Hôm nay,  

Đường Khâu Nối Thời Gian Tuyển Tập Ii – Chân Dung Văn Học, Nghệ Thuật Và Văn Hóa Của Ngô Thế Vinh

10/11/202511:22:00(Xem: 1220)

 

ĐƯỜNG KHÂU NỐI THỜI GIAN

Tuyển Tập II – Chân Dung Văn Học, Nghệ Thuật và Văn Hóa

của Ngô Thế Vinh

 

"Tuyển tập II chân dung văn nghệ sĩ" là một công trình mới của Nhà văn Ngô Thế Vinh, giới thiệu 18  văn nghệ sĩ và nhà văn hoá thành danh thời trước 1975 ở miền Nam Việt Nam. Những tác phẩm, chân dung và chứng từ trong tuyển tập này minh chứng cho một nền văn nghệ nhân bản, năng động và đột phá đã bị bức tử sau biến cố 30/4/1975. Do đó, tuyển tập là một nguồn tham khảo quí báu về di sản của nền văn nghệ và giáo dục thời Việt Nam Cộng Hoà.

 

blank

 

Để cảm nhận đầy đủ ý nghĩa của Tuyển tập này, cần phải điểm qua diễn biến của nền giáo dục và văn nghệ miền Nam thời Việt Nam Cộng Hoà trước và sau 1975. Việt Nam Cộng Hoà (VNCH) chỉ tồn tại vỏn vẹn 20 năm. Nhưng trong một quãng thời gian tương đối ngắn ngủi đó, VNCH đã để lại một di sản quí báu về một nền giáo dục mà ngày nay có người 'tiếc nuối vô bờ bến'. Nền giáo dục VNCH được xây dựng trên 3 trụ cột Nhân Bản, Dân Tộc và Khai Phóng. Nhân Bản là lấy con người làm gốc, là cứu cánh chứ không phải phương tiện của đảng phái nào. Trụ cột Dân Tộc là nền giáo dục đó có chức năng bảo tồn phát huy các giá trị truyền thống của dân tộc. Trụ cột Khai Phóng là nền tảng để nền giáo dục tiếp nhận những thành tựu và kiến thức khoa học kĩ thuật trên thế giới, tiếp nhận tinh thần dân chủ và các giá trị văn hoá nhân loại, giúp cho Việt Nam hội nhập thế giới.

 

Ngoài giáo dục, VNCH còn để lại một di sản đồ sộ về văn học - nghệ thuật. Người viết bài này cảm thấy mình may mắn vì lớn lên và được thụ hưởng những tác phẩm trong nền văn học đậm chất nhân văn đó, được tiếp xúc với những tư tưởng mới từ phương Tây qua những sách dịch và sách triết học. Nếu phải mô tả một cách ngắn gọn nền văn nghệ đó, tôi sẽ tóm tắt trong 4 chữ: nhân bản, tươi tắn, năng động, và đột phá. Tính nhân bản và tươi tắn có thể thấy rõ qua những tác phẩm thơ và nhạc được giới thanh niên yêu thích. Tính năng động và đột phá được minh chứng qua những diễn đàn quan trọng như tạp chí Bách Khoa, từng làm say mê chúng tôi một thời. Nhà văn Võ Phiến từng nhận xét rằng "Trước và sau thời 1954 - 1975, không thấy ở nơi nào khác trên đất nước ta, văn học được phát triển trong tinh thần tự do và cởi mở như vậy."

 

Tuy nhiên, sau biến cố 1975, nhà cầm quyền mới với chủ trương 'chuyên chính vô sản' đã có nhiều biện pháp nhằm hủy diệt những di sản đó. Với sự phụ hoạ của một số cây bút ngoài Bắc và một số người 'nằm vùng' trong Nam, họ kết án rằng nền văn nghệ VNCH là "văn học thực dân mới" hay "văn học tư sản" có mục đích phục vụ cho thực dân. Họ quy chụp cho các tác giả miền Nam là "những tên biệt kích văn hoá", "phản động và suy đồi", "thù địch với nhân dân", "phục vụ đắc lực nhất cho Mỹ Ngụy". Không chỉ vu khống và quy chụp, nhà cầm quyền còn phát động nhiều chiến dịch lùng sục tịch thu và tiêu huỷ sách báo cũ, và bắt giam nhiều tác giả nổi tiếng trong các trại tập trung để 'cải tạo tư tưởng'. Chiến dịch tiêu diệt di sản của nền văn nghệ VNCH được thực hiện một cách có tổ chức và kéo dài đến 20 năm.

