the mind and its objects are empty and identify the very moment when consciousness ceases? We can reference the SN 25.246 Sutta, in which the Buddha recounts a story about a king who heard a lute's sound that was exceptionally pleasant, gentle, and alluring. Intrigued, he ordered the lute to be brought to him, seeking to rediscover that wonderful sound. However, no one could locate it. This is because the music arises from numerous causes and conditions: the lute crafted from precious wood sourced from the forest, the strings, the beautiful melodies, the skill of the lute player, and the fact that each note that emerges ultimately fades away in the stream of impermanence.
 
Even if the instrument were divided into 100 pieces, no one would be able to discern its sound. Everything is selfless; all things arise from numerous causes and conditions, and as soon as they are born, they immediately begin to perish. A practitioner who realizes that everything is selfless, created by various causes and conditions, and impermanent and in constant flux will see consciousness cease because there will be nothing to contemplate or discuss. Simultaneously, both the body and mind will cease to exist, bringing consciousness to an end. At that point, one must understand that the mind and its objects are inherently empty and silent.

The teaching of Tuệ Trung Thượng Sĩ conveys a profound message: Throughout the day, as you encounter various scenes, recognize that everything originates from the mind. When you understand that both the mind and its objects are inherently empty, you will realize that Nirvana exists everywhere.
.
THAM KHẢO / REFERENCE:
-- Kinh Pháp Cú, bản dịch Thầy Minh Châu:
https://thuvienhoasen.org/p15a7961/pham-01-10
Bản dịch của Ācāriya Buddharakkhita:
https://suttacentral.net/dhp1-20/en/buddharakkhita
-- Kinh SN 35.23: https://suttacentral.net/sn35.23/en/bodhi
-- Kinh AN 10.81:
https://suttacentral.net/an10.81/vi/minh_chau
https://suttacentral.net/an10.81/en/sujato
-- Kinh Snp 5.2:
https://suttacentral.net/snp5.2/en/anandajoti
-- Kinh Đàn Tỳ Bà SN 25.246:
https://suttacentral.net/sn35.246/vi/minh_chau
.... o ....

