Hôm nay,  

Đọc Ngô Thì Nhậm: Vạn Pháp Là Một

10/07/202508:01:00(Xem: 2168)
blank 

Đọc Ngô Thì Nhậm: Vạn Pháp Là Một

Nguyên Giác

 

Bài viết này sẽ phân tích lời dạy của sách Trúc Lâm Tông Chỉ Nguyên Thanh về ý chỉ Thiền Tông: vạn pháp đều là một. Sách Trúc Lâm Tông Chỉ Nguyên Thanh là một tác phẩm về Thiền Tông Việt Nam xuất bản lần đầu vào năm 1796. Tác phẩm này được in trong Ngô Thì Nhậm Toàn Tập - Tập V, ấn hành năm 2006 tại Hà Nội, do nhiều tác giả trong Viện Nghiên Cứu Hán Nôm biên dịch.
 

Những lời dạy trong sách này mang phong cách Thiền Tông Việt Nam, vì ngài Ngô Thì Nhậm (1746-1803) khi rời quan trường đã xuất gia, trở thành vị sư có tên là Hải Lượng Thiền Sư, và được nhiều vị sư tôn vinh là vị Tổ Thứ Tư của Dòng Thiền Trúc Lâm. Tất cả các vị sư khác trong sách đều nói trong tông phong này.  Nơi đây, chúng ta trích nơi trang 412, nguyên văn như sau:

 
blank

(Trích)“Trọng Ni nói: "Nhìn từ góc độ khác nhau, thì là gan với mật, như nước Sở với nước Việt vậy (1). Nhìn từ góc độ giống nhau, thì vạn vật đều là một. Cái gì ra từ ở chỗ nào thì cũng đi vào ở chỗ đó, không từ chỗ nào ra mà cũng không đi vào chỗ nào, thế gọi là đại thông (hết sức thông suốt).

CHÚ THÍCH:

(1) Tự kỳ đị giả thị chi, can đảm Sở, Việt dã: Câu này ở thiên Đức sung phù, sách Trang Tử, chứ không phải của Trọng Ni.” (ngưng trích)

 

Chú thích trên là của Viện Nghiên Cứu Hán Nôm, muốn nói rằng câu trích dẫn trên là của Trang Tử, không phải của Trọng Ni.
 

Nơi đây, chúng ta ghi chú thêm, rằng Trọng Ni chính là tự danh của Khổng Tử – vị có tên thật là Khổng Khâu. Trong truyền thống Trung Hoa, người có học thường có “tự” (tên gọi dùng trong giao tiếp trang trọng), và “Trọng Ni” là cách gọi thể hiện sự kính trọng dành cho Khổng Tử. Khổng Tử không phải là nhân vật thuộc Đạo giáo, mà là người sáng lập Nho giáo. Ông sống vào thời Xuân Thu (551–479 TCN) và được xem là một trong những bậc thầy vĩ đại nhất trong lịch sử Trung Hoa. Tư tưởng của Khổng Tử nhấn mạnh đạo đức, lễ nghi, nhân nghĩa và giáo dục – khác biệt với Đạo giáo, vốn thiên về tự nhiên, vô vi và huyền học.
 

Tóm gọn ý của Trúc Lâm Tông Chỉ Nguyên Thanh nơi đây là: vạn vật đều là một.

Ý chỉ chỗ này dễ nhầm lẫn, nếu nói rằng có một cái gì là một, thì đều không nên. Nếu nói rằng không có gì có thể để gọi là một, hay là hai, hay là nhiều, thì cũng đều không nên. Nói chung, khi dùng tới văn tự là sẽ thấy vương vướng, như dường không ổn, vì cứ tưởng như là có cái gì.
 

Trong bài Bát Nhã Tâm Kinh, câu đầu là nói Sắc chính là Không, và Không chính là Sắc. Khi nhìn tất cả là Không, chúng ta thấy hiển nhiên rằng vạn vật đều là Không. Sắc chính là những gì được thấy, được nghe, được ngửi, được nếm, được chạm xúc, được suy nghĩ tư lường. Khi tất cả là Không, chúng ta có thể tạm gọi vạn vật là một. Ý này nằm trong lời Đức Phật dạy về pháp ấn rằng tất cả hữu vi pháp đều là vô thường, vô ngã, khổ, không.
 

