Hôm nay,  

Dịch là hành trình gian nan

14/11/202510:22:00(Xem: 1173)
blank

Dịch là hành trình gian nan
 

Nguyên Giác
 

Bạn hãy hình dung rằng thế giới này chỉ có ngôn ngữ nói, và không có chữ viết. Lúc đó, chung quanh chúng ta sẽ dày đặc các bức tường cách biệt ngôn ngữ dựng lên. Thế rồi, hãy hình dung sau khi có các phát minh ra chữ viết, lá bối, giấy, mực và rồi máy in... những bức tường ngăn cách đó từng lớp ngã xuống. Vai trò người dịch hiển lộ y hệt như các chiếc cầu nối để truyền thông. Từ đó, tôn giáo lan truyền tới nhiều nơi xa. Tuy nhiên, dịch là một chuyện cực kỳ gian nan.

Chúng ta biết tới Phật giáo và các tôn giáo khác là qua các bản dịch tiếng Việt, và các ngôn ngữ phổ biến khác, như tiếng Anh, tiếng Pháp. Thực ra, không dễ để chuyển ngữ trọn vẹn, đem một bầu không khí văn hóa này sang người đọc ở nền văn hóa khác mà không rơi rớt chữ dọc đường. Vấn đề là, cần nhận ra mức độ rơi rớt ý nghĩa ở một mức tương đối có thể chấp nhận được.

Thí dụ, trong khi dịch từ tiếng Việt sang tiếng Anh, chúng ta có thể lúng túng khi gặp các chữ như: Thầy, Đại đức, Thượng tọa, Hòa thượng. Thiền sư Nhất Hạnh để y nguyên chữ "Thầy" và không dịch ra trong các sách Thầy viết in trong ấn bản tiếng Anh, tiếng Pháp. Chúng ta không biết ý Thầy Nhất Hạnh thế nào, nhưng có thể suy đoán rằng, chữ Thầy trong tiếng Việt còn hàm ý như Cha, như người tái sinh cho chúng ta trong nghĩa tâm linh. Nếu dịch là "teacher" thì chỉ là người truyền kiến thức. Trong khi đó, các chữ Đại đức, Thượng tọa, Hòa thượng trong tiếng Việt lại mang ý nghĩa hành chánh, tới lúc nào đó là cần phong cấp, không đủ ý nghĩa tâm linh.

Do vậy, chúng ta dễ hiểu vì sao ngài Thích Trí Quang ưa tự ký tên là "Sa môn Thích Trí Quang" vì chữ sa môn là phiên âm từ  tiếng Phạn (Sanskrit) cho  "śramaṇa", chỉ cho người xuất gia, rời bỏ gia đình, cạo bỏ râu tóc và khoác áo cà sa. Và chúng ta cũng quen gọi đơn giản, theo truyền thống, thí dụ: Thầy Trí Quang, Thầy Thanh Từ, Thầy Nhất Hạnh, Thầy Tuệ Sỹ... Có một chữ xưng hô nằm ngoài hệ thống hành chánh, và rất khó dịch, là chữ "Ôn" -- may mắn, chữ này thịnh hành riêng ở Miền Trung Việt Nam.

Các Kinh sách tiếng Anh thường dịch các vị Thầy tôn kính là Venerable. Thế rồi, hệ thống hành chánh nhiều quốc gia cho thêm chữ Most Venerable (Bậc rất tôn kính). Các sách cũng có chữ về bậc rất tôn kính, như: Venerable Sir (để chỉ vị sư cao cấp). Hay đơn giản là: Senior Venerable hay Senior Master. Trong văn nói và văn viết, có khi chúng ta thường nghe là "sư phụ" -- chỉ có nghĩa là Thầy. Đối với vị thầy có uy lực tâm linh, có khi được dịch là: Spiritual Master. Nếu chúng ta dịch và bị xem là dịch sai, thế nào cũng bị người này hay người kia rầy.

