Hôm nay,  

Ai có thể làm chói sáng cõi này? / Who can illuminate this world?

01/03/202520:47:00(Xem: 3729)
blank
 
Ai có thể làm chói sáng cõi này?
   
Nguyên Giác

   
Khi chúng ta đọc Kinh Phật, thường gặp những hình ảnh nói về sự chói sáng. Có Kinh nói rằng, nguồn của ánh sáng là Đức Phật, sáng hơn cả mặt trời và mặt trăng. Đó là Kinh SN 1.26 Sutta. Trong khi đó, Kinh AN 1.41-50 Sutta nói rằng nguồn của ánh sáng là tâm vốn có sẵn tánh sáng chói, nhưng bị bụi cấu uế bám vào, và tâm này sẽ chói sáng sau khi gột rửa bụi.
   
Trong một hình ảnh khác, chúng ta đọc thấy Kinh AN 4.7 Sutta ghi rằng, ngay cả người nam cữ sĩ và nữ cư sĩ, giữ năm giới và hành trì Chánh pháp là cũng đủ để hiển lộ ánh sáng trong tứ chúng. Nghĩa là, chưa phải là bậc giải thoát, chúng ta cũng có thể làm chói sáng những nơi chúng ta bước vào. Thực vậy, rất nhiều Kinh ghi rằng, một vị cõi thiên khi hiện ra đều làm chói sáng một góc rừng. Chúng ta đều biết rằng, các vị thiên chủ yếu là có phước đức, nhưng chưa hẳn là họ có đủ trí tuệ giải thoát.
   
Có một kinh rất đặc biệt nói về ánh sáng: Kinh MN 32 Sutta ghi câu hỏi của ngài Sāriputta rằng hạng Tỷ-kheo nào có thể làm chói sáng khu rừng Gosinga. Điều lý thú là, có nhiều câu trả lời.
   
. Ngài Ananda trả lời rằng nhà sư học nhiều sẽ có thể làm chói sáng  khu rừng Gosinga.
. Ngài Revata trả lời rằng nhà sư ưa nơi u tịch, thiền định thường trực trong chỉ và quán sẽ có thể làm chói sáng  khu rừng Gosinga.
. Ngài Anuruddha nói rằng nhà sư nào đắc thiên nhãn thần thông sẽ có thể làm chói sáng khu rừng Gosinga.
. Ngài Kassapa nói rằng vị sư nào sống hạnh đầu đà, giới hạnh viên mãn, sẽ có thể làm chói sáng  khu rừng Gosinga. Điều chú ý: hạnh đầu đà mà Ngài Kassapa nói nơi đây là ẩn cư trong núi rừng, không nói về du hành đường xa.
. Ngài Moggallāna nói rằng các vị sư giỏi về luận thuyết, xuất sắc tranh biện, nắm vững các pháp A Tỳ Đàm, sẽ có thể làm chói sáng  khu rừng Gosinga.
. Ngài Sāriputta nói rằng nhà sư nào điều phục được tâm dễ dàng trong sáng, trưa, chiều, tối là sẽ có thể làm chói sáng  khu rừng Gosinga.
   
Như thế là sáu câu trả lời từ sáu vị tăng nổi bật của Thế Tôn. Quý ngài thắc mắc, nên tới kể lại cho Đức Phật. Câu trả lời của Đức Phật đơn giản rằng, cả sáu câu trả lời đều đúng, rằng sáu khuynh hướng tu hánh tinh tấn như thế đều có thể làm chói sáng khu rừng Gosinga. Rồi Đức Phật cho câu trả lời thứ bảy, rằng bất kỳ vị sư nào tinh tấn thiền định đều có thể làm chói sáng  khu rừng Gosinga.
   
Nơi đây, chúng ta sẽ tuần tự nói về các Kinh vừa dẫn. Tất cả phần tiếng Việt là từ bản dịch của Thầy Minh Châu.
   