Trong Kinh SN 22.95, Đức Phật giải thích rằng sắc chính là không, rằng sắc, thọ, tưởng, hành, thức đều là như đống bọt, như bong bóng nước, như ráng mặt trời, như cây chuối (lột vỏ không tìm ra tự ngã), như trò ảo thuật. Bản dịch Thầy Minh Châu viết, trích:
 

Ví như, này các Tỷ-kheo, sông Hằng này chảy mang theo đống bọt nước lớn. Có người có mắt nhìn đống bọt nước ấy, chuyên chú, như lý quán sát. Do nhìn chuyên chú, như lý quán sát nó, đống bọt nước ấy hiện rõ ra là trống không, hiện rõ ra là rỗng không, hiện rõ ra là không có lõi cứng. Làm sao, này các Tỷ-kheo, lại có lõi cứng trong đống bọt nước được? Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, phàm có sắc gì thuộc quá khứ, vị lai, hiện tại, hoặc nội hay ngoại, hoặc thô hay tế, hoặc liệt hay thắng, hoặc xa hay gần; vị Tỷ-kheo thấy sắc, chuyên chú, như lý quán sát sắc. Do vị Tỷ-kheo nhìn chuyên chú, như lý quán sát sắc, sắc ấy hiện rõ ra là trống không, hiện rõ ra là rỗng không, hiện rõ ra là không có lõi cứng.” (ngưng trích)
 

Người nào thấy được thực tướng các pháp, sẽ không còn thấy có tướng nam hay tướng nữ hiện lên. Khi tâm chúng ta chỉ thấy các uẩn hiện lên, và không còn thấy tướng nam hay tướng nữ nữa, thì tức khắc sẽ thấy vạn vật là một, hay nói ngược lại cũng đúng, rằng tất cả các pháp đều bất khả đắc. Do vậy, nói cho gọn thì là vạn pháp là một. Nói mặt khác, sẽ nói rằng không một lời nào có thể nói. Chỉ có thể nói rằng, các pháp nó như thế là như thế.
 

Trong Kinh SN 5.2, ghi lại rằng Tỳ kheo ni Soma khất thực ở Sāvatthi xong, sau bữa ăn, trên con đường khất thực trở về, Tỷ kheo ni đi đến rừng Andha để nghỉ ban ngày. Sau khi đi sâu vào rừng, ngài ngồi dưới một gốc cây để nghỉ ban ngày. Ác ma hiện ra chọc ghẹo Tỳ kheo ni Soma.
 

Tỳ kheo ni Soma trả lời, theo bản dịch của Thầy Minh Châu, rằng hễ còn thấy có tướng nam hay tướng nữ là sẽ còn bị rơi vào trò của Ác ma, trích:

Ai tự mình tìm hỏi:

“Ta, nữ nhân, nam nhân,

Hay ta là ai khác?”

Xứng nói chuyện Ác ma,

Ác ma thật cân xứng.

 

Cho nên, thực tướng các pháp chính là Không tướng. Và chúng ta gọi là một thì cũng được, gọi là không thì cũng được. Bát Nhã Tâm Kinh gọi đó là bất dị, tức là không khác. Vậy thì, một hay nhiều đều không có tướng để được thấy. Tương tự, hãy hình dung rằng tất cả hình ảnh xanh đỏ tím vàng, cao thấp vuông tròn đều hiện trước tánh phản chiếu của gương tâm. Các hình ảnh liên tục hiện ra rồi biến mất, nhưng tánh phản chiếu của gương không biến mất theo ảnh, không chạy theo ảnh. Cũng vậy, những âm thanh, tiếng chim kêu, tiếng lá xào xạc liên tục tới bên tai rồi biến mất, rồi khởi lên rồi biến mất. Nhưng tánh nghe của chúng ta không chạy theo các âm thanh biến mất.
 