Trong khi đó, ngay cả các nhà sư Hoa Kỳ và Úc, các vị từng dịch Tam tạng Kinh Pali sang tiếng Anh, đều dùng các chữ mà chúng ta quen dịch là Tỳ kheo, hay Tỳ khưu, trước tên. Thí dụ, các Tam Tạng Pháp Sư như ngài Bhikkhu Bodhi, hay như ngài Bhikkhu Sujato (còn dùng pháp hiệu: Ajahn Sujato, Bhante Sujato), hay như ngài Ṭhānissaro Bhikkhu (còn dùng pháp hiệu: Ajahn Geoff). Họ không dùng thứ bậc hành chánh. Đơn giản, là nhà sư, thế là tuyệt vời rồi.

Trong cương vị người dịch, tôi ưa thích sự đơn giản. Riêng chữ Thầy là đẹp nhất, vì mang ý nghĩa của người Cha. Hãy nhớ rằng, những dịch giả xuất sắc nhất thế giới thường khi vẫn không đồng ý với nhau. Thí dụ, chữ Dukkha trong tiếng Pali (tiếng Sanskrit là: duhkha), trong tiếng Việt thường dịch là Khổ. Nhưng đúng ra, Dukkha có cả chục nghĩa gần nhau trong tiếng Anh, tóm gọn là: đau khổ, đau đớn, bất như ý, buồn phiền, không vui, lo lắng, khó chịu, căng thẳng, thất vọng.

Tương tự, chữ "định" khi dịch sang tiếng Anh là: concentration, immersion, absorption... Và dịch ra thế nào, cũng không đủ nghĩa.  

Chúng ta lấy bài Kệ Pháp Cú số 5 làm một điển hình để thấy quý thầy dịch đôi khi dị biệt nhau. Nơi đây, tất cả các bản tiếng Anh sẽ dịch ra tiếng Việt sát nghĩa để so sánh. Đối chiếu, nơi đây chúng ta lấy bản của Thầy Minh Châu làm điểm mốc.

Pháp Cú 5 (Thầy Minh Châu dịch): Với hận diệt hận thù, Đời này không có được. Không hận diệt hận thù, Là định luật ngàn thu.

Ngài Sujato dịch: Bởi vì hận thù không bao giờ được hóa giải bằng hận thù, mà được hóa giải bằng tình yêu: đây là một lời dạy cổ xưa.

Ngài Suddhāso dịch: Sự thù địch không bao giờ được hóa giải bằng sự thù địch. Chỉ bằng sự không thù địch, nó mới được hóa giải. Đây là chân lý vĩnh hằng.

Ngài Ānandajoti dịch: Bởi vì hận thù không thể chấm dứt ở nơi này, chúng chỉ chấm dứt khi không còn hận thù, chân lý này chắc chắn là vĩnh cửu.

Ngài Buddharakkhita dịch: Hận thù không bao giờ được hóa giải bằng hận thù trên thế gian này. Chỉ có không hận thù mới hóa giải được hận thù. Đây là quy luật vĩnh hằng.

Ngài Peter Feldmeier dịch: Bởi vì thù hận không bao giờ được hóa giải bằng thù hận. Chúng chỉ được hóa giải bằng hòa bình. Đây là quy luật vĩnh cửu.

Ngài Thanissaro dịch: Thù địch không thể chấm dứt bằng thù địch, dù sao đi nữa. Thù địch chỉ có thể chấm dứt bằng phi thù địch: đây, một chân lý bất tận.

Chúng ta thấy rõ dị biệt qua các bản dịch trên, đôi khi xa nghĩa nhau: hóa giải hận thù bằng không hận thù, thì hiển nhiên khác với hóa giải bằng tình yêu, khác với hóa giải bằng hòa bình... Tương tự, định luật ngàn thu thì hiển nhiên khác với lời dạy cổ xưa, khác với quy luật vĩnh cửu, khác với chân lý bất tận...

Do vậy , dịch là công việc gian nan, và có khi những vị Thầy uyên bác nhất vẫn bất đồng.

Bây giờ, chúng ta nói tới hai tranh trong Mười Bức Tranh Chăn Trâu. Thầy Thanh Từ chú giải theo bản Quách Am. Thầy Tuệ Sỹ chú giải theo bản Quách Am và Phổ Minh.

Bài tụng của Thiền sư Quách Am là "Vong ngưu tồn nhân: quên trâu còn người" (tranh số 7), và "Nhân ngưu câu vong: người trâu đều quên" (tranh 8).