Trong Kinh SN 1.26 Sutta, Đức Phật nói rằng ngài là nguồn sáng tối thắng, sáng hôn mặt trời, mặt trăng, lửa cháy. Kinh SN 1.26 Sutta ghi như sau:
   
Bốn vật chiếu sáng đời,
Thứ năm, đây không có.
Ngày, mặt trời sáng chói,
Đêm, mặt trăng tỏ rạng,
Lửa cháy đỏ đêm ngày,
Chói sáng khắp mọi nơi.
Chánh giác sáng tối thắng,
Sáng này, sáng vô thượng.
   
Trong Kinh AN 1.41-50 Sutta, Đức Phật nói về tâm sáng chói khi gột sạch cấu uế. Kinh AN 1.41-50 Sutta ghi như sau.
   
"Tâm này, này các Tỷ-kheo, là sáng chói, nhưng bị ô nhiễm bởi các cấu uế từ ngoài vào.
Tâm này, này các Tỷ-kheo, là sáng chói và tâm này được gột sạch các cấu uế từ ngoài vào."
   
Trong khi đó, Kinh AN 4.7 Sutta ghi lời Đức Phật dạy rằng bất kỳ vị sư, vị ni, vị nam cư sĩ, và vị nữ cư sĩ nào cũng có thể làm chói sáng được. Kinh AN 4.7 Sutta ghi như sau:
   
"Có bốn hạng người này, này các Tỷ-kheo, thông minh, được huấn luyện, không sợ hãi, nghe nhiều, trì pháp, thực hành pháp, tùy pháp, chói sáng tăng chúng. Thế nào là bốn?
Tỷ-kheo, này các Tỷ-kheo, thông minh, được huấn luyện, không sợ hãi, nghe nhiều, trì pháp, thực hành pháp, tùy pháp, chói sáng tăng chúng. Tỷ-kheo-ni, này các Tỷ-kheo, … nam cư sĩ, này các Tỷ-kheo, … , nữ cư sĩ, này các Tỷ-kheo, thông minh, được huấn luyện, không sợ hãi, nghe nhiều, trì pháp, thực hành pháp, tùy pháp, chói sáng tăng chúng."
   
Trong khi đó, trong Kinh MN 32 Sutta Tôn giả Sāriputta nêu câu hỏi: Hạng Tỷ-kheo nào có thể làm chói sáng khu rừng Gosinga?
   
Ngài Ananda đáp: "Ở đây, này Hiền giả Sāriputta, Tỷ-kheo nghe nhiều, gìn giữ điều đã nghe, tích tụ điều đã nghe. Những pháp sơ thiện, trung thiện, hậu thiện, văn nghĩa cụ túc, nói lên phạm hạnh hoàn toàn thanh tịnh, những pháp ấy được vị ấy nghe nhiều và gìn giữ kỹ, được lập lại lớn tiếng, được ý tư duy, được tri kiến khéo quán sát; vị ấy thuyết pháp cho bốn hội chúng với văn cú viên dung, lưu loát, với mục đích đoạn trừ mọi tùy miên. Này Hiền giả Sāriputta, hạng Tỷ-kheo này có thể làm sáng chói khu rừng Gosinga."
   
Ngài Revata đáp: "Ở đây, này Hiền giả Sāriputta, Tỷ-kheo ưa thích đời sống tịnh cư, vui thú đời sống tịnh cư, nội tâm tu pháp, tịnh chỉ, không gián đoạn thiền định, thành tựu quán hạnh, luôn luôn lui tới các chỗ không tịch. Này Hiền giả Sāriputta, hạng Tỷ-kheo này có thể làm sáng chói khu rừng Gosinga."
   
Ngài Anuruddha đáp: "Ở đây, này Hiền giả Sāriputta, Tỷ-kheo, với thiên nhãn thanh tịnh, siêu nhiên, quán sát ngàn thế giới. Này Hiền giả Sāriputta, ví như một người có mắt lên trên đỉnh một ngôi lầu tốt đẹp, quán sát một ngàn đường vòng xung quanh. Cũng vậy, này Hiền giả Sāriputta, Tỷ-kheo, với thiên nhãn thanh tịnh, siêu nhiên, quán sát ngàn thế giới. Này Hiền giả Sāriputta, hạng Tỷ-kheo như vậy có thể làm sáng chói khu rừng Gosinga."
   
