Hôm nay,  

Dịch là hành trình gian nan

14/11/202510:22:00(Xem: 1001)
blank

Dịch là hành trình gian nan
 

Nguyên Giác
 

Bạn hãy hình dung rằng thế giới này chỉ có ngôn ngữ nói, và không có chữ viết. Lúc đó, chung quanh chúng ta sẽ dày đặc các bức tường cách biệt ngôn ngữ dựng lên. Thế rồi, hãy hình dung sau khi có các phát minh ra chữ viết, lá bối, giấy, mực và rồi máy in... những bức tường ngăn cách đó từng lớp ngã xuống. Vai trò người dịch hiển lộ y hệt như các chiếc cầu nối để truyền thông. Từ đó, tôn giáo lan truyền tới nhiều nơi xa. Tuy nhiên, dịch là một chuyện cực kỳ gian nan.

Chúng ta biết tới Phật giáo và các tôn giáo khác là qua các bản dịch tiếng Việt, và các ngôn ngữ phổ biến khác, như tiếng Anh, tiếng Pháp. Thực ra, không dễ để chuyển ngữ trọn vẹn, đem một bầu không khí văn hóa này sang người đọc ở nền văn hóa khác mà không rơi rớt chữ dọc đường. Vấn đề là, cần nhận ra mức độ rơi rớt ý nghĩa ở một mức tương đối có thể chấp nhận được.

Thí dụ, trong khi dịch từ tiếng Việt sang tiếng Anh, chúng ta có thể lúng túng khi gặp các chữ như: Thầy, Đại đức, Thượng tọa, Hòa thượng. Thiền sư Nhất Hạnh để y nguyên chữ "Thầy" và không dịch ra trong các sách Thầy viết in trong ấn bản tiếng Anh, tiếng Pháp. Chúng ta không biết ý Thầy Nhất Hạnh thế nào, nhưng có thể suy đoán rằng, chữ Thầy trong tiếng Việt còn hàm ý như Cha, như người tái sinh cho chúng ta trong nghĩa tâm linh. Nếu dịch là "teacher" thì chỉ là người truyền kiến thức. Trong khi đó, các chữ Đại đức, Thượng tọa, Hòa thượng trong tiếng Việt lại mang ý nghĩa hành chánh, tới lúc nào đó là cần phong cấp, không đủ ý nghĩa tâm linh.

Do vậy, chúng ta dễ hiểu vì sao ngài Thích Trí Quang ưa tự ký tên là "Sa môn Thích Trí Quang" vì chữ sa môn là phiên âm từ  tiếng Phạn (Sanskrit) cho  "śramaṇa", chỉ cho người xuất gia, rời bỏ gia đình, cạo bỏ râu tóc và khoác áo cà sa. Và chúng ta cũng quen gọi đơn giản, theo truyền thống, thí dụ: Thầy Trí Quang, Thầy Thanh Từ, Thầy Nhất Hạnh, Thầy Tuệ Sỹ... Có một chữ xưng hô nằm ngoài hệ thống hành chánh, và rất khó dịch, là chữ "Ôn" -- may mắn, chữ này thịnh hành riêng ở Miền Trung Việt Nam.

Các Kinh sách tiếng Anh thường dịch các vị Thầy tôn kính là Venerable. Thế rồi, hệ thống hành chánh nhiều quốc gia cho thêm chữ Most Venerable (Bậc rất tôn kính). Các sách cũng có chữ về bậc rất tôn kính, như: Venerable Sir (để chỉ vị sư cao cấp). Hay đơn giản là: Senior Venerable hay Senior Master. Trong văn nói và văn viết, có khi chúng ta thường nghe là "sư phụ" -- chỉ có nghĩa là Thầy. Đối với vị thầy có uy lực tâm linh, có khi được dịch là: Spiritual Master. Nếu chúng ta dịch và bị xem là dịch sai, thế nào cũng bị người này hay người kia rầy.