 

Hậu quả của sự vùi dập đó là một thế hệ người Việt hoặc là không hiểu biết gì về nền văn nghệ VNCH, hoặc là hiểu biết một cách méo mó do chánh sách tuyên truyền gây ra.

 

Tuy nhiên, trong thời gian chừng 10 năm trở lại đây, quan điểm của giới cầm quyền về nền văn nghệ VNCH đã thay đổi đáng kể. Theo thời gian, họ đã nhận thức rằng nền văn nghệ thời VNCH là một di sản văn nghệ của dân tộc. Theo đó, nhiều tác phẩm văn học và sách khảo cứu văn hoá thời VNCH đã được tái xuất bản, và khá nhiều nhạc phẩm sáng tác từ trước 1975 thời đã được lưu hành. Nhiều tác giả từng bị vu cáo là 'biệt kích văn hoá' cũng được ghi nhận đúng đắn. Theo một ước tính gần đây, đã có chừng 160 tác giả thời VNCH đã được 'phục dựng'.

 

Song song với sự ghi nhận giá trị của nền văn nghệ VNCH, người ta cũng bắt đầu tìm hiểu và đánh giá đúng hơn về nền giáo dục VNCH. Ở miền Bắc Việt Nam trước 1975 và Việt Nam sau 1975 nền giáo dục không có triết lý giáo dục. Người ta loay hoay đi tìm một triết lý giáo dục cho Việt Nam, nhưng dù đã có nhiều cố gắng mà vẫn chưa đi đến một sự đồng thuận, có lẽ vì sự chi phối quá nặng nề của thể chế toàn trị.

 

Những nhận thức mới đó và sự loay hoay đi tìm một triết lý giáo dục hiện nay gián tiếp nói lên rằng nền văn nghệ và giáo dục VNCH đã đi trước thời đại.

 

Trong bối cảnh đó, Tuyển tập chân dung văn nghệ sĩ của Nhà văn Ngô Thế Vinh là một đóng góp có ý nghĩa. Tuyển tập bao gồm 'chân dung' của 16 tác giả và 2 nhà giáo: Mặc Đỗ, Như Phong, Võ Phiến, Linh Bảo, Mai Thảo, Dương Nghiễm Mậu, Nhật Tiến, Nguyễn Đình Toàn, Thanh Tâm Tuyền, Nguyễn-Xuân Hoàng, Hoàng Ngọc Biên, Đinh Cường, Nghiêu Đề, Nguyên Khai, Cao Xuân Huy, Phùng Nguyễn, Phạm Biểu Tâm và Phạm Hoàng Hộ. Trong Tuyển tập II, bạn đọc sẽ 'gặp' 15 tác giả:  Nguyễn Tường Bách & Hứa Bảo Liên, Tạ Tỵ, Trần Ngọc Ninh, Lê Ngộ Châu, Nguyễn Văn Trung, Hoàng Tiến Bảo, Lê Ngọc Huệ, Nghiêm Sỹ Tuấn, Đoàn Văn Bá, Mai Chửng, Trần Hoài Thư & Ngọc Yến, Phan Nhật Nam, John Steinbeck, và đặc biệt là Dohamide (Đỗ Hải Minh).

 

Viết chân dung của những tác gia là một việc rất khó khăn, nhưng Nhà văn Ngô Thế Vinh đã có một 'công thức' dung hoà giữa thông tin về cá nhân và thông tin về tác phẩm của họ. Không giống như các tuyển tập văn học khác thường chú trọng vào tác phẩm, Nhà văn Ngô Thế Vinh tập trung vào tác giả và hoàn cảnh sáng tác. Do đó, mỗi tác giả được mô tả bằng một tiểu sử ngắn, những tác phẩm chánh, và đặc biệt là những tâm tư cũng như hoàn cảnh ra đời của các tác phẩm. Qua những thông tin đó, có thể dễ dàng phác hoạ các tác gia như sau:

