Hôm nay,  

Đọc Ngô Thì Nhậm: Khi Tính Người Tịch Diệt

15/07/202509:22:00(Xem: 2098)
blank 

Đọc Ngô Thì Nhậm: Khi Tính Người Tịch Diệt
 

Nguyên Giác

 

Bài viết này sẽ phân tích lời dạy của sách Trúc Lâm Tông Chỉ Nguyên Thanh về ý chỉ Thiền Tông: Khi tính người tịch diệt, thì tính trời hiển lộ. Sách Trúc Lâm Tông Chỉ Nguyên Thanh là một tác phẩm về Thiền Tông Việt Nam xuất bản lần đầu vào năm 1796. Tác phẩm này được in trong Ngô Thì Nhậm Toàn Tập - Tập V, ấn hành năm 2006 tại Hà Nội, do nhiều tác giả trong Viện Nghiên Cứu Hán Nôm biên dịch.
 

Những lời dạy trong sách này mang phong cách Thiền Tông Việt Nam, vì ngài Ngô Thì Nhậm (1746-1803) khi rời quan trường đã xuất gia, trở thành vị sư có tên là Hải Lượng Thiền Sư, và được nhiều vị sư tôn vinh là vị Tổ Thứ Tư của Dòng Thiền Trúc Lâm. Tất cả các vị sư khác trong sách đều nói trong tông phong này.  Nơi đây, chúng ta trích nơi trang 414, nguyên văn như sau:

 
blank

(Trích)

Thứ mười: TIẾNG LẶNG LẼ KHÔNG CÓ TIẾNG

Tiên Nho nói: “Cái mà trời sinh ra thì gọi là tính.” (1) Người ta sinh ra thì tĩnh, cái đó không cần phải nói. Nhưng khi dã nói ra thì không phải là tính nữa rồi.

Đại thiền sư nói: “Diệt dược tính người thì gây được tính trời,” đại ý cũng tương đồng.

CHÚ THÍCH:

1. Lời của Cáo Tử trong sách Mạnh Từ, thiên Cáo Tử thượng. (Hết trích)

.

 

Ngài Ngô Thì Nhậm và các vị trong cuộc thảo luận ghi lại trong sách Trúc Lâm Tông Chỉ Nguyên Thanh đều học Nho từ thơ ấu để sẽ ra làm quan. Cuối đời, quý ngài mới vào chùa, xuất gia, sau khi tham dự những chuyển biến của lịch sử. Do vậy, chúng ta có thể đoán rằng đoạn văn này một phần cũng là để thuyết phục các Nho gia trước khi nêu Phật lý.
 

Trước tiên, chúng ta cần ghi chú về Chú thích. Cáo Tử là một triết gia sống cùng thời với Mạnh Tử, nổi tiếng với quan điểm con người sinh ra không thiện cũng không ác, mà bản tính được hình thành do giáo dục và hoàn cảnh. Cáo Tử từng nói rằng: "Tính vô thiện, vô bất thiện." (Tính không thiện, không bất thiện; nghĩa là, tính không thiện không ác gì cả.) Ông là một trong những người có cuộc tranh luận nổi bật với Mạnh Tử về bản tính con người. Cáo Tử cho rằng: “Tính người như dòng nước, khơi về Đông thì chảy về Đông, khơi về Tây thì chảy về Tây.”
 

Trong khi đó, Mạnh Tử lý luận: “Dòng nước tuy không phân biệt Đông Tây, nhưng nó phân biệt trên dưới. Tính người vốn thiện, như nước chảy xuống dưới vậy.”

Thiên Cáo Tử Thượng là phần đầu trong hai thiên Cáo Tử của sách Mạnh Tử, ghi lại các cuộc tranh luận giữa Mạnh Tử và Cáo Tử về bản tính con người (rằng có tính thiện hay không). Cáo Tử cho rằng “tính” là bản năng tự nhiên, không thiện không ác. Mạnh Tử thì khẳng định “tính người vốn thiện”, tức là con người sinh ra đã có mầm mống của nhân, nghĩa, lễ, trí.
 