Bài tụng của Thiền sư Phổ Minh là  "Nhiệm vận: theo phận" (tranh 7), và "Tương vong: cùng quên" (tranh 8).

Bài tụng của Thiền sư Cự Triệt là "Kỵ ngưu: cưỡi trâu" (tranh 7), và "Vong ngưu: quên trâu" (tranh 8).

Chữ Vong (忘) gồm 7 nét trong các câu trên có nghĩa là Quên. Trong ngôn ngữ đời thường, văn báo chí, các bản tin khi nói về tử vong, thì Vong (亡) gồm 3 nét, nghĩa là chết.

Đây là chỗ kẹt của ngôn ngữ: ngưu là chỉ cho tâm, nhưng "quên tâm" thì không nói lên được ý của các Thiền sư.
 

Chúng ta thấy rằng, thức là dựa vào duyên thì có khởi lên và biến mất. Thí dụ, duyên theo tiếng đàn, thì nhĩ thức khởi lên. Nhưng ngay cả khi tiếng đàn ngưng bặt, thì tâm vẫn còn nghe sự vắng lặng, tâm vẫn trong trẻo, lặng lẽ an nhiên. Cho nên, nói "quên tâm" là chưa nói tột ý. Tương tự, hình ảnh con chim bay trước mắt ta, thì nhãn thức khởi lên, nhưng khi chim bay đi, thì tâm như gương sáng hiện lên. Nghĩa là, cái biết về hình ảnh chim bay và tiếng đàn réo rắt là tâm hiển lộ, thế rồi khi ảnh chim và tiếng đàn biến mất thì cái biết trở thành một tấm gương trong trẻo, vô hình, vô thanh, nhưng nói rằng nó là cái gì thì đều không trúng. Do vậy, nói “quên tâm” chỉ là tạm nói, gượng nói.
 

Ngay các dòng đầu tiên của Bát Nhã Tâm Kinh cũng nói về bức tranh thứ 7 và 8 này: "...sắc bất dị không, không bất dị sắc, sắc tức thị không, không tức thị sắc, thọ tưởng hành thức diệc phục như thị."

Sắc chính là cái được thấy, cái được nghe, cái được ngửi, cái được nếm, cái được chạm xúc, cái được tư lường... chính là Không, và rồi cái Không này cũng chính là Sắc (cái được thấy, cái được nghe, cái được ngửi, cái được nếm, cái được chạm xúc, cái được tư lường). Hễ sống và nhận biết thường trực như thế, là giải thoát. Kinh Susima Sutta (SN 12.70) cho thấy có 60 vị sư trở thành A la hán chỉ bằng nhận biết vô ngã thường trực, trong khi chưa hề nhập định, chưa hề đắc thần thông gì lạ.
 

Trở lại các tranh chăn trâu, ý nghĩa của “quên trâu” chỉ có nghĩa là nhận ra thường trực rằng Tâm chính là Không. Tuy nhiên, nếu không dịch là chữ “vong” (quên) thì dịch làm sao cũng dễ chệch nghĩa.

Chữ “quên tâm” không hề có nghĩa thất niệm, cũng không hề nói có con trâu nào để quên hay để nhớ, mà chỉ muốn nói rằng thực tướng của Tâm chính là Không, và do nơi Không đó, giải thoát mới hiển lộ.
 

Một số người thường thắc mắc rằng, nhiều luận sư Đại thừa nói Phật Tánh có sẵn và không hề biến mất, tại sao chúng ta phải tu hành nữa. Thực ra, Đức Phật không dùng chữ Phật Tánh, mà dùng chữ Pháp vô vi, chính nhờ có Pháp vô vi này, chúng ta mới giải thoát.

Như chuyện chàng nghệ sĩ xiếc Uggasena trong Kinh Pháp Cú bài Kệ 348, bản chú giải ghi rằng khi chàng Uggasena đang đứng trên chiếc sào làm trò giữa chợ, thì Đức Phật đến. Sau khi Đức Phật nói  bài kệ: “Hãy buông bỏ quá khứ, hãy buông bỏ tương lai, hãy buông bỏ hiện tại...” thì chàng Uggasena, người vẫn còn trên đỉnh cây sào, đã chứng đắc quả A-la-hán. Buông bỏ hết, thì cái gì hiện ra? Gọi là Phật Tánh hay gọi là Pháp vô vi thì cũng là để nói cho người khác hiểu. Bởi vì, người hiểu rồi, sẽ thấy rằng ngôn ngữ không chuyên chở được diệu pháp.
 