Trong khi đó, ngay cả các nhà sư Hoa Kỳ và Úc, các vị từng dịch Tam tạng Kinh Pali sang tiếng Anh, đều dùng các chữ mà chúng ta quen dịch là Tỳ kheo, hay Tỳ khưu, trước tên. Thí dụ, các Tam Tạng Pháp Sư như ngài Bhikkhu Bodhi, hay như ngài Bhikkhu Sujato (còn dùng pháp hiệu: Ajahn Sujato, Bhante Sujato), hay như ngài Ṭhānissaro Bhikkhu (còn dùng pháp hiệu: Ajahn Geoff). Họ không dùng thứ bậc hành chánh. Đơn giản, là nhà sư, thế là tuyệt vời rồi.

Trong cương vị người dịch, tôi ưa thích sự đơn giản. Riêng chữ Thầy là đẹp nhất, vì mang ý nghĩa của người Cha. Hãy nhớ rằng, những dịch giả xuất sắc nhất thế giới thường khi vẫn không đồng ý với nhau. Thí dụ, chữ Dukkha trong tiếng Pali (tiếng Sanskrit là: duhkha), trong tiếng Việt thường dịch là Khổ. Nhưng đúng ra, Dukkha có cả chục nghĩa gần nhau trong tiếng Anh, tóm gọn là: đau khổ, đau đớn, bất như ý, buồn phiền, không vui, lo lắng, khó chịu, căng thẳng, thất vọng.

Tương tự, chữ "định" khi dịch sang tiếng Anh là: concentration, immersion, absorption... Và dịch ra thế nào, cũng không đủ nghĩa.  

Chúng ta lấy bài Kệ Pháp Cú số 5 làm một điển hình để thấy quý thầy dịch đôi khi dị biệt nhau. Nơi đây, tất cả các bản tiếng Anh sẽ dịch ra tiếng Việt sát nghĩa để so sánh. Đối chiếu, nơi đây chúng ta lấy bản của Thầy Minh Châu làm điểm mốc.

Pháp Cú 5 (Thầy Minh Châu dịch): Với hận diệt hận thù, Đời này không có được. Không hận diệt hận thù, Là định luật ngàn thu.

Ngài Sujato dịch: Bởi vì hận thù không bao giờ được hóa giải bằng hận thù, mà được hóa giải bằng tình yêu: đây là một lời dạy cổ xưa.

Ngài Suddhāso dịch: Sự thù địch không bao giờ được hóa giải bằng sự thù địch. Chỉ bằng sự không thù địch, nó mới được hóa giải. Đây là chân lý vĩnh hằng.

Ngài Ānandajoti dịch: Bởi vì hận thù không thể chấm dứt ở nơi này, chúng chỉ chấm dứt khi không còn hận thù, chân lý này chắc chắn là vĩnh cửu.

Ngài Buddharakkhita dịch: Hận thù không bao giờ được hóa giải bằng hận thù trên thế gian này. Chỉ có không hận thù mới hóa giải được hận thù. Đây là quy luật vĩnh hằng.

Ngài Peter Feldmeier dịch: Bởi vì thù hận không bao giờ được hóa giải bằng thù hận. Chúng chỉ được hóa giải bằng hòa bình. Đây là quy luật vĩnh cửu.

Ngài Thanissaro dịch: Thù địch không thể chấm dứt bằng thù địch, dù sao đi nữa. Thù địch chỉ có thể chấm dứt bằng phi thù địch: đây, một chân lý bất tận.

Chúng ta thấy rõ dị biệt qua các bản dịch trên, đôi khi xa nghĩa nhau: hóa giải hận thù bằng không hận thù, thì hiển nhiên khác với hóa giải bằng tình yêu, khác với hóa giải bằng hòa bình... Tương tự, định luật ngàn thu thì hiển nhiên khác với lời dạy cổ xưa, khác với quy luật vĩnh cửu, khác với chân lý bất tận...