 

  • Nguyễn Tường Bách: nhà cách mạng gian truân.
  • Hứa Bảo Liên: nhà văn gốc Hoa mang tâm hồn Việt.
  • Hoàng Tiến Bảo: một thầy thuốc lớn.
  • Trần Ngọc Ninh: một đời mang ước vọng duy tân cho Việt Nam.
  • Nguyễn Văn Trung: lập thuyết gia cánh tả nhiều lận đận.
  • Tạ Tỵ: một hoạ sĩ tiên phong và một nghệ sĩ đa tài.
  • Lê Ngọc Huệ: điêu khắc gia làm toả sáng sự mầu nhiệm Mân Côi.
  • Mai Chửng: một tượng đài của cây lúa miền Tây.
  • Trần Mộng Tú: Phụ nữ và chiến tranh.
  • Trần Hoài Thư & Ngọc Yến: người nâng niu và bảo tồn di sản văn học nghệ thuật VNCH.
  • Phan Nhật Nam: một cây bút nhà binh sắc bén và phân định chánh trị rạch ròi.
  • Nghiêm Sỹ Tuấn: một tấm gương trí thức - y sĩ dấn thân thời chiến.
  • Đoàn Văn Bá: một tấm gương sáng về lòng dũng cảm và y đức của một y sĩ.
  • Vũ Xuân Thông : Một biệt kích dù, một thế hệ hy sinh.
  • Võ Tòng Xuân: 'Bác sĩ lúa' và Gia đình Bác Tám.
  • Lê Ngộ Châu: linh hồn của diễn đàn Bách Khoa khai phá những cái mới.
  • John Steinbeck: nhà văn cánh hữu với những trang viết thật về cuộc chiến Việt Nam.
  • Dohamide: một nhà khảo cứu văn hoá Chàm ôn hoà và đầy trăn trở.

 

Một trong những nhân vật mà tôi nghe nhiều trước đây, nhưng qua Tuyển tập này mới biết hơn: đó là ông Lê Ngộ Châu, chủ bút Tạp chí Bách Khoa. Có thể xem ông là một nhà báo. Có thể ông không lừng danh như các tác giả Mai Thảo, Du Tử Lê, Doãn Quốc Sỹ, Tô Thuỳ Yên, Thanh Tâm Tuyền, v.v., nhưng ông là người giúp cho họ nổi tiếng qua tạp chí Bách Khoa. Đối với tôi, tạp chí Bách Khoa là một diễn đàn trí thức quan trọng nhứt nhì ở miền Nam về văn hoá, văn nghệ, xã hội, kinh tế, và cả chánh trị. Qua 426 số báo từ 1957 đến 1975, Bách Khoa đã giới thiệu hơn 100 tác giả đến công chúng, những người sau này trở thành nổi tiếng. Những người tử tế ngoài Bắc trước 1975 nhận xét rằng Bách Khoa là một tạp chí nghiêm chỉnh, ngôn ngữ đàng hoàng, và là diễn đàn mà họ hiểu các vấn đề ở miền Nam. Qua Tuyển tập II, độc giả sẽ biết rằng ông Lê Ngộ Châu là ‘linh hồn’ của tạp chí Bách Khoa.

 

Nếu ông Lê Ngộ Châu là người tạo ra di sản văn hoá, thì Nhà văn Trần Hoài Thư và phu nhân Nguyễn Ngọc Yến là người phục hồi di sản đó. Nhà văn Trần Hoài Thư từng là một nhà giáo, quân nhân, đi tù cải tạo, và khi sang Mỹ thì thành chuyên gia về điện toán. Nhưng trước và trên hết, Trần Hoài Thư là người của văn chương. Ông  khởi sự viết văn từ năm 1964, và từng có bài trên tạp chí Bách Khoa. Dù bị chi phối bởi 'cơm, áo, gạo, tiền' trong đời sống ở Mỹ, nhưng hai vợ chồng Trần Hoài Thư và Nguyễn Ngọc Yến dành nhiều thời gian cất công sưu tầm, hệ thống hoá, điện toán hoá, và kết quả là một thư mục quý báu về các tác phẩm văn học ở miền Nam Việt Nam trước 1975. Ông thổ lộ rằng ... nhờ văn chương mà tiếng chuông ngân vang, như những niềm vui lẫn tự hào kỳ diệu. Nhờ văn chương mà ta quên đi thân phận nhục nhằn, nhờ văn chương mà ta thấy ta cao lớn hơn bao giờ.”  Có thể nói một cách tự tin rằng so với những bài viết về Trần Hoài Thư trước đây, bài viết về Trần Hoài Thư trong Tuyển tập là đầy đủ nhứt. Bài viết còn có những bức hình rất cảm động về đôi uyên ương này trong tuổi xế bóng. Sự tận tuỵ cho văn học của họ thật đáng ngưỡng phục.

