Hôm nay,  

Khi Cư Sĩ Thắc Mắc Về Giới / When Laypeople Question Someone About Precepts

11/02/202506:20:00(Xem: 5733)
blank 

Khi Cư Sĩ Thắc Mắc Về Giới

Nguyên Giác


Một người cư sĩ có nên chất vấn một Phật tử, dù là nhà sư hay cư sĩ, rằng vị này có thuộc toàn bộ các giới hay không, và vị này có đang giữ trọn vẹn các giới hay không? Bài này sẽ viết trong cương vị một cư sĩ về thái độ của người cư sĩ khí có những nghi vấn về giới đối với bất kỳ một người tu học theo Phật giáo nào.

Lý do có bài viết này, vì trong khi một đoàn người Phật tử Việt Nam đang bộ hành đường xa trên đất Thái Lan tuần qua, có một vị cư sĩ nêu câu hỏi trực tiếp với vị lãnh đạo tâm linh của đoàn bộ hành này rằng vị này có thuộc 250 giới chưa và có giữ trọn vẹn 250 giới hay không. Hình ảnh cuộc đối thoại này được ghi lại trên nhiều video quay bởi nhiều người, và được xem trên YouTube và Facebook có lẽ cả triệu lượt xem. Bài viết này sẽ nêu chủ đề về thái độ của một cư sĩ khi có thắc mắc về một người tu, dù là nhà sư hay cư sĩ, rằng người kia có thuộc hết giới hay không, và có giữ giới trọn vẹn hay không. Bài viết sẽ không kể tên bất kỳ ai, để sẽ phổ quát hóa thành một vấn đề chung cho bất kỳ cư sĩ nào tại bất kỳ nơi nào trên thế giới.

Có một điều hiển nhiên rằng, người cư sĩ có quyền nghi vấn và hoải nghi bất cứ điều gì, kể cả có quyền chất vấn các vị sư về chuyện họ có thuộc đủ giới luật hay không và họ có giữ giới nghiêm túc hay không. Nên ghi nhận rằng, các tu sĩ Phât giáo Nam Tông có 227 giới, trong khi các tu sĩ Phật Giáo Bắc Tông có thế có 250 giới hoặc nhiều hơn tùy tông phái. Tuy nhiên, trong tinh thần tôn kính Tam Bảo, người hỏi nên có thái độ từ ái, biết tôn trọng một cộng đồng nơi có tứ chúng đồng tu.

Thái độ đẹp nhất, xin đề nghị, thay vì hỏi trực tiếp vị tu sĩ rằng thầy có giữ đủ 250 giới hay không, người cư sĩ nên hỏi khéo léo rằng có phải tất cả các nhà sư phải thuộc lòng 250 giới và phải giữ nghiêm ngặt 250 giới đó hay không. Người cư sĩ có thể hỏi thêm vị tu sĩ đó rằng giữ trọn 250 giới có khó lắm không, và có khi nào có giới nào không giữ được. Người cư sĩ có thể hỏi những câu phức tạp hơn, rằng tại sao giới là nền tảng của định. Và những câu phức tạp hơn.

Nên nhớ rằng, câu hỏi trực tiếp rằng thầy có giữ đủ 250 giới hay không có thể sẽ đẩy một nhà sư vào vị trí phạm giới. Nếu nhà sư trả lời rằng nhà sư này giữ trọn vẹn 250 giới, cho dú đó là sự thật, cũng là một sự khoe khoang, vi phạm điều 8 trong Luật tạng Vinaya Pitaka (Pācittiya 8 in Suttavibhanga). Nếu bị người cư sĩ hỏi như thế, vị sư thường không trả lời khẳng định để tránh lỗi khoe khoang giữ trọn giới.

Chúng ta nên ghi nhận rằng giữ giới cho nghiêm túc rất là khó. Như trong Kinh SN 9.14 Sutta, một vị cõi thiên đã rầy một vị sư rằng tại sao lại phạm giới trộm, vì đã trộm mùi hương, khi vị sư thưởng thức mùi hương của hoa, khi ngửi hương sen trong hồ nước. Lần đầu có thể suy đoán là vị sư không có lỗi, nhưng sau khi bị nhắc nhở, những lần sau hiển nhiên là đã phạm giới trộm mùi hương rồi.