Có thể gọi tánh phản chiếu của gương tâm là một, khi hiện lên vô lượng ảnh hình. Có thể gọi tánh nghe là một, khi hiện lên vô lượng âm thanh. Nhưng trong tận cùng các pháp, không có một cái gì có thể nắm bắt được, nên gọi là một thì chỉ là tạm gọi. Cũng như cách gọi toàn sóng là nước, toàn tướng là tánh, và ngược lại. Nếu gọi tên nhầm là một pháp gì đó, thí dụ có tướng nam, hay tướng nữ đều là hỏng.
 

Trong tích truyện Kinh Pháp Cú số 43 kể chuyện rằng tướng nam hay tướng nữ chỉ là nghiệp, duyên thôi. Tích truyện tóm tắt như sau: Ngày xưa, tại tu viện Jetavana, Đức Phật kể về Soreyya, con trai một gia đình giàu có. Một hôm, cậu Soreyya đang đi xe ngựa sang trọng thì thấy Tỳ-kheo Mahakaccayana đang chỉnh y phục. Thấy vóc dáng và màu da vàng óng của ngài, cậu Soreyya chợt nảy sinh ý nghĩ sai trái: “Ước gì vị Tỳ-kheo này là vợ mình, hoặc vợ mình có làn da như ngài.” Ngay lập tức, Soreyya biến thành phụ nữ.
 

Xấu hổ, Soreyya bỏ trốn đến Taxila. Tại đây, cô gặp và kết hôn với một thiếu gia giàu có, sinh được hai con trai. Trước đó, khi còn là đàn ông, Soreyya cũng có hai con trai. Một lần, một người bạn cũ từ thành Soreyya đến Taxila. Soreyya nhận ra và mời anh ta đến. Khi biết đây chính là Soreyya đã mất tích, và nghe cô kể lại toàn bộ câu chuyện về ý nghĩ sai lầm và sự biến đổi giới tính, người bạn khuyên cô nên sám hối với Tỳ-kheo Mahakaccayana.
 

Soreyya mời Tỳ-kheo Mahakaccayana đến nhà cúng dường. Sau bữa ăn, cô thành tâm xin lỗi ngài. Tỳ-kheo Mahakaccayana nói: “Đứng dậy, ta tha thứ cho con.” Lập tức, Soreyya trở lại thành đàn ông. Soreyya nhận ra sự vô thường của thân tâm và cuộc sống, xin xuất gia theo Tỳ-kheo Mahakaccayana. Sau này, mọi người thường hỏi anh ta yêu thương những người con nào hơn. Ban đầu, anh nói yêu thương những người con do mình sinh ra hơn. Nhưng sau khi tu tập tinh tấn và đạt được A-la-hán, Soreyya không còn vướng bận tình cảm với bất kỳ ai.
 

Đức Phật xác nhận rằng Soreyya đã nói sự thật. Ngài dạy rằng, nhờ tâm ý hướng thiện, Soreyya đã đạt được trạng thái an lạc mà cha mẹ cũng không thể ban tặng.
 

Nghĩa là, vì chấp vào tướng nam hay tướng nữ, vì bị lôi cuốn bởi nhan sắc của tướng nam hay tướng nữ, chúng ta bị lôi kéo mãi trong cõi này. Cách duy nhất là thấy thực tướng chính là Không tướng, thì mới giải thoát.

Đức Phật cũng dạy rằng không hề có cái gì là tôi, là của tôi. Vậy thì, lấy cái gì để gọi là một hay nhiều. Tương tự, Tuệ Trung Thượng Sĩ dạy rằng muốn vượt qua dòng sông sinh tử, thì phải thấy tâm mình như con trâu đất, hễ xuống nước là tan ra. Cách nhìn như thế, nếu gọi vạn pháp là một thì chỉ là tạm gọi. Nhưng đúng ra, không một lời nào có thể nói được.
 