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Bộ Nội An và Bộ Ngọai Giao Hoa Kỳ vừa loan báo những kế họach nhằm đưa ra khá nhiều điều lệ mới về di trú trong vài tháng sắp tới. Những quy luật này sẽ áp dụng cho những du khách xin chiếu khán công việc B-1, sinh viên du học với chiếu khán F1, những người chuyên nghiệp xin chiếu khán làm việc H1B và chiếu H4 dành cho người phối ngẫu của họ, và chiếu khán L-1.
Tin tức về việc Hạ Viện với đại đa số dân biểu Dân Chủ đã chính thức bỏ phiếu thông qua 2 điều khoản luận tội Tổng Thống Hoa Kỳ Donald Trump hôm 18 tháng 12 đã gây sự chú ý đặc biệt trên khắp thế giới.
Đại Sứ Trung Quốc tại Thụy Điển là ông Quế Tòng Hữu đã bị các Nghị Sĩ Thụy Điển đòi trục xuất vì ông này đã nhiều lần phát ngôn uy hiếm Thụy Điển vì Hội Nhà Văn Thụy Điển đã trao giải thưởng Tucholsky cho một nhà văn và nhà xuất bản người Thụy Điển gốc Hồng Kông
Tô Kiều Ngân tên thật Lê Mộng Ngân, ông sinh năm 1926 tại Huế. Từ nhỏ ông đã sớm tỏ ra có chất nghệ sĩ, thường trốn học, đi chơi đó đây với cây sáo trúc không mấy khi rời tay.
Trung Tâm Công Giáo Việt Nam tọa lạc tại 1538 N. Century Blvd, Santa Ana, CA 92703, được hình thành vào năm 1975, với một số người Công Giáo tỵ nạn tại Orange County, với lúc đầu chỉ chừng 3,000, nhưng tới năm 1982 con số nầy đã tăng lên tới 7,000. Tuy đã có Thánh Lễ bằng tiếng Việt tại 9 nhà thờ của giáo xứ, nhưng họ vẫn thấy cần một nơi để sinh hoạt theo phong tục của người Việt.
Bị nước Tàu đô hộ ngàn năm, Việt Nam không bị đồng hóa mà vẫn giữ được truyền thống dân tộc. Tiếng nói, chữ viết, cách ăn mặc, tập tục, phong thái...và nói chung, mọi thứ đều là Việt Nam. Chuyện đó ai cũng biết.
Nhà thơ Nguyễn Đức Sơn quê gốc làng Thanh Lương, huyện Hương Trà, Thừa Thiên Huế. Ông sinh ngày 18 tháng 11 năm 1937 tại làng Dư Khánh, tỉnh Ninh Thuận.
Tôi từng bị ám ảnh không biết sau khi mình chết đi thì mọi việc sẽ như thế nào. Và thế là vào một đêm, tôi quyết định giả chết.
Lời tòa soạn: Những câu thơ dị thường viết bởi một thi sĩ dị thường! Đó là lời giới thiệu cho tập thơ Thơ và Đá của thi sĩ Nguyễn Đức Sơn, do NXB Văn Học Press phối hợp với tổ chức Culture Art Education Resource xuất bản và phát hành tháng 12 năm 2019. Nhân dịp này Việt Báo hân hạnh được trao đổi đôi lời với cô Nguyễn Đức Phương Bối, ái nữ của nhà thơ. (Hiện nay chị Phương Bối vẫn sinh sống tại Việt Nam, trên mảnh đất do chính nhà thơ gầy dựng từ sau cuộc đổi đời 1975.) Dưới đây là nội dung cuộc nói chuyện.
Lời tòa soạn: Được biết tập thơ Thơ và Đá của thi sĩ Nguyễn Đức Sơn là nỗ lực của NXB Văn Học Press và tổ chức Culture Art Education Exchange Resource liên kết thực hiện. Đây là tập thơ của một nhà thơ vốn được xem là một trong những thi sĩ lớn nhất của văn học miền Nam Việt Nam, giai đoạn 54-75. Tập thơ quy tụ những bài thơ chưa bao giờ được công bố cho đến ngày hôm nay. Nhân dịp này Việt Báo hân hạnh được tiếp chuyện cô Đào Nguyên Dạ Thảo, người đã bỏ ra rất nhiều công sức cho đề án này.
Lời tòa soạn: Gần đây, nhiều ý kiến, tranh cãi gay gắt về vai trò và công trạng sáng lập chữ quốc ngữ, đặc biệt xung quanh nhà truyền giáo người Bồ Đào Nha Alexandre de Rhodes. Việt Báo xin trích đăng lại bài viết của tác giả Mai Kim Ngọc trong mục VVNM năm 2013, bài viết là một tham khảo kỹ lưỡng về chữ quốc ngữ và vai trò của Alexandre de Rhodes, và tác giả đề cập đến sự “vô phép” trong Phép Giảng Ngày khi người tu sĩ Đắc Lộ này nói về Tam Giáo của nước chủ nhà.
Tháng 12 năm 2019 đánh dấu 64 năm phong trào đấu tranh cho dân quyền tại Mỹ mà người đi đầu là Rosa Parks, một phụ nữ gốc Phi Châu sinh trưởng tại tiểu bang Alabama, Miền Đông Nam Hoa Kỳ.
có 30% doanh nghiệp cho biết vẫn phải trả khoản này cho cán bộ thanh tra, và hơn nữa vẫn có 33% doanh nghiệp được hỏi cho rằng cán bộ suy diễn bất lợi cho đơn vị.
Vào sáng sớm ngày 14 tháng 12 năm 2019, các thành viên của Dưỡng Sinh Thức Pháp đã bắt đầu tụ họp tại hội trường của khu nhà tiền chế Kensington Garden Mobile Home - tọa lạc trên đường Bolsa tại thành phố Westminster
Ít nhất một người bị giết và 5 người khác bị thương trong một vụ nổ súng tại tổng hành dinh của Cơ Quan An Ninh Liên Bang Nga (FSB) tại trung tâm Mạc Tư Khoa, theo truyền thông Nga cho biết.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.