Ngài Kassapa đáp: "Ở đây, này Hiền giả Sāriputta, Tỷ-kheo, tự mình sống ở rừng núi và tán thán đời sống ở rừng núi, tự mình sống khất thực, và tán thán đời sống khất thực, tự mình mặc y phấn tảo và tán thán hạnh mặc y phấn tảo, tự mình sống với ba y và tán thán hạnh ba y, tự mình sống thiểu dục và tán thán hạnh thiểu dục, tự mình sống biết đủ và tán thán hạnh biết đủ, tự mình sống độc cư và tán thán hạnh sống độc cư, tự mình sống không nhiễm thế tục và tán thán hạnh không nhiễm thế tục, tự mình tinh cần, tinh tấn và tán thán hạn tinh cần, tinh tấn, tự mình thành tựu giới hạnh và tán thán sự thành tựu giới hạnh, tự mình thành tựu Thiền định và tán thán sự thành tựu thiền định, tự mình thành tựu trí tuệ và tán thán sự thành tựu trí tuệ, tự mình thành tựu giải thoát và tán thán sự thành tựu giải thoát, tự mình thành tựu giải thoát tri kiến và tán thán sự thành tựu giải thoát tri kiến. Này Hiền giả Sāriputta, hạng Tỷ-kheo như vậy có thể làm sáng chói khu rừng Gosinga."
   
Ngài Moggallāna đáp: "Ở đây, này Hiền giả Sāriputta, hai Tỷ-kheo đàm luận về Abhidhamma (A-tỳ-đàm). Các vị ấy hỏi nhau câu hỏi, và khi được hỏi, các vị trả lời được với nhau chớ không dừng lại vì không trả lời được, và cuộc đàm luận về pháp được tiếp tục. Này Hiền giả Sāriputta, hạng Tỷ-kheo như vậy có thể làm sáng chói khu rừng Gosinga.”
   
Ngài Sāriputta đáp: "Ở đây, này Hiền giả Moggallāna, Tỷ-kheo điều phục được tâm, không phải Tỷ-kheo không điều phục được tâm. An trú quả nào vị ấy muốn an trú vào buổi sáng, vị ấy an trú quả ấy vào buổi sáng; an trú quả nào vị ấy muốn an trú vào buổi trưa, vị ấy an trú quả ấy buổi trưa; an trú quả nào vị ấy muốn an trú vào buổi chiều, vị ấy an trú quả ấy vào buổi chiều. Hiền giả Moggallāna, ví như một vị vua hay vị đại thần của vua có một tủ áo đựng đầy những áo có nhiều màu sắc khác nhau. Cặp áo nào nhà vua muốn mặc vào buổi sáng, nhà vua mặc cặp áo ấy vào buổi sáng; cặp áo nào nhà vua muốn mặc vào buổi trưa, nhà vua mặc cặp áo ấy vào buổi trưa; cặp áo nào nhà vua muốn mặc vào buổi chiều, nhà vua mặc cặp áo ấy vào buổi chiều. Cũng vậy, này Hiền giả Moggallāna, Tỷ-kheo điều phục được tâm, không phải Tỷ-kheo không điều phục được tâm. An trú quả nào Tỷ-kheo ấy muốn an trú vào buổi sáng, vị ấy an trú quả ấy vào buổi sáng; an trú quả nào Tỷ-kheo ấy muốn an trú vào buổi trưa, vị ấy an trú quả ấy vào buổi trưa; an trú quả nào vị Tỷ-kheo ấy muốn an trú vào buổi chiều, vị ấy an trú quả ấy vào buổi chiều. Này Hiền giả Moggallāna, hạng Tỷ-kheo như vậy có thể làm sáng chói khu rừng Gosinga."
   