Thêm nữa, Đức Phật dạy rằng người Phật tử, dù là cư sĩ hay nhà sư, đều cần ưu tiên tự xét lỗi mình, và chuyện người khác có lỗi hay không thì không hề có tầm quan trọng trong việc bản thân mình tu học. Trong Kinh Pháp Cú, bài Kệ 50, Đức Phật dạy, theo bản dịch của Thầy Minh Châu như sau:

50. "Không nên nhìn lỗi người,
Người làm hay không làm.
Nên nhìn tự chính mình.
Có làm hay không làm."


Bây giờ, xin thêm về lời Phật dạy trong Kinh Pháp Cú với hai bài kệ 252, và 253, theo bản dịch của Thầy Minh Châu.

252. "Dễ thay thấy lỗi người,
Lỗi mình thấy mới khó.
Lỗi người ta phanh tìm,
Như sàng trấu trong gạo,
Còn lỗi mình, che đậy,
Như kẻ gian dấu bài."
 
253. "Ai thấy lỗi của người,
Thường sanh lòng chỉ trích,
Người ấy lậu hoặc tăng,
Rất xa lậu hoặc diệt."


Do vậy, khi thắc mắc về một người tu nào về mức độ người này có học thuộc đầy đủ các giới, hay có khả năng giữ giới trọn vẹn hay không, chúng ta nên có những thái độ tế nhị, trong khi hỏi, đặc biệt là khi hỏi trước mắt nhìn của hàng chục người đang quay các videos. Thêm nữa, chúng ta cũng nên nghĩ rằng giữ giới là chuyện khó. Cuối cùng, Đức Phật dạy rằng nên ưu tiên tự xét bản thân mình xem có lỗi hay không, còn chuyện lỗi của người thì không nên xem là quan trọng.

.... o ....

When Laypeople Question Someone About Precepts

Written and translated by Nguyên Giác


Should a layperson question a Buddhist, whether a monk or a layperson, about whether they have memorized all the precepts and if they are adhering to them perfectly? This article will explore the perspective of a layperson who harbors doubts about the precepts in relation to any Buddhist practitioner.
 

The purpose of this article is to discuss an incident that occurred last week in Thailand, where a group of Vietnamese Buddhists was walking a considerable distance. During their journey, a layperson directly asked the group's spiritual leader whether he had learned all 250 precepts and if he adhered to them. YouTubers captured this conversation in numerous videos, which have garnered millions of views on platforms like YouTube and Facebook. This article will explore the implications of a layperson's inquiries regarding a practitioner's understanding and adherence to the precepts, whether the practitioner is a monk or another layperson. To maintain a general perspective, the article will refrain from mentioning specific names, allowing the discussion to apply to any layperson worldwide.
 
It is evident that laypeople have the right to question and express doubts about anything, including the right to inquire whether monks have memorized all the precepts and whether they adhere to them strictly. It is important to note that Southern Buddhist monks typically follow 227 precepts, while Northern Buddhist monks may observe 250 precepts or more, depending on their sect. However, in the spirit of honoring the Triple Gem, the questioner should approach these inquiries with compassion, demonstrating respect for a community where the four groups practice together.
 
The best approach, I would suggest, is for the layperson to tactfully inquire whether all monks are required to memorize and strictly adhere to all 250 precepts rather than directly ask the monk if he follows them all. The layperson could also ask the monk if staying true to all 250 precepts is difficult and if any are unattainable. Additionally, the layperson might pose more complex questions, such as why precepts serve as the foundation for concentration, along with other intricate inquiries.
 
It is important to remember that a direct question asking whether a monk has perfectly adhered to the 250 precepts can place the monk in a position where he may inadvertently break them. If a monk responds affirmatively, even if his statement is true, it can be perceived as boastful, thereby violating Pācittiya 8 in the Vinaya Pitaka. When posed this question by a layperson, a monk typically refrains from answering affirmatively to avoid the offense of boasting about his adherence to the precepts.
 
We should note that it is very challenging to adhere strictly to the precepts. In the SN 9.14 Sutta, a deva reprimanded a monk for violating the precept against stealing by taking in the fragrance of a flower, specifically the scent of a lotus in a pond. Initially, it could be inferred that the monk was not at fault; however, after being reminded, it became clear that he had indeed broken the precept by enjoying the scent a second time.
 
