Hôm nay,  

Đọc Ngô Thì Nhậm: Vạn Pháp Là Một

10/07/202508:01:00(Xem: 2141)
blank 

Đọc Ngô Thì Nhậm: Vạn Pháp Là Một

Nguyên Giác

 

Bài viết này sẽ phân tích lời dạy của sách Trúc Lâm Tông Chỉ Nguyên Thanh về ý chỉ Thiền Tông: vạn pháp đều là một. Sách Trúc Lâm Tông Chỉ Nguyên Thanh là một tác phẩm về Thiền Tông Việt Nam xuất bản lần đầu vào năm 1796. Tác phẩm này được in trong Ngô Thì Nhậm Toàn Tập - Tập V, ấn hành năm 2006 tại Hà Nội, do nhiều tác giả trong Viện Nghiên Cứu Hán Nôm biên dịch.
 

Những lời dạy trong sách này mang phong cách Thiền Tông Việt Nam, vì ngài Ngô Thì Nhậm (1746-1803) khi rời quan trường đã xuất gia, trở thành vị sư có tên là Hải Lượng Thiền Sư, và được nhiều vị sư tôn vinh là vị Tổ Thứ Tư của Dòng Thiền Trúc Lâm. Tất cả các vị sư khác trong sách đều nói trong tông phong này.  Nơi đây, chúng ta trích nơi trang 412, nguyên văn như sau:

 
blank

(Trích)“Trọng Ni nói: "Nhìn từ góc độ khác nhau, thì là gan với mật, như nước Sở với nước Việt vậy (1). Nhìn từ góc độ giống nhau, thì vạn vật đều là một. Cái gì ra từ ở chỗ nào thì cũng đi vào ở chỗ đó, không từ chỗ nào ra mà cũng không đi vào chỗ nào, thế gọi là đại thông (hết sức thông suốt).

CHÚ THÍCH:

(1) Tự kỳ đị giả thị chi, can đảm Sở, Việt dã: Câu này ở thiên Đức sung phù, sách Trang Tử, chứ không phải của Trọng Ni.” (ngưng trích)

 

Chú thích trên là của Viện Nghiên Cứu Hán Nôm, muốn nói rằng câu trích dẫn trên là của Trang Tử, không phải của Trọng Ni.
 

Nơi đây, chúng ta ghi chú thêm, rằng Trọng Ni chính là tự danh của Khổng Tử – vị có tên thật là Khổng Khâu. Trong truyền thống Trung Hoa, người có học thường có “tự” (tên gọi dùng trong giao tiếp trang trọng), và “Trọng Ni” là cách gọi thể hiện sự kính trọng dành cho Khổng Tử. Khổng Tử không phải là nhân vật thuộc Đạo giáo, mà là người sáng lập Nho giáo. Ông sống vào thời Xuân Thu (551–479 TCN) và được xem là một trong những bậc thầy vĩ đại nhất trong lịch sử Trung Hoa. Tư tưởng của Khổng Tử nhấn mạnh đạo đức, lễ nghi, nhân nghĩa và giáo dục – khác biệt với Đạo giáo, vốn thiên về tự nhiên, vô vi và huyền học.
 

Tóm gọn ý của Trúc Lâm Tông Chỉ Nguyên Thanh nơi đây là: vạn vật đều là một.

Ý chỉ chỗ này dễ nhầm lẫn, nếu nói rằng có một cái gì là một, thì đều không nên. Nếu nói rằng không có gì có thể để gọi là một, hay là hai, hay là nhiều, thì cũng đều không nên. Nói chung, khi dùng tới văn tự là sẽ thấy vương vướng, như dường không ổn, vì cứ tưởng như là có cái gì.
 

Trong bài Bát Nhã Tâm Kinh, câu đầu là nói Sắc chính là Không, và Không chính là Sắc. Khi nhìn tất cả là Không, chúng ta thấy hiển nhiên rằng vạn vật đều là Không. Sắc chính là những gì được thấy, được nghe, được ngửi, được nếm, được chạm xúc, được suy nghĩ tư lường. Khi tất cả là Không, chúng ta có thể tạm gọi vạn vật là một. Ý này nằm trong lời Đức Phật dạy về pháp ấn rằng tất cả hữu vi pháp đều là vô thường, vô ngã, khổ, không.
 