Trong Kinh SN 4.19, Đức Phật đối thoại với Ác ma. Kinh ghi lời Ác ma nói rằng, theo bản dịch của Thầy Minh Châu:

“Này Sa-môn, mắt là của ta, sắc là của ta, thức xứ do mắt xúc chạm là của ta. Này Sa-môn, Ngài có thể đi đâu để thoát khỏi ta? Này Sa-môn, tai là của ta, tiếng là của ta … Này Sa-môn, mũi là của ta, hương là của ta…  Này Sa-môn, lưỡi là của ta, vị là của ta… Này Sa-môn, thân là của ta, xúc là của ta… Này Sa-môn, ý là của ta, pháp là của ta, thức xứ do ý xúc chạm là của ta. Này Sa-môn, Ngài có thể đi đâu để thoát khỏi ta không?”(ngưng trích)
 

Đức Phật trả lời: “—Này Ác ma, mắt là của Ông, sắc là của Ông, thức xứ do mắt xúc chạm là của Ông. Và này Ác ma, chỗ nào không có mắt, không có sắc, không có thức xứ xúc chạm, thời chỗ ấy không có hành xứ của Ông, này Ác ma.” Và tương tự với tai, mũi, lưỡi, thân, ý...
 

Như thế, thấy không một pháp nào là ta, là tôi, là của tôi, là của ta... thì là giải thoát. Tạm gọi là một cũng được, tạm gọi là vô lượng như biển cũng được. Như thế, không thấy có cái gì là ta hay người, thì lấy chỗ nào mà đau khổ nữa.

.

THAM KHẢO:

. Kinh SN 22.95: Thân tâm như bọt sóng, như trò ảo thuật:

https://suttacentral.net/sn22.95/vi/minh_chau

. Kinh SN 5.2, không thấy tướng nam hay tướng nữ:

https://suttacentral.net/sn5.2/vi/minh_chau

. Kinh Pháp Cú, tích truyện 43:

https://www.tipitaka.net/tipitaka/dhp/verseload.php?verse=043

. Kinh SN 4.19: Mắt tai mũi lưỡi thân ý là của ma:

https://suttacentral.net/sn4.19/vi/minh_chau

 

 

 

 

 