 

Một học giả khác có nhiều đóng góp cho văn hoá học thuật trước 1975 là Giáo sư Nguyễn Văn Trung. Ông cũng là người có nhiều ảnh hưởng đến tư tưởng của sinh viên thời trước 1975 như tôi. Tuy thời đó (thập niên 1960 - 1970) ông còn tương đối trẻ, nhưng rất năng động trong các hoạt động văn hoá và học thuật. Ở tuổi 28, ông cùng với các đồng nghiệp ở Đại học Huế sáng lập ra các tạp chí nổi tiếng Đại Học (1958 - 2964). Sau đó, ông sáng lập các tạp chí như Hành Trình sau này là Đất Nước (1964 - 1966) và Trình Bày (1970 - 1972). Có thể nói ông là một trí thức thiên tả, nên các tạp chí do ông phụ trách cũng mang màu sắc tả khuynh. Chẳng hạn như tạp chí Hành Trình tuyên bố chủ trương 'làm cách mạng xã hội không cộng sản'. Hành trình trí thức của ông khá lận đận trong một Việt Nam với nhiều chao đảo. Nhưng những lận đận của một trí thức như ông là một bài học kinh nghiệm cho thế hệ trí thức tương lai.

 

Một nhân vật quan trọng được đề cập trong Tuyển tập là nhà văn người Mỹ John Steinbeck, người được trao giải Nobel văn học năm 1962. Có thể xem John Steinbeck là một trí thức cánh hữu, vì ông công khai ủng hộ sự tham chiến của Mỹ ở Việt Nam. Ông tin rằng Nhà văn phải tin tưởng rằng điều hắn đang làm là quan trọng nhất trên thế giới. Và hắn phải giữ ảo tưởng ấy cho dù khi biết được điều đó là không thực.” Ông không tin vào những bản tin về cuộc chiến Việt Nam của giới báo chí cánh tả, nên ông xung phong đi Việt Nam vào cuối năm 1966 để tận mắt nhìn thấy cuộc chiến và ghi lại cảm nhận cho riêng mình. Những cảm nhận và nhận định đó sau này được sưu tập thành một cuốn sách ‘Dispatches from the War’ (xuất bản 2012). Như Nhà văn Ngô Thế Vinh nhận xét rằng những trang ông viết là một bài học cho các thế hệ tương lai.

 

Tuyển tập dành nhiều trang cho hoạ sĩ Tạ Tỵ, và hai nhà điêu khắc Lê Ngọc Huệ và Mai Chửng. Những trang viết về Tạ Tỵ thật hấp dẫn, vì cuộc đời và sự nghiệp đa dạng. Ông nổi tiếng là một hoạ sĩ, nhưng ông còn là người lính của hai chiến tuyến khác nhau, là tù nhân, là người tị nạn, và cũng là nhà văn. Cá nhân tôi biết đến Tạ Tỵ qua cuốn Phạm Duy Còn Đó Nỗi Buồn xuất bản trước năm 1975 và sau này là cuốn hồi ký Đáy Địa Ngục viết về những năm tháng ông đi tù cải tạo. Đó là những tác phẩm viết ra bởi ‘người trong cuộc’, nên chất chứa nhiều nỗi niềm về thân phận của người lính sau cuộc chiến và thân phận lưu vong.