Thế rồi các vị sư tới hỏi Đức Phật, và được trả lời như sau: "Này Sāriputta, tất cả đều lần lượt khéo trả lời. Và này các Ông hãy nghe Ta nói hạng Tỷ-kheo nào có thể làm sáng chói khu rừng Gosinga? Ở đây, này Sāriputta, Tỷ-kheo, sau buổi ăn, sau khi đi khất thực về, ngồi kiết-già, lưng thẳng, đặt niệm trước mặt, và nghĩ rằng: “Ta sẽ không bỏ ngồi kiết-già này cho đến khi tâm của ta được khéo giải thoát các lậu hoặc, không có chấp thủ”. Này Sāriputta, hạng Tỷ-kheo như vậy có thể làm sáng chói khu rừng Gosinga."
   
Tất cả các Kinh vừa dẫn trên, cho thấy rằng bất kỳ Phật tử nào, dù là tu sĩ hay cư sĩ, khi giữ giới hạnh và tu hành tinh tấn, đều có thể làm chói sáng một khu rừng. Và hình ảnh khu rừng nơi đây có thể hiểu là một khu rừng trong thiên nhiên, và cũng có thể hiểu là khu rừng trong tâm.
   
.... o ....
.... o ....
 
Who can illuminate this world?
   
Written and translated by Nguyên Giác

 
When we read the Buddhist scriptures, we frequently encounter imagery of radiance. One sutra states that the source of light is the Buddha, who is brighter than both the sun and the moon; this statement is found in the SN 1.26 Sutta. In contrast, the AN 1.41-50 Sutta asserts that the source of light is the mind, which is inherently luminous but obscured by defilements. This mind will shine once it has been purified of those impurities.
 
In another image, we read in the AN 4.7 Sutta that even male and female lay followers who observe the five precepts and practice the Dharma are capable of manifesting light within the four groups. This means that even if we have not yet attained liberation, we can still illuminate the spaces we enter. Indeed, many Suttas document that when a deva appears, he illuminates a corner of the forest. We all understand that devas are primarily endowed with virtue, but they do not necessarily possess liberating wisdom.

 
There is an exceptional sutta that discusses radiance: the MN 32 Sutta records Sāriputta's inquiry regarding what type of bhikkhu could illuminate the Gosinga forest. Interestingly, there are numerous answers provided.
 
. Venerable Ananda replied that a knowledgeable monk would be able to illuminate the Gosinga Forest.
. Venerable Revata replied that a monk who embraces solitude and consistently meditates in both samatha and vipassana would be able to illuminate the Gosinga forest.
. Venerable Anuruddha stated that a monk who has attained the supernatural power of the divine eye would be able to illuminate the Gosinga Forest.
. Kassapa stated that any monk who embraces the Dhutanga life—a life of asceticism and perfect morality—will be able to illuminate the Gosinga forest. It is important to note that the Dhutanga life Kassapa refers to involves living in seclusion in the mountains and forests rather than traveling great distances.
. Venerable Moggallāna stated that monks who excel in argumentation, are skilled in debate, and possess a profound understanding of the Abhidharma will be able to illuminate the Gosinga forest.
. Venerable Sāriputta stated that monks who can easily control their minds throughout the morning, noon, afternoon, and night will be able to illuminate the Gosinga forest.
 
These were the six responses from the six esteemed monks of the Buddha. The monks were perplexed, so they approached the Buddha to seek clarification. The Buddha's response was straightforward: all six answers were correct, as these six tendencies of diligent practice could illuminate the Gosinga forest. He then provided a seventh insight, stating that any monk who meditates diligently could also illuminate the Gosinga forest.
 
Here, we will sequentially quote from the previously cited Suttas.
 
In the SN 1.26 Sutta, the Buddha states that he is the supreme light, brighter than the sun, the moon, and fire. The SN 1.26 Sutta is presented as follows, according to Bhikkhu Bodhi's translation.
 
“There are four sources of light in the world;
A fifth one is not found here.
The sun shines by day,
The moon glows at night,
And fire flares up here and there
Both by day and at night.
But the Buddha is the best of those that shine:
He is the light unsurpassed.”
 