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Một di sản văn hóa độc đáo của dân tộc Việt Nam vừa được Viện Việt Học trình bày trước công chúng: ấn hành tác phẩm “Tuồng Kim Vân Kiều: Truyện Kiều ở Nam Kỳ Lục Tỉnh” (Hồi 1/3) vừa được Giáo sư Nguyễn Văn Sâm phiên âm và giới thiệu
Phiên xử luận tội lần thứ 3 trong lịch sử Hoa Kỳ đã bắt đầu vào Thứ Năm, 16 tháng 1 năm 2020 giữa một loạt các cáo buộc mới về các thương lượng của TT Trump với Ukraine, mà nhiều nhà lập pháp Cộng Hòa đã vội vã hạ thấp mức độ quan trọng khi họ bác bỏ các lời kêu gọi của những nhà lập pháp Dân Chủ đòi điều tra thêm.
Trong vòng một thập niên qua, số lượng – và chiều kích – của viện bảo tàng, phòng trưng bày, hội chợ nghệ thuật, và trường nghệ thuật trên khắp thế giới đã gia tăng dữ dội, và người ta cảm thấy an tâm để nói rằng nhiều nghệ thuật đã được sáng tạo trong vòng 10 năm qua hơn bất cứ thời gian nào khác trong lịch sử nhân loại.
Nghệ sĩ không phải chỉ là người sáng tạo nên tác phẩm. Nghệ sĩ còn là kẻ sáng tạo nên bản thân mình. Không ngừng. Họa sĩ Võ Đình khằng định như vậy trong cuốn Mây Chó. Về cuối đời ông viết nhiều hơn vẽ. Sau 10 năm sống ở Pháp sang Mỹ năm 1960 qua nhiều tiểu bang, nơi đâu ông cũng thích ngụ ở vùng thôn dã.
Lời tòa soạn: Từ Franz Kafka đến Milan Kundera, hai nhà văn kiệt xuất của thế kỷ XX. Cả hai đều có chung một nền tảng văn hóa, một khảo hướng và một chủ hướng văn học: làm mới văn chương và dùng tiểu thuyết để nói những điều chỉ tiểu thuyết mới nói được. Cả hai đều để lại cho hậu thế những kiệt tác văn học, ảnh hưởng bao trùm gần như toàn thể nhân loại. Kafka sống vào đầu thế kỷ, Kundera vẫn còn tại thế dù năm nay, 2020, đã trên 90 tuổi. Việt Báo hân hạnh gửi đến độc giả Việt bốn phương ít dòng tiêu biểu của hai nhà văn lừng lẫy này qua phần chuyển ngữ và giới thiệu của dịch giả Trịnh Y Thư.
Nhà văn Dương Hùng Cường sinh ngày 1/10/1934 tại Hà Nội. Ông gia nhập Không quân và học về cơ khí tại Pháp năm 1953. Ông là hạ sĩ quan phục vụ ở nhiều đơn vị từ 1955, đến những năm 1960 mang cấp bậc Chuẩn úy, làm việc tại Phòng Tâm lý chiến, Bộ Tư lệnh Không quân VNCH.
Một đất nước mà chính quyền bao che cho quan chức từ cao xuống thấp cướp đất của dân để trở thành quốc nạn là điều bất hạnh cho dân tộc, và hiện tượng này đã không dừng ở đó mà còn đi xa hơn nữa để biến nó thành mối hận thù giữa dân oan và nhà nước như trường hợp xảy ra trong tuần qua tại xã Đồng Tâm.
Nhân dịp Xuân Canh Tý Chùa Phật Tổ có liên lạc được với building gần Chùa khoảng 2 Miles, Phật tử có thể đậu xe tại 1305 E . Pacific Coast Highway, Long Beach, CA 92806 lot # 1 Mỗi xe trả lệ phí $2.00 và sẽ có xe đưa đón đến chùa vào những ngày 25, 26 tháng 1 và 1, 2, 8, 9 tháng 2. Rất mong Quý Phật Tử hoan hỉ cảm thông cho sự bất tiện về đi lại và kính mời quí vị về Chùa đón Xuân Canh Tý 2020. LL (562) 599-5100.
Hàng ngàn năm trước, một người phụ nữ trẻ thời Đồ Đá Mới mà hiện nay nằm ở nước Đan Mạch đang nhai một miếng nhựa cây thông. Phân tích DNA của “miếng kẹo cao su đang nhai” của người thời Đồ Đá Mới hiện đã được công bố, trong chi tiết rất đáng lưu ý, người phụ nữ này trông giống gì, theo bài báo được đăng hôm 17 tháng 12 năm 2019 trong tạp chí Nature Communications được phổ biến trên trang mạng www.livescience.com
Mục di trú và bảo lãnh do Văn Phòng tham vấn di trú Robert Mullins International đảm trách hằng tuần, rất hữu ích cho quý vị nào quan tâm đến việc bảo lãnh thân nhân. Đề tài trên đây cũng được thảo luận trực tiếp trên www.Facebook.com/rmiodp vào mỗi tối thứ Tư , từ 7:00-8:00 giờ, hoặc sáng thứ Năm lúc 10:00 sáng, giờ Việt Nam.
Hôm nay nhằm ngày nghỉ, sáng vẫn thức sớm vì thói quen hằng ngày, cơ thể điều khiển chị giờ đó phải ngồi dậy, có muốn nướng thêm chút xíu cho chín đều cái lưng ngày xưa thon thon như cá lòng tong bây giờ bự bự như cá voi, cũng không xong.
Boot cao ống chỉ thích hợp ở những vùng mùa đông rất lạnh, hay có tuyết mà thôi. Nếu ở xứ nóng, không có tuyết mà diện giày boots có hơi khác thường. Có thể chọn loại boots cao tới mắc cá thì thích hợp hơn cho thời tiết lạnh hay mưa.
Thí sinh đi thi rất căng thẳng do đó dễ bị mệt mỏi, khi thi sẽ quên đầu quên đuôi, lập cập, lúng ta lúng túng…
Chọn kiếng mát tùy theo hình dạng của khuôn mặt. Chúng ta có thể phân loại 6 khuôn mặt như: mặt tròn, mặt dài, mặt vuông, mặt trái soan, mặt tam giác, mặt trái tim.
Thứ Hai, ngày 20 tháng 1 năm 2020, nước Mỹ ăn mừng sinh nhật lần thứ 91 của Mục Sư Martin Luther King, Jr., nhà lãnh đạo nổi tiếng của phong trào nhân quyền và dân quyền Mỹ trong 2 thập niên 1950s và 1960s.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.