 

Tuyển tập có một tác giả tôi nghĩ rất mới đối với nhiều người: Dohamide hay Đỗ Hải Minh. Dohamide là người gốc Chàm (nay gọi là 'Chăm'), là một nhà khảo cứu về văn hoá và dân tộc Chàm. Từ năm 1962, ông là một trong những tác giả có nhiều bài viết khảo cứu về văn hoá Chàm cho tạp chí Bách Khoa. Tác giả Ngô Thế Vinh nhận xét rằng "Dohamide với suốt một cuộc đời đau đáu đi tìm về cội nguồn, chỉ mong sao phục hồi được nền văn hoá Champa như một căn cước của dân tộc Chăm nhưng rồi cuối đời Dohamide cũng phải đứng trước những 'Cộng đồng Chăm Đôi bờ'." Tại sao đứng trước đôi bờ? Tại vì cộng đồng Chàm bị giằng co giữa một bên là mối hận 'mất nước' đòi li khai và một bên là hoà nhập vào đại gia đình dân tộc Việt Nam. Dohamide muốn dùng văn hoá và những thành quả khảo cứu của ông để thuyết phục giới trẻ không bị lôi cuốn vào những trào lưu cực đoan. Trong bối cảnh căng thẳng giữa các sắc tộc, những học giả độc lập và ôn hoà như Dohamide có thể giúp cho các sắc tộc hiểu nhau hơn, và nhà cầm quyền hoạch định những chánh sách đem lại công bằng và nhân văn cho các sắc tộc.

 

Những trang viết về các nhân vật Nguyễn Tường Bách & Hứa Bảo Liên, Trần Ngọc Ninh, Hoàng Tiến Bảo, Nghiêm Sỹ Tuấn, Đoàn Văn Bá, và Phan Nhật Nam cũng giàu hàm lượng thông tin. Đó là những bài viết có nhiều dữ liệu mới chưa từng được công bố trước đây, giúp cho người đọc hiểu hơn về những suy tư đằng sau các tác phẩm của họ.

 

Một đặc điểm độc đáo của Tuyển tập là những hiện vật, hình ảnh, và thủ bút của tác giả. Những chứng từ mang tính lịch sử này rất đáng để thế hệ sau sử dụng làm chất liệu cho các nghiên cứu về văn học và văn hoá thời Việt Nam Cộng Hoà. Trong thời gian gần đây, một người cầm quyền chánh trị cao nhứt ở trong nước phàn nàn rằng Việt Nam thiếu những tác phẩm hay và lớn, thì Tuyển tập này sẽ giúp cho người đó suy nghĩ lại.

 

Nhà văn Ngô Thế Vinh là một bác sĩ, nên văn phong của anh mang dáng dấp khoa học: trong sáng. Độc giả sẽ không tìm thấy những ngôn từ hoa mỹ hay những ví von thái quá trong Tuyển tập; thay vào đó là những trang mô tả sự việc đã xảy ra như thế nào, ở đâu, và lúc nào. Văn phong trong tuyển tập không có những mỹ từ, nhưng là những chữ chính xác, và do đó, độc giả chỉ có thể hiểu theo logic đường thẳng.

 

Nền văn nghệ và giáo dục VNCH là tập hợp nhiều tác giả và tác phẩm. Qua hai tuyển tập chân dung văn nghệ sĩ, Nhà văn Ngô Thế Vinh dìu dắt độc giả đi qua một hành trình văn học và văn hoá, và gặp những tác giả tiêu biểu đã có những đóng góp mang tính khai phá trong nền văn học nghệ thuật đó. Là một người trong cuộc và chứng nhân của cuộc chiến vừa qua, tác giả mô tả hành trình văn nghệ đã qua như là người thư ký của thời cuộc. Nhưng là một người lưu vong lúc nào cũng trăn trở về quê hương, tác giả nhìn lại hành trình văn nghệ đã qua bằng một lăng kính mới, một cách hiểu mới, và đó chính là một đóng góp của ý nghĩa của Tuyển tập.