In the AN 1.41-50 Sutta, the Buddha spoke of the mind being clear and bright when it is free from defilements. The AN 1.41-50 Sutta reads as follows, according to Thanissaro Bhikkhu's translation.
 
“Luminous, monks, is the mind. And it is defiled by incoming defilements.”
“Luminous, monks, is the mind. And it is freed from incoming defilements.”
 
Meanwhile, the AN 4.7 Sutta records the Buddha's teaching that any monk, nun, male lay follower, or female lay follower can shine. The AN 4.7 Sutta states the following, according to Bhikkhu Bodhi's translation.
   
“Bhikkhus, these four kinds of persons who are competent, disciplined, self-confident, learned, experts on the Dhamma, practicing in accordance with the Dhamma, adorn the Saṅgha. What four?
(1) “A bhikkhu who is competent, disciplined, self-confident, learned, an expert on the Dhamma, practicing in accordance with the Dhamma, adorns the Saṅgha. (2) A bhikkhunī who is competent … (3) A male lay follower who is competent … (4) A female lay follower who is competent, disciplined, self-confident, learned, an expert on the Dhamma, practicing in accordance with the Dhamma, adorns the Saṅgha."
 
Meanwhile, in the MN 32 Sutta, Venerable Sāriputta asks, "What kind of monastic can illuminate the Gosinga forest?" The following answers are according to the translation by I.B. Horner.
 
Venerable Ananda replied: “In this case, reverend Sāriputta, a monk comes to be one who has heard much, who masters what he has heard, who stores what he has heard; those teachings which are lovely at the beginning, lovely in the middle, lovely at the end, which with the spirit and the letter declare the Brahma-faring which is completely fulfilled, utterly pure-such teachings come to be much heard by him, borne in mind, repeated out loud, pondered over in the mind, well comprehended by view; he teaches Dhamma to the four assemblies with correct and fluent lines and sentences for the rooting out of (latent) propensities. By a monk of such a type, reverend Sāriputta, would the Gosiṅga sāl-wood be illumined.”
 
Venerable Revata replied: “In this connection, reverend Sāriputta, a monk delights in solitary meditation, he is delighted by solitary meditation, he is intent on mental tranquillity within, his meditation is uninterrupted, he is endowed with vision, a cultivator of empty places. By a monk of such a type, reverend Sāriputta, would the Gosiṅga sāl-wood be illumined.”
 
Venerable Anuruddha replied: “In this connection, reverend Sāriputta, a monk surveys the thousand worlds with purified deva-vision surpassing that of men. Reverend Sāriputta, as a man with vision might survey a thousand concentric circles from the top of a long house, so, reverend Sāriputta, does a monk survey the thousand worlds with purified deva-vision, surpassing that of men. By a monk of such a type, reverend Sāriputta, would the Gosiṅga sāl-wood be illumined.”
   
Venerable Kassapa replied: “In this connection, reverend Sāriputta, a monk is both a forest-dweller himself and one who praises forest-dwelling; he is an almsman himself and one who praises being an almsman; he is a rag-robe wearer himself and one who praises the wearing of rag-robes; he wears three robes himself and is one who praises the wearing of three robes; he is of few wishes himself and is one who praises being of few wishes; he is contented himself and is one who praises contentment; he is aloof himself and is one who praises aloofness; he is ungregarious himself and is one who praises ungregariousness; he is of stirred up energy himself and is one who praises stirring up energy; he is possessed of moral habit himself and is one who praises success in moral habit; he is possessed of concentration himself and is one who praises success in concentration; he is possessed of intuitive wisdom himself and is one who praises success in intuitive wisdom; he is possessed of freedom himself and is one who praises success in freedom; he is possessed of the knowledge and vision of freedom himself and is one who praises success in the knowledge and vision of freedom. By a monk of such a type, reverend Sāriputta, would the Gosiṅga sāl-wood be illumined.”
 