Trong Kinh SN 22.95, Đức Phật giải thích rằng sắc chính là không, rằng sắc, thọ, tưởng, hành, thức đều là như đống bọt, như bong bóng nước, như ráng mặt trời, như cây chuối (lột vỏ không tìm ra tự ngã), như trò ảo thuật. Bản dịch Thầy Minh Châu viết, trích:
 

Ví như, này các Tỷ-kheo, sông Hằng này chảy mang theo đống bọt nước lớn. Có người có mắt nhìn đống bọt nước ấy, chuyên chú, như lý quán sát. Do nhìn chuyên chú, như lý quán sát nó, đống bọt nước ấy hiện rõ ra là trống không, hiện rõ ra là rỗng không, hiện rõ ra là không có lõi cứng. Làm sao, này các Tỷ-kheo, lại có lõi cứng trong đống bọt nước được? Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, phàm có sắc gì thuộc quá khứ, vị lai, hiện tại, hoặc nội hay ngoại, hoặc thô hay tế, hoặc liệt hay thắng, hoặc xa hay gần; vị Tỷ-kheo thấy sắc, chuyên chú, như lý quán sát sắc. Do vị Tỷ-kheo nhìn chuyên chú, như lý quán sát sắc, sắc ấy hiện rõ ra là trống không, hiện rõ ra là rỗng không, hiện rõ ra là không có lõi cứng.” (ngưng trích)
 

Người nào thấy được thực tướng các pháp, sẽ không còn thấy có tướng nam hay tướng nữ hiện lên. Khi tâm chúng ta chỉ thấy các uẩn hiện lên, và không còn thấy tướng nam hay tướng nữ nữa, thì tức khắc sẽ thấy vạn vật là một, hay nói ngược lại cũng đúng, rằng tất cả các pháp đều bất khả đắc. Do vậy, nói cho gọn thì là vạn pháp là một. Nói mặt khác, sẽ nói rằng không một lời nào có thể nói. Chỉ có thể nói rằng, các pháp nó như thế là như thế.
 

Trong Kinh SN 5.2, ghi lại rằng Tỳ kheo ni Soma khất thực ở Sāvatthi xong, sau bữa ăn, trên con đường khất thực trở về, Tỷ kheo ni đi đến rừng Andha để nghỉ ban ngày. Sau khi đi sâu vào rừng, ngài ngồi dưới một gốc cây để nghỉ ban ngày. Ác ma hiện ra chọc ghẹo Tỳ kheo ni Soma.
 

Tỳ kheo ni Soma trả lời, theo bản dịch của Thầy Minh Châu, rằng hễ còn thấy có tướng nam hay tướng nữ là sẽ còn bị rơi vào trò của Ác ma, trích:

Ai tự mình tìm hỏi:

“Ta, nữ nhân, nam nhân,

Hay ta là ai khác?”

Xứng nói chuyện Ác ma,

Ác ma thật cân xứng.

 

Cho nên, thực tướng các pháp chính là Không tướng. Và chúng ta gọi là một thì cũng được, gọi là không thì cũng được. Bát Nhã Tâm Kinh gọi đó là bất dị, tức là không khác. Vậy thì, một hay nhiều đều không có tướng để được thấy. Tương tự, hãy hình dung rằng tất cả hình ảnh xanh đỏ tím vàng, cao thấp vuông tròn đều hiện trước tánh phản chiếu của gương tâm. Các hình ảnh liên tục hiện ra rồi biến mất, nhưng tánh phản chiếu của gương không biến mất theo ảnh, không chạy theo ảnh. Cũng vậy, những âm thanh, tiếng chim kêu, tiếng lá xào xạc liên tục tới bên tai rồi biến mất, rồi khởi lên rồi biến mất. Nhưng tánh nghe của chúng ta không chạy theo các âm thanh biến mất.
 