Do vậy , dịch là công việc gian nan, và có khi những vị Thầy uyên bác nhất vẫn bất đồng.

Bây giờ, chúng ta nói tới hai tranh trong Mười Bức Tranh Chăn Trâu. Thầy Thanh Từ chú giải theo bản Quách Am. Thầy Tuệ Sỹ chú giải theo bản Quách Am và Phổ Minh.

Bài tụng của Thiền sư Quách Am là "Vong ngưu tồn nhân: quên trâu còn người" (tranh số 7), và "Nhân ngưu câu vong: người trâu đều quên" (tranh 8).

Bài tụng của Thiền sư Phổ Minh là  "Nhiệm vận: theo phận" (tranh 7), và "Tương vong: cùng quên" (tranh 8).

Bài tụng của Thiền sư Cự Triệt là "Kỵ ngưu: cưỡi trâu" (tranh 7), và "Vong ngưu: quên trâu" (tranh 8).

Chữ Vong (忘) gồm 7 nét trong các câu trên có nghĩa là Quên. Trong ngôn ngữ đời thường, văn báo chí, các bản tin khi nói về tử vong, thì Vong (亡) gồm 3 nét, nghĩa là chết.

Đây là chỗ kẹt của ngôn ngữ: ngưu là chỉ cho tâm, nhưng "quên tâm" thì không nói lên được ý của các Thiền sư.
 

Chúng ta thấy rằng, thức là dựa vào duyên thì có khởi lên và biến mất. Thí dụ, duyên theo tiếng đàn, thì nhĩ thức khởi lên. Nhưng ngay cả khi tiếng đàn ngưng bặt, thì tâm vẫn còn nghe sự vắng lặng, tâm vẫn trong trẻo, lặng lẽ an nhiên. Cho nên, nói "quên tâm" là chưa nói tột ý. Tương tự, hình ảnh con chim bay trước mắt ta, thì nhãn thức khởi lên, nhưng khi chim bay đi, thì tâm như gương sáng hiện lên. Nghĩa là, cái biết về hình ảnh chim bay và tiếng đàn réo rắt là tâm hiển lộ, thế rồi khi ảnh chim và tiếng đàn biến mất thì cái biết trở thành một tấm gương trong trẻo, vô hình, vô thanh, nhưng nói rằng nó là cái gì thì đều không trúng. Do vậy, nói “quên tâm” chỉ là tạm nói, gượng nói.
 

Ngay các dòng đầu tiên của Bát Nhã Tâm Kinh cũng nói về bức tranh thứ 7 và 8 này: "...sắc bất dị không, không bất dị sắc, sắc tức thị không, không tức thị sắc, thọ tưởng hành thức diệc phục như thị."

Sắc chính là cái được thấy, cái được nghe, cái được ngửi, cái được nếm, cái được chạm xúc, cái được tư lường... chính là Không, và rồi cái Không này cũng chính là Sắc (cái được thấy, cái được nghe, cái được ngửi, cái được nếm, cái được chạm xúc, cái được tư lường). Hễ sống và nhận biết thường trực như thế, là giải thoát. Kinh Susima Sutta (SN 12.70) cho thấy có 60 vị sư trở thành A la hán chỉ bằng nhận biết vô ngã thường trực, trong khi chưa hề nhập định, chưa hề đắc thần thông gì lạ.
 

Trở lại các tranh chăn trâu, ý nghĩa của “quên trâu” chỉ có nghĩa là nhận ra thường trực rằng Tâm chính là Không. Tuy nhiên, nếu không dịch là chữ “vong” (quên) thì dịch làm sao cũng dễ chệch nghĩa.

Chữ “quên tâm” không hề có nghĩa thất niệm, cũng không hề nói có con trâu nào để quên hay để nhớ, mà chỉ muốn nói rằng thực tướng của Tâm chính là Không, và do nơi Không đó, giải thoát mới hiển lộ.
 