Venerable Moggallāna replied: “In this connection, reverend Sāriputta, two monks are talking on Further Dhamma; they ask one another questions; in answering one another's questions they respond and do not fail, and their talk on Dhamma goes forward. By a monk of such a type, reverend Sāriputta, would the Gosiṅga sāl-wood be illumined.”
   
Venerable Sāriputta replied: "Reverend Moggallāna, as a king or a king's chief minister might have a chest for clothes filled with differently dyed cloths, so that no matter which pair of cloths he wished to put on in the morning, he could put on that self-same pair of cloths in the morning; no matter which pair of cloths he wished to put on at midday, he could put on that self-same pair of cloths at midday; no matter which pair of cloths he wished to put on in the evening, he could put on that self-same pair of cloths in the evening-even so, reverend Moggallāna, a monk rules over mind, is not under mind's rule; whatever attainment of abiding he wishes to abide in in the morning, in that attainment of abiding he abides in the morning; whatever attainment of abiding he wishes to abide in at midday, in that attainment of abiding he abides at midday; whatever attainment of abiding he wishes to abide in in the evening, in that attainment of abiding he abides in the evening. By a monk of such a type, reverend Moggallāna, would the Gosiṅga sāl-wood be illumined.”
   
Then the monks approached the Buddha and received the following response: “It was well spoken by you all in turn, Sāriputta. But now hear from me by what type of monk the Gosiṅga sāl-wood would be illumined. In this connection, Sāriputta, a monk, returning from alms-gathering after the meal, sits down cross-legged, the back erect, having raised up mindfulness in front of him, and thinking: ‘I will not quit this cross-legged (position) until my mind is freed from the cankers without any residuum (for rebirth) remaining.’ By such a type of monk, Sāriputta, would the Gosiṅga sāl-wood be illumined.”
   
All the aforementioned Suttas demonstrate that any Buddhist, whether a monastic or a layperson, can illuminate a forest by adhering to the precepts and practicing diligently. We can interpret this image of the forest as both a natural forest and a mental forest.
 
THAM KHẢO / REFERENCE:
 
- SN 1.26 Sutta:
HT Minh Châu: https://suttacentral.net/sn1.26/vi/minh_chau
Bhikkhu Bodhi: https://suttacentral.net/sn1.26/en/bodhi
 
- AN 1.41-50 Sutta:
HT Minh Châu: https://suttacentral.net/an1.41-50/vi/minh_chau
Thanissaro Bhikkhu: https://suttacentral.net/an1.41-50/en/thanissaro
 
- AN 4.7 Sutta:
HT Minh Châu: https://suttacentral.net/an4.7/vi/minh_chau
Bhikkhu Bodhi: https://suttacentral.net/an4.7/en/bodhi
 
- MN 32 Sutta:
HT Minh Châu: https://suttacentral.net/mn32/vi/minh_chau
I.B. Horner: https://suttacentral.net/mn32/en/horner