Furthermore, the Buddha taught that Buddhists, whether lay practitioners or monastics, should prioritize examining their own faults. The faults of others are of no significance in their personal practice. In the Dhammapada, Verse 50, the Buddha stated, according to Ācāriya Buddharakkhita's translation:
 
Verse 50: Let none find fault with others; let none see the omissions and commissions of others. But let one see one’s own acts, done and undone.
 
Next, here is some additional advice from the Buddha's teachings in the Dhammapada, specifically verses 252 and 253, according to the translation by Ācāriya Buddharakkhita.

Verse 252: Easily seen is the fault of others, but one’s own fault is difficult to see. Like chaff one winnows another’s faults, but hides one’s own, even as a crafty fowler hides behind sham branches.

Verse 253: He who seeks another’s faults, who is ever censorious—his cankers grow. He is far from destruction of the cankers.

Therefore, when we inquire of a monk whether he has memorized all the precepts or is able to adhere to them fully, we should approach our questioning with tact, particularly when we are in the presence of numerous individuals filming videos. Additionally, we must recognize that adhering to the precepts can be challenging. Ultimately, the Buddha taught that we should prioritize self-examination to identify our own faults rather than focusing on others' shortcomings.
.
THAM KHẢO / REFERENCE:
-- Xem câu 8 trong 92 pacittiya:
https://www.dhammawiki.com/index.php?title=92_pacittiya_(rules_entailing_confession)
-- Kinh SN 9.14:
https://suttacentral.net/sn9.14
-- Kinh Pháp Cú, bài Kệ 50:
https://thuvienhoasen.org/p15a7961/pham-01-10
https://suttacentral.net/dhp44-59/en/buddharakkhita
-- Kinh Pháp Cú, bài Kệ 252 & 253:
https://thuvienhoasen.org/p15a7962/pham-11-20
https://suttacentral.net/dhp235-255/en/buddharakkhita
.
 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Màu tóc tự nhiên của người Á Đông là màu đen. Màu tóc đen mướt, mịn màng rất đẹp. Tuy nhiên, thỉnh thoảng cũng nên làm cho màu tóc đen thêm phần tươi sáng nhờ vài nhiên liệu thường có sẵn trong nhà bếp, hoặc mua với giá khá rẻ ở chợ thực phẩm.
Nếu một người chủ thuê nhân viên có sự đối xử phân biệt, hoặc trả thù (ví dụ: người chủ sa thải một nhân viên bởi vì nhân viên đó đã hỏi anh ta tại sao họ không được trả tiền lương tối thiểu, hoặc bởi vì nhân viên đó nộp đơn, hoặc đe dọa nộp đơn yêu cầu tới bộ lao động), nhân viên đó có thể khiếu nại sự đối xử/ phân biệt/ trả thù tới văn phòng bộ lao động.
Chút ngỗ ngáo tom-boy. Màu sắc mùa thu hài hòa với tông nâu vàng đen, áo choàng dài, giày thể thao, đế thấp và bằng, thích hợp với những người có vóc dáng cao thon.
Bộ Nội An và Bộ Ngọai Giao Hoa Kỳ vừa loan báo những kế họach nhằm đưa ra khá nhiều điều lệ mới về di trú trong vài tháng sắp tới. Những quy luật này sẽ áp dụng cho những du khách xin chiếu khán công việc B-1, sinh viên du học với chiếu khán F1, những người chuyên nghiệp xin chiếu khán làm việc H1B và chiếu H4 dành cho người phối ngẫu của họ, và chiếu khán L-1.