Khi phân biệt giữa phần cao quý và phần thấp hèn trong con người, Mạnh Tử cho rằng nếu con người chỉ lo ăn uống, hưởng thụ thì sẽ đánh mất phần cao quý, trở nên giống như cầm thú. Mạnh Tử cũng dùng hình ảnh như “đứa trẻ sắp rơi xuống giếng” để chứng minh lòng trắc ẩn là bản năng thiện tự nhiên của con người. Trong sách Nho Giáo, nơi chương Mạnh Tử, bản dịch của Trần Trọng Kim, trích như sau:
 

Nói rút lại là Mạnh-tử cho cái tính của Trời phú cho người ta là thiện. Nếu có thành ra bất thiện, là vì người ta không biết giữ lấy cái bản tâm, chứ cái nguồn gốc của tính là không thể không thiện được. Ông nói rằng: «Nhân giai hữu bất nhẫn nhân chi tâm: Người ta ai cũng có cái lòng thương người... Giá bất-thình-lình người ta trông thấy đứa trẻ sắp rơi xuống giếng, thì ai cũng có lòng bồn-chồn thương-xót.” (ngưng trích)

.

Nơi đây, chúng ta không rơi vào cuộc tranh luận của các Nho gia. Hãy mặc kệ quý Nho gia. Chúng ta chỉ bận tâm về ý chỉ Thiền Tông mà ngài Ngô Thì Nhậm muốn nói.
 

Về câu nói của các nhà Nho rằng “Cái mà trời sinh ra thì gọi là tính” khi hiểu qua văn mạch Phật giáo, chỉ nên hiểu là một pháp vô vi, nghĩa là pháp vô sinh, hay pháp vô sanh, không phải do cái gì sinh ra. Trái nghịch với pháp vô vi là pháp hữu vi. Đức Phật dạy rằng tất cả pháp hữu vi là vô thường.

Pháp hữu vi là có sanh, có diệt, do duyên mà hiện lên. Pháp hữu vi là tất cả những gì chúng ta thấy, nghe, ngửi, nếm, chạm xúc và tư lường. Nghĩa là, pháp hữu vi chuyển biến không ngừng. Đức Phật gọi đó là ba cây lau dựa vào nhau để hiển lộ thế giới của chúng ta: sáu căn gặp sáu trần thì hiển lộ sáu thức. Tất cả đều chuyển biến chớp nhoáng, không có thực tướng. Bạn có thể đứng nhỉn trận mưa nơi góc rừng, bạn sẽ thấy gió gào, mưa xối xả, hoàn toàn không có gì bất động.
 

Kinh Kim Cang nói về pháp hữu vi, ghi lời Đức Phật là:

Nhất thiết hữu vi pháp,

Như mộng, huyễn, bào, ảnh,

Như lộ diệc như điện,

Ưng tác như thị quán.
 

Dịch nghĩa là: Tất cả các pháp hữu vi, đều như giấc mộng, như huyễn ảo, như bọt sóng, như ảnh hiện, như giọt sương, như tia chớp lóe. Hãy cứ như thế mà quán chiếu.
 

Trong khi đó, pháp vô vi là pháp không thể thấy bằng mắt và không thể nghe bằng tai. Vì tất cả những gì mắt thấy và những gì nghe bằng tai đều là do duyên hiển lộ. Thí dụ, chúng ta đứng nơi góc rừng, thấy mưa, thấy gió, thấy lá cây nghiêng ngả. Tất cả đều do duyên mà có mưa, gió, cây lá nghiêng ngả. Khi gió ngưng, mưa dứt, thì tất cả hình ảnh đó biến mất trước mắt. Tương tự, chúng ta ngày Tết nghe pháo nổ, nghe trống múa lân. Các âm thanh pháo nổ và trống múa lân là do duyên, khi hết pháo và khi ngưng tay trống là âm thanh diệt. Các hiện tượng sinh và diệt cũng hiển lộ trên thân tâm chúng ta, cả ở mức thô và mức vi tế.
 