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Công an CSVN đã bắt nhà báo và blogger Nguyễn Tường Thụy, Phó Chủ Tịch Hội Nhà Báo Độc Lập, tại Hà Nội hôm 23 tháng 5 năm 2020, với cáo buộc “làm, tàng trữ, phát tán thông tin, tài liệu, vật phẩm nhằm chống nhà nước,” theo bản tin của Đài Á Châu Tự Do (RFA) cho biết hôm Thứ Bảy.
Chủ đề : MIỀN NAM TRƯỚC VÀ SAU 1975 -- GIẢI NHẤT : 15.000 US dollars ; GIẢI NHÌ : 5000 US dollars .-- Thời gian nhận bài: thay vì đến cuối tháng 5/2020 sẽ gia hạn tới cuối tháng 12/2020
Hôm nay, Quận Cam đã được sự chấp thuận của Tiểu Bang California cho phép mở cửa trở lại Thêm Giai Đoạn 2 các hoạt động theo phương thức cho phép mở của trở lại của Thống Đốc Gavin Newsom. Các cư dân Quận Cam có thể thưởng thức trở lại việc ăn uống bình thường tại các nhà hàng và đi mua sắm tại các trung tâm thương mại, bao lâu mà các biện pháp y tế công cộng được tuân thủ
Khối Euro (Eurozone) gồm 19 quốc gia Âu Châu dùng chung đồng Euro. Khối Euro được hình thành trong mục đích thúc đẩy mậu dịch khi không còn phải hoán chuyển giữa các đơn vị tiền tệ riêng lẻ của mỗi nước thành viên. Ít ai ngờ rằng chính lợi thế này của đồng Euro lại trở thành sợi dây lòi tói cột chặc nhiều nước chết chùm trong cơn khủng hoảng!
Theo như thư lời của TBT Nguyễn Phú Trọng thì đây là cách “tạo điều kiện thuận lợi để Hội Nhà báo Việt Nam, giới báo chí hoàn thành tốt nhiệm vụ.” Trừ khử mọi ngòi bút đối lập cho khỏi vướng thì đúng là Đảng đã “tạo điều kiện thuận lợi cho giới báo chí hoàn thành tốt nhiệm vụ” rồi. Chỉ có điều đáng tiếc là tuy được độc quyền (múa gậy vường hoang) nhưng đội ngũ cầm bút quốc doanh cũng chả thực hiện được điều chi tốt đẹp, nếu chưa muốn nói là ngược lại.
Người Mỹ gốc Á trong các lĩnh vực như dược phẩm, kinh doanh và giáo dục đang chứng minh tầm quan trọng của việc thống kê chính xác trong Thống Kê Dân Số 2020. Trong những năm vừa rồi, Tháng Di Sản của Người Mỹ Gốc Á và Người Mỹ Gốc Đảo Thái Bình Dương (AAPI) chỉ là khoảng thời gian để tôn vinh tầm ảnh hưởng ngày càng lớn rộng của cộng đồng người Mỹ gốc Á thông qua việc vinh danh các thành tựu gần đây của các cá nhân và tập thể. Năm nay, tháng này còn có ý nghĩa nhiều hơn thế nữa. Trong khi tháng Di Sản AAPI vẫn trân trọng những người đã giúp nâng cao cộng đồng, có rất nhiều các tổ chức đang vinh danh những người có đóng góp đặc biệt cho cộng đồng trong thời buổi bị dịch bệnh COVID-19.
Các lệnh ở trong nhà dùng để ngăn chận sự lây lan của vi khuẩn corona có thể đưa đến việc gây ra “thiệt hại không thể khắc phục” nếu kéo dài quá lâu, theo cố vấn y tế Bạch Ốc là Bác Sĩ Anthony Fauci nói với CNBC hôm Thứ Sáu, 22 tháng 5. “Tôi không muốn mọi người nghĩ rằng bất cứ ai trong chúng ta cảm thấy rằng tiếp tục lệnh phong tỏa qua thời gian dài là cách để làm,” theo Fauci cho biết trong cuộc phỏng vấn với Meg Tirrell của CNBC trên chương trình “Halftime Report.” Ông nói rằng Hoa Kỳ phải đặt ra các biện pháp nghiêm túc bởi vì các trường hợp bị lây Covid-19 bùng nổ. “Nhưng bây giờ là lúc, tùy theo nơi nào bạn ở và hoàn cảnh của bạn là gì, để bắt đầu xem xét nghiêm túc việc tái mở cửa kinh tế, tái mở cửa đất nước để cố gắng trở lại một số cấp độ của sinh hoạt bình thường.”