Có thể gọi tánh phản chiếu của gương tâm là một, khi hiện lên vô lượng ảnh hình. Có thể gọi tánh nghe là một, khi hiện lên vô lượng âm thanh. Nhưng trong tận cùng các pháp, không có một cái gì có thể nắm bắt được, nên gọi là một thì chỉ là tạm gọi. Cũng như cách gọi toàn sóng là nước, toàn tướng là tánh, và ngược lại. Nếu gọi tên nhầm là một pháp gì đó, thí dụ có tướng nam, hay tướng nữ đều là hỏng.
 

Trong tích truyện Kinh Pháp Cú số 43 kể chuyện rằng tướng nam hay tướng nữ chỉ là nghiệp, duyên thôi. Tích truyện tóm tắt như sau: Ngày xưa, tại tu viện Jetavana, Đức Phật kể về Soreyya, con trai một gia đình giàu có. Một hôm, cậu Soreyya đang đi xe ngựa sang trọng thì thấy Tỳ-kheo Mahakaccayana đang chỉnh y phục. Thấy vóc dáng và màu da vàng óng của ngài, cậu Soreyya chợt nảy sinh ý nghĩ sai trái: “Ước gì vị Tỳ-kheo này là vợ mình, hoặc vợ mình có làn da như ngài.” Ngay lập tức, Soreyya biến thành phụ nữ.
 

Xấu hổ, Soreyya bỏ trốn đến Taxila. Tại đây, cô gặp và kết hôn với một thiếu gia giàu có, sinh được hai con trai. Trước đó, khi còn là đàn ông, Soreyya cũng có hai con trai. Một lần, một người bạn cũ từ thành Soreyya đến Taxila. Soreyya nhận ra và mời anh ta đến. Khi biết đây chính là Soreyya đã mất tích, và nghe cô kể lại toàn bộ câu chuyện về ý nghĩ sai lầm và sự biến đổi giới tính, người bạn khuyên cô nên sám hối với Tỳ-kheo Mahakaccayana.
 

Soreyya mời Tỳ-kheo Mahakaccayana đến nhà cúng dường. Sau bữa ăn, cô thành tâm xin lỗi ngài. Tỳ-kheo Mahakaccayana nói: “Đứng dậy, ta tha thứ cho con.” Lập tức, Soreyya trở lại thành đàn ông. Soreyya nhận ra sự vô thường của thân tâm và cuộc sống, xin xuất gia theo Tỳ-kheo Mahakaccayana. Sau này, mọi người thường hỏi anh ta yêu thương những người con nào hơn. Ban đầu, anh nói yêu thương những người con do mình sinh ra hơn. Nhưng sau khi tu tập tinh tấn và đạt được A-la-hán, Soreyya không còn vướng bận tình cảm với bất kỳ ai.
 

Đức Phật xác nhận rằng Soreyya đã nói sự thật. Ngài dạy rằng, nhờ tâm ý hướng thiện, Soreyya đã đạt được trạng thái an lạc mà cha mẹ cũng không thể ban tặng.
 

Nghĩa là, vì chấp vào tướng nam hay tướng nữ, vì bị lôi cuốn bởi nhan sắc của tướng nam hay tướng nữ, chúng ta bị lôi kéo mãi trong cõi này. Cách duy nhất là thấy thực tướng chính là Không tướng, thì mới giải thoát.

Đức Phật cũng dạy rằng không hề có cái gì là tôi, là của tôi. Vậy thì, lấy cái gì để gọi là một hay nhiều. Tương tự, Tuệ Trung Thượng Sĩ dạy rằng muốn vượt qua dòng sông sinh tử, thì phải thấy tâm mình như con trâu đất, hễ xuống nước là tan ra. Cách nhìn như thế, nếu gọi vạn pháp là một thì chỉ là tạm gọi. Nhưng đúng ra, không một lời nào có thể nói được.
 