Khi ba cây lau dựa vào nhau, thế giới hiển lộ. Giả sử, rút một cọng lau, như ngưng tay trống, thì âm thanh tắt. Hay khi có người tới trước mắt, thì chúng ta thấy, khi người bước ra xa, chúng ta không còn thấy nữa. Nhưng ảnh người biến đi trước mắt, ảnh hạt mưa bay biến mất trước tánh phản chiếu của gương tâm, thì tánh phán chiếu của gương tâm không biến theo ảnh người, không biến theo ảnh mưa bay (nhưng vẫn đang thấy cái không ảnh người, thấy cái không ảnh mưa bay). Tương tự, khi tiếng trống tới, chúng ta nghe, khi tiếng trống ngưng, chúng ta không nghe tiếng trống (nhưng vẫn đang nghe sự tịch lặng), nhưng tánh phản chiếu nơi nhận biết nghe vẫn không biến mất theo tiếng trống.


 

Chư tổ Thiền Tông gọi cái biết không biến mất theo ảnh, không biến mất theo tiếng trống đó là Bản Tâm, hay là Tánh Biết. Nghĩa là tâm không chạy theo cảnh, không níu theo cảnh, tâm không lưu ảnh, để cho tất cả những gì thấy nghe như chim bay trên bầu trời, khi chim bay mất thì không lưu dấu. Chính cái bầu trời không lưu dấu bất kỳ dấu chân chim nào là chỗ để không dính vào sầu, khổ, sinh, diệt. Kinh Kim Cang gọi đó là: ưng vô sở trụ nhi sinh kỳ tâm. Nghĩa là, khi tâm không chỗ trụ, thì tâm Niết bàn hiện ra. Do vậy, ưng vô sở trụ, hay gọi tắt là vô tâm, hay vô niệm chính là cốt tủy của Thiền Tông.

 
Vậy thì, với người tu Thiền Tông, không níu vào bất kỳ vết chân chim nào trong bầu trời tâm chính là pháp tu không có phương pháp. Bởi vì, nếu nói rằng có bất kỳ phương pháp nào, như rất nhiều pháp do Đức Phật dạy trong Kinh Nikaya và Kinh A Hàm là dựa vào thân tâm ngũ uẩn để tu, tức là dựa vào thân tâm sinh diệt để từ từ đoạn trừ tham sân si để giải thoát (tức là pháp tu dựa vào pháp sinh diệt). Trong khi đó, Thiền Tông là pháp tu không dựa vào pháp sinh diệt, ngắn gọn, là pháp tu theo vô sanh diệt.
 

Làm thế nào tu theo pháp vô sinh diệt. Trước tiên, nên dựa vào lý luận Trung Quán để thấy tánh vô sanh diệt của tất cả các pháp. Đó là lý do có bài Bát Nhã Tâm Kinh, một bài cô đọng tất cả những lý luận của Bát Nhã. Rằng Sắc chính là Không. Nghĩa là, cái được thấy, được nghe, được ngửi, được nếm, được chạm xúc, được tư lường suy nghĩ đều là không tự tánh, không tự ngã, không có thể được nắm giữ, và gọi ngắn gọn là Không. Và ngược lại, chính Không cũng là những cái được thấy, được nghe, được ngửi, được nếm, được chạm xúc, được tư lường suy nghĩ. Thường trực thấy như thế, là thường trực thấy tánh phản chiếu của gương mà không bận tâm tới ảnh hiện rồi biến, thường trực nghe tánh nghe của tai mà không bận tâm tiếng trống tới rồi đi, thường trực sống với bầu trời dung chứa rỗng không của tâm mà không bận tâm về chuyện vết chân chim còn lơ lửng hay biến mất nơi nào. Nhận ra như thế, là biết tu theo pháp không có pháp tu.
 