Tổng Thống Donald Trump hôm Thứ Sáu, 22 tháng 5, đã yêu cầu các thống đốc tái mở cửa các nhà thờ, các giáo đường và nhà thờ Hồi giáo “ngay bây giờ,” và đe dọa sẽ “phủ bác” các hạn chế của các nhà lãnh đạo tiểu bang nếu họ không làm thế vào cuối tuần. Tuyên bố ngạc nhiên đánh dấu nỗ lực mới nhất của tổng thống để tăng tốc vốn liếng chính trị chung quanh các nỗ lực phục hồi từ vi khuẩn corona. Ông đang đối diện cuộc tái tranh cử khó khăn chống lại ứng cử viên đề cử của đảng Dân Chủ Joe Biden.
Thượng Nghị Sĩ Tom Umberg vinh danh "Tháng Di sản Người Mỹ Châu Á và Thái Bình Dương- Asian American Pacific Islander Heritage Month" vào tháng Năm này bằng cách ghi nhận những đóng góp to lớn cho quốc gia bởi nhiều thế hệ của cộng đồng người Mỹ gốc Châu Á Thái Bình Dương (AAPI). Nhất là khi Tháng Di sản Châu Á Thái Bình Dương năm nay xảy ra trong đại dịch COVID-19 như là một trắc nghiệm cho sức mạnh của đất nước chúng ta, Thượng Nghị Sĩ Umberg tiếp tục dành thời gian và nỗ lực của bản thân cùng nhân viên của ông để hỗ trợ cộng đồng AAPI ở Quận Cam và toàn tiểu bang California.
Nhằm biến đảo nhân tạo trở thành đảo thực sự được Công Ước Liên Hiệp Quốc Về Luật Biển (UNCLOS) công nhận với mục đích áp đặt chủ quyền quốc gia lên các đảo này, TQ đã tiến hành việc trồng rau trên đảo Phú Lâm thuộc quần đảo Hoàng Sa, theo bản tin của Đài Tiếng Nói Hoa Kỳ (VOA) cho biết hôm 22 tháng 5 năm 2020.
phải chánh niệm từng giây từng phút, đừng để tâm lang thang như nóc nhà bị dột, thì lập tức phiền não lọt vào. Nếu làm được một phần thôi thì trí tuệ sẽ sáng như gương, tấm lòng đẹp như lụa là, uy nhiên tự tại, sống giữa trần gian mà thấy như đang ở quốc độ hay cung trời.
Trong mùa thi cử, sinh viên hay dùng cà-phê để có thể thức khuya gạo bài… Trong hãng xưởng, công nhân thường được phép nghỉ xả hơi 15 phút sau hai tiếng đồng hồ làm việc, gọi là pause de café hay coffee break để nghỉ xả hơi, để uống cà-phê hay để tán ngẫu, vân vân. Cũng có khi nhờ ai giúp mình một việc nào đó, thì mình hay trả công cho họ bằng một ít tiền cà phê cà pháo hay tiền tip cho nó vui vẻ cả làng. Nhưng cà-phê dễ bị ghiền nếu uống thường xuyên.
Đây là rối loạn về sự tiêu hóa mà tiếng Anh gọi là Anorexia nervosa với đặc tính là bệnh nhân từ chối ăn.Người bệnh có quan niệm sai về cơ thể của mình và ám ảnh sợ bị mập vì họ cứ nghĩ là mình mập mặc dù khi cân thì lại là gầy.
Nhiều đương đơn đã nhận được thư mời phỏng vấn vào tháng 5- 2020. Tuy nhiên, không có những cuộc phỏng vấn cấp chiếu khán di dân được tiến hành cho đến ngày hôm nay. Cho dù nhận được thư phỏng vấn gần đây, các đương đơn không nên đến Tòa Lãnh sự khi trang mạng của Tòa Lãnh sự vẫn loan báo các cuộc phỏng vấn bị hủy bỏ.
Tất cả các tiểu bang tại Hoa Kỳ đều tái mở cửa từng phần hôm Thứ Tư, 20 tháng 5 khi Connecticut nới lỏng các hạn chế vi khuẩn corona dù ít nhất 17 tiểu bang đang chứng kiến sự gia tang các trường hợp lây nhiễm Covid-19, theo CNN cho biết. Connecticut hôm Thứ Tư cho phép, với các hạn chế, người dân sử dụng không giản ăn uống bên ngoài trời, các văn phòng, các tiệm bán lẻ và thương xá, các viện bảo tang và sở thú, theo CNN cho hay.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.