Trong Kinh SN 4.19, Đức Phật đối thoại với Ác ma. Kinh ghi lời Ác ma nói rằng, theo bản dịch của Thầy Minh Châu:

“Này Sa-môn, mắt là của ta, sắc là của ta, thức xứ do mắt xúc chạm là của ta. Này Sa-môn, Ngài có thể đi đâu để thoát khỏi ta? Này Sa-môn, tai là của ta, tiếng là của ta … Này Sa-môn, mũi là của ta, hương là của ta…  Này Sa-môn, lưỡi là của ta, vị là của ta… Này Sa-môn, thân là của ta, xúc là của ta… Này Sa-môn, ý là của ta, pháp là của ta, thức xứ do ý xúc chạm là của ta. Này Sa-môn, Ngài có thể đi đâu để thoát khỏi ta không?”(ngưng trích)
 

Đức Phật trả lời: “—Này Ác ma, mắt là của Ông, sắc là của Ông, thức xứ do mắt xúc chạm là của Ông. Và này Ác ma, chỗ nào không có mắt, không có sắc, không có thức xứ xúc chạm, thời chỗ ấy không có hành xứ của Ông, này Ác ma.” Và tương tự với tai, mũi, lưỡi, thân, ý...
 

Như thế, thấy không một pháp nào là ta, là tôi, là của tôi, là của ta... thì là giải thoát. Tạm gọi là một cũng được, tạm gọi là vô lượng như biển cũng được. Như thế, không thấy có cái gì là ta hay người, thì lấy chỗ nào mà đau khổ nữa.

.

THAM KHẢO:

. Kinh SN 22.95: Thân tâm như bọt sóng, như trò ảo thuật:

https://suttacentral.net/sn22.95/vi/minh_chau

. Kinh SN 5.2, không thấy tướng nam hay tướng nữ:

https://suttacentral.net/sn5.2/vi/minh_chau

. Kinh Pháp Cú, tích truyện 43:

https://www.tipitaka.net/tipitaka/dhp/verseload.php?verse=043

. Kinh SN 4.19: Mắt tai mũi lưỡi thân ý là của ma:

https://suttacentral.net/sn4.19/vi/minh_chau

 

 

 

 

 