Trong Tạng Pali, Đức Phật nói rằng nếu không có cái không sanh, không do duyên thì chúng ta không thể giải thoát.  Trong Kinh Iti 43, Đức Phật dạy, chúng ta dịch như sau:
 

Này các Tỳ kheo, có một cái vô sanh, một cái không đưa đến hữu, một cái không bị tạo ra, một cái không do duyên mà thành. Này các Tỳ kheo, nếu không có cái vô sanh, không đưa đến hữu, không bị tạo ra, không do duyên, thì không có sự giải thoát nào có thể được nhận ra từ cái được sanh ra, được đưa đến hữu, được tạo ra, do duyên mà tới. Nhưng vì có một cái vô sanh, một cái không đưa đến hữu, một cái không do tạo ra, một cái không do duyên mà tới, do đó có sự giải thoát được nhận ra từ cái được sinh ra, được đưa đến hữu, được tạo ra, do duyên mà tới.” (ngưng dịch)
 

Vậy thì, có cách nào đơn giản mà không cần ngồi thiền, không cần tập thở, không cần mài giũa gương tâm hay không? Cách đơn giản nhất là bạn hãy quy y Tam Bảo, hãy thọ giới, hãy giữ giới nghiêm ngặt. Khi bạn chuẩn bị sẵn sàng thì tự nhiên sẽ tới lúc bạn hiểu kinh, hay sẽ gặp một vị thầy tương ưng. Tuy nhiên, giả sử rằng bạn đang sống nơi nào trên thế giới, rất xa cộng đồng, thì  bạn hãy đọc kinh luận cho nhiều, và thử cách tu đơn giản này: hãy nói rằng Không Biết. Các văn bản tiếng Anh của Thiền Tông gọi đó là: "Don’t Know Mind" -- còn gọi là Tâm Không Biết, hay gọi là tâm hài nhi, tâm ban đầu.

 
Bạn có thể ngưng đọc một phút và tự nhủ rằng "Không biết" thì tất cả trong tâm bạn sẽ sạch trơn, sẽ không có xanh đỏ tím vàng, sẽ không còn buồn vui hờn giận, sẽ không còn dấu vết Nam Tông hay Bắc Tông, sẽ không còn dấu vết biện biệt thiện với ác, sẽ không còn ranh giới đúng với sai nữa, và Tâm Không đó chính là một bước để vào Gương Tâm trong trẻo, không do tạo tác, không hiển lộ từ ba cây lau nào hết. Nếu bạn thường trực sống với tâm không biết, bạn sẽ hiểu các Thiền ngữ để lại trong kinh sách Thiền Tông.
 

Trong Kinh SN 1.1, Đức Phật nói rằng để vượt lũ lụt, ngài không bước tới và cũng không đứng lại. Bản dịch của Thầy Minh Châu, trích như sau:

Đứng một bên, vị Thiên ấy bạch Thế Tôn:

— Thưa Tôn giả, làm sao Ngài vượt khỏi bộc lưu?

— Này Hiền giả, không đứng lại, không bước tới, Ta vượt khỏi bộc lưu.

— Thưa Tôn giả, làm sao không đứng lại, không bước tới, Ngài vượt khỏi bộc lưu?

— Này Hiền giả, khi Ta đứng lại, thời Ta chìm xuống. Này Hiền giả, khi Ta bước tới, thời Ta trôi giạt; do vậy, này Hiền giả, không đứng lại, không bước tới, Ta vượt khỏi bộc lưu.” (ngưng trích)
 

Có thể lý giải theo Bát Nhã Tâm Kinh rằng, ai đã sống thường trực với Tánh Không thì sẽ không thấy có thân ngũ uẩn nào đang bước tới hay đứng lại, thì lấy gì mà chìm được.
 

Nếu bạn tìm bản kinh tương đương bên A Hàm, bạn sẽ kinh ngạc thấy rằng văn phong Đức Phật nơi A Hàm đúng là văn phong Kinh Kim Cang. Đó là Kinh SA 1267. Bản dịch của hai Thầy Tuệ Sỹ và Đức Thắng ghi rằng: “Thiên tử, như vậy gọi là không chỗ vin duyên, cũng không chỗ trụ mà vượt qua dòng xiết.”
 