Một số người thường thắc mắc rằng, nhiều luận sư Đại thừa nói Phật Tánh có sẵn và không hề biến mất, tại sao chúng ta phải tu hành nữa. Thực ra, Đức Phật không dùng chữ Phật Tánh, mà dùng chữ Pháp vô vi, chính nhờ có Pháp vô vi này, chúng ta mới giải thoát.

Như chuyện chàng nghệ sĩ xiếc Uggasena trong Kinh Pháp Cú bài Kệ 348, bản chú giải ghi rằng khi chàng Uggasena đang đứng trên chiếc sào làm trò giữa chợ, thì Đức Phật đến. Sau khi Đức Phật nói  bài kệ: “Hãy buông bỏ quá khứ, hãy buông bỏ tương lai, hãy buông bỏ hiện tại...” thì chàng Uggasena, người vẫn còn trên đỉnh cây sào, đã chứng đắc quả A-la-hán. Buông bỏ hết, thì cái gì hiện ra? Gọi là Phật Tánh hay gọi là Pháp vô vi thì cũng là để nói cho người khác hiểu. Bởi vì, người hiểu rồi, sẽ thấy rằng ngôn ngữ không chuyên chở được diệu pháp.
 

Tại sao như thế? Không có nghĩa là “quên tâm”, mà chỉ có nghĩa là buông bỏ toàn bộ thân tâm ba thời, tức là buông bỏ toàn bộ pháp hữu vi của sắc thọ tưởng hành thức của ba thời, thì sẽ hiển lộ Pháp vô vi, tức là Niết Bàn, không phải mài giũa gì.

Thiệt sự, dịch cho đúng chữ, lúc nào cũng gian nan. Mà làm sao có chữ nào gọi là đúng được. Vì tâm này là nơi ngôn ngữ sẽ vắng bặt.

 



Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Một khu trục hạm phi đạn dẫn đường của Hải Quân Hoa Kỳ đi qua vùng biển gần quần đảo Hoàng Sa ở Biển Đông thách thức yêu sách của Trung Quốc đối với khu vực, theo tin của AFP tường thuật Hải Quân cho biết hôm Thứ Tư, 29 tháng 4.
Đến nay, đối với đồng bào ở trong nước và cộng đồng người Việt ở hải ngoại kể từ 30-4-1975, sau 45 năm, những ngày ấy, những năm tháng ấy, không bom đạn trên đầu, nhưng sao trong lòng của mỗi chúng ta cứ lo âu, xao xuyến, sục sôi những chuyển đổi. Không sục sôi chuyển đổi sao được, những tiến bộ Khoa học Công nghệ 4.0, nhất là sự tiến bộ của điện toán, của hệ thống truyền thông, thông tin vượt tất cả mọi kiểm soát, vượt mọi tường lửa, thế giới phô bày trước mắt loài người, trước mặt 90 triệu đồng bào Việt Nam, những cái hay cũng như những cái dỡ của nó một cách phũ phàng.
Ngày 29 tháng 4, năm 2020, nhân tưởng niệm 45 năm tháng Tư Đen, các Dân Biểu Hoa Kỳ Alan Lowenthal, Lou Correa và Harley Rouda đã gửi thư cho Chủ Tịch Nước Nguyễn Phú Trọng và Thủ Tướng Nguyễn Xuân Phúc yêu cầu trả tự do cho tất cả tù nhân lương tâm tại VN, tiếp tục việc trùng tu Nghĩa Trang Quân Đội Biên Hòa, cho phép các tổ chức tôn giáo độc lập được công khai hoạt động, và bảo vệ các quyền và tự do căn bản của công dân Việt Nam.
Trong tuần lễ này, Dân Biểu Liên Bang Lou Correa (CA-46) đã giới thiệu nghị quyết tưởng niệm về sự hy sinh và can đảm của người tị nạn Việt Nam bỏ chạy khỏi miền nam Việt Nam từ sau ngày Sài Gòn sụp đổ khoảng 45 năm về trước.
ngôi Thiền viện trang nghiêm đang mọc lên nơi Danh thắng Bạch Mã, sống động giữa lòng Hồ Truồi; hay một Thiền phái Trúc Lâm đang được sống dậy trong lòng người dân xứ Huế.
Máu đã đổ suốt từ thời chiến tranh cho tới lúc hòa bình 45 năm nay, những giọt máu của người dân trong nước khao khát nền Tự Do Dân Chủ vẫn còn chảy trong nhà tù với những bản án khắc nghiệt dành cho họ và những người đã chết đều có thật. Rất thật.
Nhiều người Mỹ gốc Việt trên khắp đất nước sẽ tham gia vào lực lượng vận chuyển, phân phát đồ ăn và các dụng cụ cần thiết để hỗ trợ nhân viên y tế chiến đấu với dịch bệnh COVID-19
“Bà X khoảng bốn mươi tuổi, hiện đang sống với chồng và con gái trong một căn nhà do chính họ làm chủ, ở California. Bà nói thông thạo hai thứ tiếng: Anh và Việt. Phục sức giản dị, trông buồn bã và lo lắng, bà X tuy dè dặt nhưng hoàn toàn thành thật khi trả lời mọi câu hỏi được đặt ra. “Bà rời khỏi Việt Nam vào năm 1980, khi còn là một cô bé, cùng với chị và anh rể. Ghe bị cướp ba lần, trong khi lênh đênh trong vịnh Thái Lan. Chị bà X bị hãm hiếp ngay lần thứ nhất. Khi người anh của bà X xông vào cứu vợ, ông bị đập búa vào đầu và xô xuống biển. Lần thứ hai, mọi chuyện diễn tiến cũng gần như lần đầu. Riêng lần cuối, khi bỏ đi, đám hải tặc còn bắt theo theo mấy thiếu nữ trẻ nhất trên thuyền. Chị bà X là một trong những người này.
Tìm được ý nghĩa thực của phương trình từ năm 2012 nhưng không dám công bố vì còn kẹt một bí mật cuối cùng, loay hoay nghiên cứu, tìm tòi hàng năm không giải nổi. Nó nằm trong chữ C² (C bình phương) – bình phương tốc độ ánh sáng. Vật chất chỉ cần chuyển động nhanh bằng (C), tốc độ ánh sáng, là biến thành năng lượng rồi, còn sót cái gì để mà đòi bay nhanh hơn? – C+1 đã là dư. C nhân hai, nhân ba là dư quá lố, vậy mà ở đây còn dư kinh hồn hơn, là c bình phương lận – c nhân với c (186,282 x 186,282) nghĩa là khoảng 34,700,983,524 dặm/ giây!