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Đại Sứ Trung Quốc tại Thụy Điển là ông Quế Tòng Hữu đã bị các Nghị Sĩ Thụy Điển đòi trục xuất vì ông này đã nhiều lần phát ngôn uy hiếm Thụy Điển vì Hội Nhà Văn Thụy Điển đã trao giải thưởng Tucholsky cho một nhà văn và nhà xuất bản người Thụy Điển gốc Hồng Kông
Tô Kiều Ngân tên thật Lê Mộng Ngân, ông sinh năm 1926 tại Huế. Từ nhỏ ông đã sớm tỏ ra có chất nghệ sĩ, thường trốn học, đi chơi đó đây với cây sáo trúc không mấy khi rời tay.
Trung Tâm Công Giáo Việt Nam tọa lạc tại 1538 N. Century Blvd, Santa Ana, CA 92703, được hình thành vào năm 1975, với một số người Công Giáo tỵ nạn tại Orange County, với lúc đầu chỉ chừng 3,000, nhưng tới năm 1982 con số nầy đã tăng lên tới 7,000. Tuy đã có Thánh Lễ bằng tiếng Việt tại 9 nhà thờ của giáo xứ, nhưng họ vẫn thấy cần một nơi để sinh hoạt theo phong tục của người Việt.
Bị nước Tàu đô hộ ngàn năm, Việt Nam không bị đồng hóa mà vẫn giữ được truyền thống dân tộc. Tiếng nói, chữ viết, cách ăn mặc, tập tục, phong thái...và nói chung, mọi thứ đều là Việt Nam. Chuyện đó ai cũng biết.
Nhà thơ Nguyễn Đức Sơn quê gốc làng Thanh Lương, huyện Hương Trà, Thừa Thiên Huế. Ông sinh ngày 18 tháng 11 năm 1937 tại làng Dư Khánh, tỉnh Ninh Thuận.
Tôi từng bị ám ảnh không biết sau khi mình chết đi thì mọi việc sẽ như thế nào. Và thế là vào một đêm, tôi quyết định giả chết.
Lời tòa soạn: Những câu thơ dị thường viết bởi một thi sĩ dị thường! Đó là lời giới thiệu cho tập thơ Thơ và Đá của thi sĩ Nguyễn Đức Sơn, do NXB Văn Học Press phối hợp với tổ chức Culture Art Education Resource xuất bản và phát hành tháng 12 năm 2019. Nhân dịp này Việt Báo hân hạnh được trao đổi đôi lời với cô Nguyễn Đức Phương Bối, ái nữ của nhà thơ. (Hiện nay chị Phương Bối vẫn sinh sống tại Việt Nam, trên mảnh đất do chính nhà thơ gầy dựng từ sau cuộc đổi đời 1975.) Dưới đây là nội dung cuộc nói chuyện.
Lời tòa soạn: Được biết tập thơ Thơ và Đá của thi sĩ Nguyễn Đức Sơn là nỗ lực của NXB Văn Học Press và tổ chức Culture Art Education Exchange Resource liên kết thực hiện. Đây là tập thơ của một nhà thơ vốn được xem là một trong những thi sĩ lớn nhất của văn học miền Nam Việt Nam, giai đoạn 54-75. Tập thơ quy tụ những bài thơ chưa bao giờ được công bố cho đến ngày hôm nay. Nhân dịp này Việt Báo hân hạnh được tiếp chuyện cô Đào Nguyên Dạ Thảo, người đã bỏ ra rất nhiều công sức cho đề án này.
Lời tòa soạn: Gần đây, nhiều ý kiến, tranh cãi gay gắt về vai trò và công trạng sáng lập chữ quốc ngữ, đặc biệt xung quanh nhà truyền giáo người Bồ Đào Nha Alexandre de Rhodes. Việt Báo xin trích đăng lại bài viết của tác giả Mai Kim Ngọc trong mục VVNM năm 2013, bài viết là một tham khảo kỹ lưỡng về chữ quốc ngữ và vai trò của Alexandre de Rhodes, và tác giả đề cập đến sự “vô phép” trong Phép Giảng Ngày khi người tu sĩ Đắc Lộ này nói về Tam Giáo của nước chủ nhà.
Tháng 12 năm 2019 đánh dấu 64 năm phong trào đấu tranh cho dân quyền tại Mỹ mà người đi đầu là Rosa Parks, một phụ nữ gốc Phi Châu sinh trưởng tại tiểu bang Alabama, Miền Đông Nam Hoa Kỳ.
có 30% doanh nghiệp cho biết vẫn phải trả khoản này cho cán bộ thanh tra, và hơn nữa vẫn có 33% doanh nghiệp được hỏi cho rằng cán bộ suy diễn bất lợi cho đơn vị.
Vào sáng sớm ngày 14 tháng 12 năm 2019, các thành viên của Dưỡng Sinh Thức Pháp đã bắt đầu tụ họp tại hội trường của khu nhà tiền chế Kensington Garden Mobile Home - tọa lạc trên đường Bolsa tại thành phố Westminster
Ít nhất một người bị giết và 5 người khác bị thương trong một vụ nổ súng tại tổng hành dinh của Cơ Quan An Ninh Liên Bang Nga (FSB) tại trung tâm Mạc Tư Khoa, theo truyền thông Nga cho biết.
Tính tới tháng 12 năm nay, kinh tế Hoa Kỳ đã gia tăng tới mức kỷ lục 126 tháng liên tiếp, thời gian lâu nhất trong lịch sử nước Mỹ theo Phỏng Nghiên Cứu Kinh Tế Quốc Gia cho biết.
30 năm nay chương trình Hán hóa Việt Nam của Tàu Cộng và Việt Cộng là DIỆT Tổ quốc Việt, DIỆT Văn Hóa Việt, DIỆT Kinh tế Việt và phải TÀN PHÁ Môi Sanh môi trường sống của người Việt… Để người Việt không thể sống được! Để người Việt PHẢI bỏ nước ra đi …


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.