Nhắc lại, Đức Phật dạy rằng không chỗ vin duyên, cũng không chỗ trụ mà vượt qua dòng xiết. Đó chính là Kinh Kim Cang vậy. Nghĩa là, nếu bạn còn vin vào một bè pháp nào, dù là bè gỗ, bè tre, ghe hay thuyền thì đó cũng không phải là lời Đức Phật dạy cách qua bờ trong Kinh SN 1.1 và Kinh SA 1267: Nơi đây là Thiền Trúc Lâm, là Thiền Tổ Sư, là tâm không một chỗ trụ mà bước qua bờ sinh tử.

Gọi theo kiểu Nho giáo (của quý ngài Ngô Thì Nhậm) là, khi tính người tịch diệt thì tính trời hiển lộ. Đây cũng là tông chỉ Thiền Trúc Lâm vậy.

 

THAM KHẢO:

. Nho Giáo, Quyển II, Thiên II, bản dịch Trần Trọng Kim:

https://vi.wikisource.org/wiki/Nho_gi%C3%A1o/Quy%E1%BB%83n_II/Thi%C3%AAn_II

 . Kinh Iti 43, giải thoát vì có một cái vô sanh, không do duyên:

https://suttacentral.net/iti43/en/ireland

. Kinh SN 1.1. Không bước tới, không đứng lại mà vượt lũ lụt

https://suttacentral.net/sn1.1/vi/minh_chau

. Kinh SA 1267. Không chỗ vin duyên, cũng không chỗ trụ mà vượt qua dòng:

https://suttacentral.net/sa1267/vi/tue_sy-thang

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Vào những ngày đầu Xuân các hội đoàn, cộng đồng thường tổ chức những buổi tiệc tùng, hợp nhóm, hợp bạn…để đón Xuân và cũng để hoài niệm, nhớ thương về quê hương, đồng bào thân yêu còn bên kia chân trời xa thăm thẳm.
Một di sản văn hóa độc đáo của dân tộc Việt Nam vừa được Viện Việt Học trình bày trước công chúng: ấn hành tác phẩm “Tuồng Kim Vân Kiều: Truyện Kiều ở Nam Kỳ Lục Tỉnh” (Hồi 1/3) vừa được Giáo sư Nguyễn Văn Sâm phiên âm và giới thiệu
Phiên xử luận tội lần thứ 3 trong lịch sử Hoa Kỳ đã bắt đầu vào Thứ Năm, 16 tháng 1 năm 2020 giữa một loạt các cáo buộc mới về các thương lượng của TT Trump với Ukraine, mà nhiều nhà lập pháp Cộng Hòa đã vội vã hạ thấp mức độ quan trọng khi họ bác bỏ các lời kêu gọi của những nhà lập pháp Dân Chủ đòi điều tra thêm.
Trong vòng một thập niên qua, số lượng – và chiều kích – của viện bảo tàng, phòng trưng bày, hội chợ nghệ thuật, và trường nghệ thuật trên khắp thế giới đã gia tăng dữ dội, và người ta cảm thấy an tâm để nói rằng nhiều nghệ thuật đã được sáng tạo trong vòng 10 năm qua hơn bất cứ thời gian nào khác trong lịch sử nhân loại.
Nghệ sĩ không phải chỉ là người sáng tạo nên tác phẩm. Nghệ sĩ còn là kẻ sáng tạo nên bản thân mình. Không ngừng. Họa sĩ Võ Đình khằng định như vậy trong cuốn Mây Chó. Về cuối đời ông viết nhiều hơn vẽ. Sau 10 năm sống ở Pháp sang Mỹ năm 1960 qua nhiều tiểu bang, nơi đâu ông cũng thích ngụ ở vùng thôn dã.
Lời tòa soạn: Từ Franz Kafka đến Milan Kundera, hai nhà văn kiệt xuất của thế kỷ XX. Cả hai đều có chung một nền tảng văn hóa, một khảo hướng và một chủ hướng văn học: làm mới văn chương và dùng tiểu thuyết để nói những điều chỉ tiểu thuyết mới nói được. Cả hai đều để lại cho hậu thế những kiệt tác văn học, ảnh hưởng bao trùm gần như toàn thể nhân loại. Kafka sống vào đầu thế kỷ, Kundera vẫn còn tại thế dù năm nay, 2020, đã trên 90 tuổi. Việt Báo hân hạnh gửi đến độc giả Việt bốn phương ít dòng tiêu biểu của hai nhà văn lừng lẫy này qua phần chuyển ngữ và giới thiệu của dịch giả Trịnh Y Thư.
Nhà văn Dương Hùng Cường sinh ngày 1/10/1934 tại Hà Nội. Ông gia nhập Không quân và học về cơ khí tại Pháp năm 1953. Ông là hạ sĩ quan phục vụ ở nhiều đơn vị từ 1955, đến những năm 1960 mang cấp bậc Chuẩn úy, làm việc tại Phòng Tâm lý chiến, Bộ Tư lệnh Không quân VNCH.
Một đất nước mà chính quyền bao che cho quan chức từ cao xuống thấp cướp đất của dân để trở thành quốc nạn là điều bất hạnh cho dân tộc, và hiện tượng này đã không dừng ở đó mà còn đi xa hơn nữa để biến nó thành mối hận thù giữa dân oan và nhà nước như trường hợp xảy ra trong tuần qua tại xã Đồng Tâm.
Nhân dịp Xuân Canh Tý Chùa Phật Tổ có liên lạc được với building gần Chùa khoảng 2 Miles, Phật tử có thể đậu xe tại 1305 E . Pacific Coast Highway, Long Beach, CA 92806 lot # 1 Mỗi xe trả lệ phí $2.00 và sẽ có xe đưa đón đến chùa vào những ngày 25, 26 tháng 1 và 1, 2, 8, 9 tháng 2. Rất mong Quý Phật Tử hoan hỉ cảm thông cho sự bất tiện về đi lại và kính mời quí vị về Chùa đón Xuân Canh Tý 2020. LL (562) 599-5100.
Hàng ngàn năm trước, một người phụ nữ trẻ thời Đồ Đá Mới mà hiện nay nằm ở nước Đan Mạch đang nhai một miếng nhựa cây thông. Phân tích DNA của “miếng kẹo cao su đang nhai” của người thời Đồ Đá Mới hiện đã được công bố, trong chi tiết rất đáng lưu ý, người phụ nữ này trông giống gì, theo bài báo được đăng hôm 17 tháng 12 năm 2019 trong tạp chí Nature Communications được phổ biến trên trang mạng www.livescience.com
Mục di trú và bảo lãnh do Văn Phòng tham vấn di trú Robert Mullins International đảm trách hằng tuần, rất hữu ích cho quý vị nào quan tâm đến việc bảo lãnh thân nhân. Đề tài trên đây cũng được thảo luận trực tiếp trên www.Facebook.com/rmiodp vào mỗi tối thứ Tư , từ 7:00-8:00 giờ, hoặc sáng thứ Năm lúc 10:00 sáng, giờ Việt Nam.
Hôm nay nhằm ngày nghỉ, sáng vẫn thức sớm vì thói quen hằng ngày, cơ thể điều khiển chị giờ đó phải ngồi dậy, có muốn nướng thêm chút xíu cho chín đều cái lưng ngày xưa thon thon như cá lòng tong bây giờ bự bự như cá voi, cũng không xong.
Boot cao ống chỉ thích hợp ở những vùng mùa đông rất lạnh, hay có tuyết mà thôi. Nếu ở xứ nóng, không có tuyết mà diện giày boots có hơi khác thường. Có thể chọn loại boots cao tới mắc cá thì thích hợp hơn cho thời tiết lạnh hay mưa.
Thí sinh đi thi rất căng thẳng do đó dễ bị mệt mỏi, khi thi sẽ quên đầu quên đuôi, lập cập, lúng ta lúng túng…
Chọn kiếng mát tùy theo hình dạng của khuôn mặt. Chúng ta có thể phân loại 6 khuôn mặt như: mặt tròn, mặt dài, mặt vuông, mặt trái soan, mặt tam giác, mặt trái tim.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.