Tại sao như thế? Không có nghĩa là “quên tâm”, mà chỉ có nghĩa là buông bỏ toàn bộ thân tâm ba thời, tức là buông bỏ toàn bộ pháp hữu vi của sắc thọ tưởng hành thức của ba thời, thì sẽ hiển lộ Pháp vô vi, tức là Niết Bàn, không phải mài giũa gì.

Thiệt sự, dịch cho đúng chữ, lúc nào cũng gian nan. Mà làm sao có chữ nào gọi là đúng được. Vì tâm này là nơi ngôn ngữ sẽ vắng bặt.

 



Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Chiến dịch ‘Bỏ Phiếu Có cho Đề Xuất 16’ vừa công bố đội ngũ lãnh đạo mang tính lịch sử, có các nhà chiến lược và những người ủng hộ cho quyền công dân nổi tiếng, bao gồm một đồng chủ tịch chiến dịch và quản lý chiến dịch người Mỹ gốc châu Á. Đồng chủ tịch của chiến dịch là Vincent Pan, Đồng Tổng Giám Đốc của Tổ Chức Người Trung Hoa Ủng Hộ Chính Sách Đặc Cách. Ông Pan là một nhà lãnh đạo trong vấn đề công lý chủng tộc với kinh nghiệm phát triển phương thức chữa trị HIV/AIDS với Quỹ William Jefferson Clinton, ủng hộ cho sự công bằng trong vấn đề tiếp cận ngôn ngữ, quyền người nhập cư, và chính sách đặc cách.
41 năm trước vào ngày 20-7-1979, tại thủ đô Geneva, Thụy Sĩ, 65 quốc gia họp bàn cứu vớt thuyền nhân Việt Nam đang lênh đênh biển cả và khốn khó các trại tị nạn Đông Nam Á. Kết quả từ hội nghị quốc tế này là có hơn 1 triệu người Tị Nạn Cộng Sản Việt Nam được định cư khắp thế giới.Từ lớp người đông đảo này, họ bảo lãnh thân nhân từ quê nhà sang, sinh con đẻ cái và sau mấy chục năm tạo nên Cộng đồng Việt Nam Hải Ngoại lớn mạnh.
Đa số trong chúng ta thuộc thế hệ baby-boomer tuổi đều tròm trèm trên dưới 70, và chắc chắc đa số là đã lên chức ông bà ngoại hay ông bà nội từ lâu rồi. Nay thì đến tuổi nghỉ hưu, lãnh tiền già sống tà tà, rảnh rỗi đi ra đi vào, vui hưởng tuổi già và chờ ngày...ra đi về lại với cát bụi.
Nhà báo Lê Thiệp qua đời năm 2013 thọ 69 tuổi vì bệnh ung thư nhưng không mất. Anh có một cuốn sách viết dang dở "Ung Thư Ơi, Chào Mi”; nhung sự nghiệp báo chí của anh không dang dở vì anh đã để lại cuốn Lững Thững GIữa Đời.
Tại Iran, tổng thống Iran Hassan Rouhani hôm Thứ Bảy cho biết rằng khoảng 25 triệu người Iran có thể bị truyền nhiễm vi khuẩn corona, khi chính quyền tái ban hành các hạn chế tại thủ đô và những nơi khác. Con số này, từ một báo cáo mà Rouhani trích dẫn trong bài phát biểu trên truyền hình, tương xứng với gần 30% dân số 85 triệu người Iran.
Nhiều chủ tịch ủy ban tại Hạ Viện do Dân Chủ kiểm soát đã kêu gọi một cuộc điều tra tức thì vào các hành động mà các viên chức liên bang tại Thủ Đô Hoa Thịnh Đốn và thành phố Portland thuộc tiểu bang Oregon đã phản ứng với các cuộc biểu tình do cái chết của George Floyd và sự bạo hành của cảnh sát, theo bản tin CNN hôm Chủ Nhật, 19 tháng 7 cho biết.