 

Tuyển tập này, được Tiến sĩ Eric Henry diễn dịch sang tiếng Anh, là một đóng góp quý báu trong việc gìn giữ ký ức văn hóa. Bản dịch của ông không chỉ chuyển tải ngôn ngữ mà còn thổi hồn vào di sản văn học phong phú của miền Nam Việt Nam, mang đến cho độc giả khắp thế giới một góc nhìn mới mẻ. Là một quân nhân từng tham chiến ở Việt Nam và nghệ sĩ chơi đàn phím, và nay là học giả nghiên cứu văn học Trung Quốc và Việt Nam tại Đại học Bắc Carolina ở Chapel Hill, Tiến sĩ Henry đảm nhận công việc dịch thuật này bằng sự hòa quyện độc đáo giữa trải nghiệm cá nhân và sự am hiểu học thuật. Bản dịch của ông, vừa tinh tế vừa trung thực, giữ được nét sắc sảo và sự trầm lắng trong văn phong của Ngô Thế Vinh, đồng thời vượt qua những khoảng cách về ngôn ngữ, lịch sử và văn hóa. Với nghệ thuật dịch thuật đầy tinh tế, Eric Henry làm sống lại những tiếng nói sôi động của một thời đã từng bị lãng quên, mở ra một nhịp cầu để độc giả hôm nay nối kết với di sản văn hóa tưởng chừng đã phai mờ, nay được thắp sáng trở lại.

 

NGUYỄN VĂN TUẤN

Sydney, 11 Tháng 9, 2025

 

 

 

blank

Tác giả Nguyễn Văn Tuấn là một Thuyền Nhân được định cư tại Úc châu từ năm 1982, hiện là Giáo sư của Khoa Y của Đại học New South Wales, Giáo sư của Trường Y, Đại học Notre Dame Australia, và Giáo sư xuất sắc của Đại học Công nghệ Sydney. Tác giả được biết đến như là một chuyên gia hàng đầu trên thế giới trong lãnh vực loãng xương, được bầu làm Viện Sĩ của Hội Nghiên Cứu Loãng Xương Hoa Kỳ (ASBMR), Viện Sĩ của Viện Hàn Lâm Y Học Australia (AAHMS), Viện Sĩ của Học Viện Hoàng Gia New South Wales, và được Nữ Hoàng Elizabeth Đệ Nhị trao Huân Chương Australia vì những đóng góp quan trọng cho y khoa và giáo dục đại học. Ngoài khoa học, tác giả còn là một người yêu văn học và văn hoá, và đã viết hàng trăm bài điểm sách trong thời gian 50 năm qua.

 

 

 




Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Cơ Quan FDA của Mỹ đã mạnh mẽ cảnh báo hôm Thứ Sáu, 24 tháng 4, chống lại việc sử dụng hydroxychloroquine hay một hợp chất, chloroquine, để điều trị hay ngăn ngừa COVID-19 mà không có sự giám sát y tế chặc chẽ trong bệnh viện hay như một phần của thủ nghiệm lâm sàng. Cơ quan này nói rằng các viên chức của họ đã không chấp thuận thuốc chống sốt rét dùng cho mục đích đó – mà không có sự giám sát chặt chẽ đối với các tác dụng phụ, chúng có thể đưa tới đe dọa sinh mạng.
Với nỗ lực tiếp tục thực hiện các biện pháp bảo vệ y tế chung của cộng đồng, Bà Sherry Johnson, Tổng Điều Hành tạm thời của thành phố đã ra chỉ thị Executive Order EO-03, đòi hỏi nhân viên các cở sở thương mại đang mở cửa vì nhu cầu cần thiết trong mùa đại dịch phải đeo khẩu trang.
Cô Vi lúc mới xuất hiện ở Trung Quốc chẳng ai để ý. Nghe đâu cô ra mắt hồi tháng 11 năm ngoái ở chợ động vật Vũ Hán tỉnh Hồ Bắc. Cô chẳng được để ý vì không mấy ai biết, hay tại ai đó muốn dấu mặt cô? Đến ngày 31/12 Tổ chức Y tế Thế giới WHO mới công bố cho thế giới biết là cô Vi đã xuất hiện và tung tăng lây lan từ người sang người. Ba tuần sau thì thành phố Vũ Hán với hơn chục triệu dân trở nên hoang vu vắng lặng ngay cả trong những ngày tết, đúng ra là lúc phải nhộn nhịp hội hè đình đám. Rồi cô tung tăng qua Nhật, Úc, Thái, Hàn, Pháp, Anh, Ý đem theo lo lắng, sợ hãi đến độ nhiều nơi phải bịt mũi, bịt miệng.
Chúng ta chỉ cần vài thập niên để có thể tạo dựng lại một nền kinh tế lành mạnh và hiệu quả nhưng e sẽ mất đến đôi ba thế hệ mới loại bỏ dần được những thói hư (và tật xấu) vừa nêu. Vấn đề không chỉ đòi hỏi thời gian mà còn cần đến sự nhẫn nại, bao dung, thông cảm (lẫn thương cảm) nữa. Nếu không thì dân tộc này vẫn sẽ tiếp tục bước hết từ bi kịch sang bi kịch khác – cho dù chế độ toàn trị và nguy cơ bị trị không còn.
Chủ tịch Y tế Thế giới Frank Ulrich Montgomery đã chỉ trích mạnh mẽ nhiệm vụ đeo mặt nạ sẽ được áp dụng trên toàn nước Đức trong cuộc chiến chống lại virus corona từ tuần tới. Mặc dù ông ta đeo mặt nạ "vì lịch sự và đoàn kết", nhưng ông ta nghĩ rằng một nghĩa vụ pháp lý là "sai", Montgomery nói với tờ báo Düsseldorf "Rheinische Post" (ấn bản thứ năm).
Ôn dịch Vũ Hán gây nên một cơn khủng hoảng chưa từng thấy trong khối các nước nghèo khó khiến 100 quốc gia trong số 189 thành viên IMF hiện đang cầu cứu cơ quan quốc tế này viện trợ khẩn cấp. Tưởng cần nên tìm hiểu bối cảnh của những quốc gia đang phát triển song song với các phân tích về tác động của khủng hoảng.
Vào khoảng đầu thế kỷ hai mươi, sống được tới tuổi 40, là các cụ ta đã mở tiệc ăn mừng "tứ tuần đại khánh", mà sống tới 70 tuổi thì cả là một sự hiếm có ( nhân sinh thất thập cổ lai hy).Cho nên, chúc tụng nhau, ngoài sự giàu có, ruộng cả ao liền, con cái tốt lành “như tranh, như rối “, các cụ còn chúc nhau
Lúc này trong trận đại dịch, thiên hạ bổng nhiên lây lan nhiễm bịnh ngã ra chết quá nhiều, đúng là những cái chết bất thình lình xảy ra. Không ai biết trước tại sao mới mấy tháng trước còn dắt nhau đi du lịch hà rầm, bây giờ ai nấy bị bắt buộc phải ru rú ở trong nhà trốn con vi khuẩn corona mà nhiều người gọi là cúm tàu suốt bảy ngày trong tuần, 24/24 luôn suốt cả tháng nay như cung nữ thời xưa. Muốn ra khỏi nhà để đi chợ mua thức ăn thì vừa đeo kiếng mát thiệt to, đứng cách nhau cả 2 thước, còn phải mang thêm cái miếng che mũi che miệng, che luôn hơi thở vừa ngộp, vừa bốc hơi mờ cả mắt kiếng hết thấy đường luôn!!!
Các bạn làm nail, làm tóc mến thương, Chúng ta sẽ bắt đầu trở lại nhịp sống của mình sớm. Chúng ta sẽ bắt đầu mở lại tiệm (trận chiến mới) theo một cách an toàn, có tổ chức và rất trách nhiệm. Các bạn sẵn sàng chưa cho trận chiến hoàn toàn mới (với chiến thuật và chiến lượt mới)