Tin tức về việc Hạ Viện với đại đa số dân biểu Dân Chủ đã chính thức bỏ phiếu thông qua 2 điều khoản luận tội Tổng Thống Hoa Kỳ Donald Trump hôm 18 tháng 12 đã gây sự chú ý đặc biệt trên khắp thế giới.
Đại Sứ Trung Quốc tại Thụy Điển là ông Quế Tòng Hữu đã bị các Nghị Sĩ Thụy Điển đòi trục xuất vì ông này đã nhiều lần phát ngôn uy hiếm Thụy Điển vì Hội Nhà Văn Thụy Điển đã trao giải thưởng Tucholsky cho một nhà văn và nhà xuất bản người Thụy Điển gốc Hồng Kông
Tô Kiều Ngân tên thật Lê Mộng Ngân, ông sinh năm 1926 tại Huế. Từ nhỏ ông đã sớm tỏ ra có chất nghệ sĩ, thường trốn học, đi chơi đó đây với cây sáo trúc không mấy khi rời tay.
Trung Tâm Công Giáo Việt Nam tọa lạc tại 1538 N. Century Blvd, Santa Ana, CA 92703, được hình thành vào năm 1975, với một số người Công Giáo tỵ nạn tại Orange County, với lúc đầu chỉ chừng 3,000, nhưng tới năm 1982 con số nầy đã tăng lên tới 7,000. Tuy đã có Thánh Lễ bằng tiếng Việt tại 9 nhà thờ của giáo xứ, nhưng họ vẫn thấy cần một nơi để sinh hoạt theo phong tục của người Việt.
Bị nước Tàu đô hộ ngàn năm, Việt Nam không bị đồng hóa mà vẫn giữ được truyền thống dân tộc. Tiếng nói, chữ viết, cách ăn mặc, tập tục, phong thái...và nói chung, mọi thứ đều là Việt Nam. Chuyện đó ai cũng biết.
Nhà thơ Nguyễn Đức Sơn quê gốc làng Thanh Lương, huyện Hương Trà, Thừa Thiên Huế. Ông sinh ngày 18 tháng 11 năm 1937 tại làng Dư Khánh, tỉnh Ninh Thuận.
Tôi từng bị ám ảnh không biết sau khi mình chết đi thì mọi việc sẽ như thế nào. Và thế là vào một đêm, tôi quyết định giả chết.
Lời tòa soạn: Những câu thơ dị thường viết bởi một thi sĩ dị thường! Đó là lời giới thiệu cho tập thơ Thơ và Đá của thi sĩ Nguyễn Đức Sơn, do NXB Văn Học Press phối hợp với tổ chức Culture Art Education Resource xuất bản và phát hành tháng 12 năm 2019. Nhân dịp này Việt Báo hân hạnh được trao đổi đôi lời với cô Nguyễn Đức Phương Bối, ái nữ của nhà thơ. (Hiện nay chị Phương Bối vẫn sinh sống tại Việt Nam, trên mảnh đất do chính nhà thơ gầy dựng từ sau cuộc đổi đời 1975.) Dưới đây là nội dung cuộc nói chuyện.
Lời tòa soạn: Được biết tập thơ Thơ và Đá của thi sĩ Nguyễn Đức Sơn là nỗ lực của NXB Văn Học Press và tổ chức Culture Art Education Exchange Resource liên kết thực hiện. Đây là tập thơ của một nhà thơ vốn được xem là một trong những thi sĩ lớn nhất của văn học miền Nam Việt Nam, giai đoạn 54-75. Tập thơ quy tụ những bài thơ chưa bao giờ được công bố cho đến ngày hôm nay. Nhân dịp này Việt Báo hân hạnh được tiếp chuyện cô Đào Nguyên Dạ Thảo, người đã bỏ ra rất nhiều công sức cho đề án này.
Lời tòa soạn: Gần đây, nhiều ý kiến, tranh cãi gay gắt về vai trò và công trạng sáng lập chữ quốc ngữ, đặc biệt xung quanh nhà truyền giáo người Bồ Đào Nha Alexandre de Rhodes. Việt Báo xin trích đăng lại bài viết của tác giả Mai Kim Ngọc trong mục VVNM năm 2013, bài viết là một tham khảo kỹ lưỡng về chữ quốc ngữ và vai trò của Alexandre de Rhodes, và tác giả đề cập đến sự “vô phép” trong Phép Giảng Ngày khi người tu sĩ Đắc Lộ này nói về Tam Giáo của nước chủ nhà.
Tháng 12 năm 2019 đánh dấu 64 năm phong trào đấu tranh cho dân quyền tại Mỹ mà người đi đầu là Rosa Parks, một phụ nữ gốc Phi Châu sinh trưởng tại tiểu bang Alabama, Miền Đông Nam Hoa Kỳ.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.