Chính quyền tại miền trung Trung Quốc đã cho nổ một con đập hôm Chủ Nhật để xả nước đang tăng cao phía sau nó giữa cơn lũ lụt lan rộng khắp đất nước đã lấy đi vài chục mạng người, theo AP cho biết hôm Chủ Nhật, 19 tháng 7 năm 2020.
Thế rồi ngày quốc khánh cũng trôi qua, có điều năm nay lặng lẽ và buồn quá, suốt mấy trăm năm lập quốc, chưa bao giờ lễ quốc khánh lặng lẽ và vắng vẻ như thế. Cơn dịch Coronavirus và phong trào BLM đã làm cho ngày vui lập quốc lâm vào khủng hoảng, chia rẽ và đầy bạo loạn.
Là một học sinh từng say mê môn sử, tôi không thể tưởng tượng được, có một ngày môn học đó bị khai tử!
Các phán quyết gần đây của Tối Cao Pháp Viện về luật y tế Affordable Care Act,về quyền lực của hành pháp qua chức vụ tổng thống, về luật di dân; chứng tỏ quyền lực và ảnh hưởng của Tối Cao Pháp Viện, nhất là vai trò của vị chánh thẩm, 4 vị bảo thủ và 4 vị cấp tiến nên lá phiếu của vị chánh thẩm Roberts có tính cách quyết định.
Đảng Cộng Sản Việt Nam vừa cướp đất của người dân, vừa dâng đất cho Tàu Cộng. Việc cướp đất của người dân xảy ra một thời gian rất dài trên toàn lãnh thổ Việt Nam, tạo ra một khối dân oan khổng lồ đầy căm hận. Đã có nhiều trường hợp người dân bị giết trong hành vi cướp đất. Về việc bán đất cho Tàu Cộng, hiện nay có 149 doanh nghiệp Trung Quốc sở hữu đất trọng yếu về chiến lược quốc gia, ở biên giới Việt Trung và vùng ven biển thuộc 22 tỉnh và thành phố.
Vào ngày Thứ Sáu 24 tháng 7, từ 1:00- 5:00 PM, sẽ có một nỗ lực lớn của những tổ chức cộng đồng, những nhà hoạt động, và những lãnh đạo địa phương có tham gia 2020 Census tại Quận Cam, nhằm mục đích đếm được những thành viên trong cộng đồng khó tiếp xúc nhất tại Garden Grove và Stanton
John Robert Lewis, con của tá điền là người sống sót vì bị đánh đập tàn bạo bởi cảnh sát trong cuộc biểu tình vào năm 1965 tại Selma, Alabama, trở thành một khuôn mặt cột trụ của phong trào dân quyền và dân biểu Quốc Hội Hoa Kỳ lâu đời, đã từ trần sau 6 tháng chống chọi với bệnh ung thư. Ông đã thọ 80 tuổi, theo bản tin của CNN hôm Thứ Bảy, 18 tháng 7 năm 2020.
Đáp lời kêu gọi của Mái ấm Cô nhi tại Trung tâm Nhân đạo Chùa Hộ Pháp nơi cần sự hỗ trợ của bà con người Việt giúp cho 30 học sinh mồ côi có tiền trả học phí và mua học cụ (như tập vở, bút giấy, cặp đựng sách), ngày 12/07/2020, Đoàn CTXH Nghĩa Sinh – với sự hỗ trợ quảng đại của 14 Ân nhân Nghĩa Sinh – đã đáp xe từ Sài Gòn và Phước Tuy đến trao tặng 30 học bổng cho các em học sinh mồ côi.
Với hy vọng về sự phục hồi mạnh mẽ từ cuộc suy thoái do đại dịch gây ra nhanh chóng mờ dần, các nhà hoạch định chính sách nên tạm dừng lại và đúc kết những gì cần thiết để đạt được sự phục hồi bền vững. Các biện pháp ưu tiên trong chính sách cấp bách nhất đã rõ ràng ngay từ đầu, nhưng chúng sẽ đòi hỏi những lựa chọn khó khăn và thể hiện ý chí chính trị.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.