Ông xã của em mới ngoài 40 tuổi thôi, nhưng tóc ổng bạc nhiều lắm, nhiều muối hơn tiêu. Em muốn ổng nhuộm tóc nhưng ông không thích. Ra đường người ta cứ tưởng ông là ba của em. Làm sao đây?
Mỗi ngày đều có rất nhiều người muốn xin tái cấp bằng hành nghề, thắc mắc khi phải di chuyển sang tiểu bang khác, đổi địa chỉ nhà ở hay chỗ làm việc, muốn biết tin tức mới nhứt từ Hội Đồng Thẩm Mỹ (HĐTM)...
Nám da xảy ra khi trên làn da xuất hiện những đốm sậm màu, nâu lợt, đậm, thậm chí đen, nhiều hình dạng khác nhau, từ lấm tấm nhỏ gọi là tàn nhang, trên gò má ở tuổi dậy thì, và đầy nhữmg đốm tròn ở tuổi bị lão hóa thường xuất hiện sau độ tuổi 40, chẳng những trên mặt, mà còn có trên lưng bàn tay, và trên thân thể nữa. Nám da có nhiều nguyên nhân lắm, như đốm tàn nhang khi kích thích tố ở tuổi dậy thì hoạt động quá mạnh, ảnh hưởng tia cực tím từ ánh sáng mặt trời, sự lão hóa của da, hoặc trong giai đoạn tế bào tái tạo, sắc tố (Melanin) rối loạn ở tuổi dậy thì, dị ứng thuốc cũng có thể gây nám da.Những loại nám da như tàn nhang, rối loạn nội tiết, sau khi bịnh, lão hóa, thường có hình dạng khác nhau như lấm tấm, hình tròn, to, nhỏ không đều …thường phẳng và màu khác lạ như nâu lợt, nâu đậm, nâu đen.
Mùa xuân lại về, trên áo hoa thiếu nữ. Hàng cotton ren, thêu, hay rayon mát mẻ, in hình hoa sắc màu dịu nhẹ rất xuân. Thế giới đang trong mùa đại dịch, chiếc nón với vành che mặt bổng nhiên thích hợp với mùa xuân năm nay. Nay mai, có thể thời trang phụ nữ sẽ xuất hiện trở lại những chiếc mạng che mặt kết trên vành nón như thời xa xưa vừa bí ẩn, vừa xinh đẹp.
Cuộc khủng hoảng của đại dịch vi khuẩn corona trên toàn cầu vẫn còn làm nhiều nước bất an, đặc biệt tại Hoa Kỳ, khi các báo cáo con số người bị lây và bị thiệt mạng mỗi ngày đểu tang, dù vài nơi đã có giảm và tái mở cửa, nhưng toàn cục thì vẫn chưa thật sự giảm mạnh để làm cho mọi người an tâm. Trong khi đó Trung Cộng vẫn cố tình lợi dụng tình hình khủng hoảng đại dịch để bành trướng thế lực của họ tại Biển Đông. Massachusetts Trở Thành Điểm Nóng Của Dịch Bệnh Vi Khuẩn Corona. Tiểu bang Massachusetts đã trở thành điểm nóng của sự truyền nhiễm vi khuẩn corona, gây quan ngại các viên chức liên bang và những cam kết hỗ trợ từ New York gặp khó khan khi số người thiệt mạng của tiểu bang chuẩn bị tăng gấp đôi trong trong chưa tới một tuần. Số người chết từ COVID-19 được dự đoán sẽ hơn 2,000 trong tuần này tại Massachusetts, nơi mà các viên chức đang chật vật thúc đẩy khả năng chứa bệnh nhân của bệnh viện và theo dõi lây nhiễm mới để cắt giảm sự lây lan của dịch bệnh.
Báo the Washington Times đã đưa tin hôm 25 tháng 1 rằng một chuyên gia vũ khí sinh học Do Thái cho rằng vụ truyền nhiễm vi khuẩn corona trên toàn cầu có thể đã bắt nguồn từ một phòng thí nghiệm ở Vũ Hán liên hệ với chương trình vũ khí sinh học bí mật của Trung Cộng, theo báo the Washington Times cho biết hôm 25 tháng 1. Viện Virology tại Vũ Hán là nơi duy nhất được tuyên bố tại TQ có khả năng làm việc với vi khuẩn, theo phóng viên an ninh quốc gia Bill Gertz viết như thế. Dany Shoham, cựu sĩ quan tình báo quân sự của Do Thái, cáo buộc phòng thí nghiệm nói trên cũng có liên hệ tới chương trình vũ khí sinh học bí mật của Bắc Kinh.“Một số các phòng thí nghiệm tại viện này đã có thể bị dính tới, trong lãnh vực nghiên cứu và phát triển, trong vũ khí sinh học của TQ, ít nhất là về mặt tài sản, nhưng không phải là cơ sở chính của sự liên kết BW của TQ,” theo Gertz cho biết.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.