Sau trận Phước Long 6/1/1975, Hoa Kỳ im lặng, Ủy ban Quốc tế Kiểm soát và Giám sát Đình chiến bất lực, cuộc chiến đã đến hồi chấm dứt. Ngày 10/3/1975, Thị xã Ban Mê Thuột bị tấn công thất thủ sau hai ngày chống cự, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu ra lệnh rút quân, cao nguyên Trung phần lọt vào tay cộng sản. Ngày 8/3/1975, quân Bắc Việt bắt đầu tấn công vào Quảng Trị, Quảng Trị mất, rồi các tỉnh miền Trung lần lượt mất theo.
Khi bỏ nước ra đi tìm tự do, tất cả bậc cha mẹ Việt Nam đều nghĩ đến tương lai của các đứa con mình.Các con cần phải học, học và học… Sự thành đạt của con em chúng ta trong học vấn được xem như là sự thành công và niềm hảnh diện chung của cha mẹ Viêt Nam trên miền đất hứa.
Cố vấn y tế của Bạch Ốc Bác Sĩ Anthony Fauci cho biết hôm Thứ Ba, 28 tháng 4 rằng “có thể là một mùa thu xấu” nếu các nhà nghiên cứu không tìm ra cách trị liệu hiệu quả để chống lại vi khuẩn corona vào lúc đó. Vi khuẩn sẽ chắc chắn trở lại Hoa Kỳ ngay cả khi các trường hợp bắt đầu ổn định, theo BS Fauci, giám đốc Viện Bệnh Dị Ứng và Nhiễm Trùng Quốc Gia, phát biểu trong cuộc phỏng vấn với Câu Lạc Bộ Kinh Tế Của Thủ Đô Hoa Thịnh Đốn. Covid-19 “sẽ không biến mất khỏi hành tinh,” theo ông cho biết, rằng các chuyên gia bệnh truyền nhiễm đang tìm hiểu về cách vi khuẩn này hoạt động bằng việc quan sát việc lây lan trỗi dậy tại nhiều vùng khác như miền nam Phi Châu mà đang bắt đầu vào mùa lạnh của họ.
Các trường học tại California có thể đón học sinh trở lại vào mùa hè năm nay và các cơ sở kinh doanh bán lẻ và sản xuất có thể tái mở cửa trong những tuần lễ sắp tới, theo Thống Đốc California Gavin Newsom cho biết hôm Thứ Ba, 28 tháng 4 khi ông đưa ra cái nhìn chắc chắn nhất từ trước tới nay về điều gì tái mở cửa từ từ có thể cụ thể nhất. Với khả năng chăm sóc sức khỏe và sự ổn định số người vào bệnh viện, Newsom nói rằng tiểu bang chỉ còn cách “nhiều tuần, không phải nhiều tháng” từ việc thực hiện “những điều chỉnh có ý nghĩa” đối với lệnh toàn tiểu bang mà đã ban xuống cho người dân California ở trong nhà trong gần 6 tuần lễ qua. Hôm Thứ Ba, Newsom cho biết các trường học có thể bắt đầu niên học kế tiếp sớm hơn, có thể cuối tháng 7 hay đầu tháng 8, dù ông đã không cho biết chi tiết hướng dẫn có thể xảy ra trong các trường học.
Hội Đồng Giám Sát Quận Cam đã bỏ phiếu với tỉ lệ 5 trên 0 vào chiều Thứ Ba, 28 tháng 4 để mở cửa các cơ sở kinh doanh với những hướng dẫn bảo đảm sự an toàn của công chúng. Các hướng dẫn được giới thiệu bởi nữ Chủ Tịch Michelle Steel và Giám Sát Viên Don Wagner được thông qua bởi hội đồng sẽ áp dụng như mô hình cho Quận Cam để trở lại tình trạng sinh hoạt bình thường, theo các viên chức cho biết. Theo hội đồng, “Tất cả đề nghị theo Cơ Quan Chăm Sóc Sức Khỏe Quận Cam và không thay thế bất cứ lệnh mâu thuẫn hay hạn chế nào được đưa ra bởi các chính quyền địa phương, Tiểu Bang California, hay Chính Phủ Liên Bang.” “Quận Cam đã “làm thẳng đường cong” một cách hiệu quả.”
Dân Biểu Liên Bang Hoa Kỳ Alan Lowenthal (CA-47) ngày hôm nay đã đệ trình Nghị Quyết Hạ Viện ghi nhận biến cố lịch sử quan trọng và tưởng niệm 45 năm ngày Sài Gòn thất thủ và sự sập đổ bi thảm của Việt Nam Cộng Hòa. Vào ngày 30 tháng 4, năm 1975, Sài Gòn, thủ đô Việt Nam Cộng Hòa đã bị lực lượng Cộng sản xâm chiếm trong Tháng Tư Đen và Sài Gòn đã bị thất thủ. Mỗi năm biến cố trọng đại này được các cộng đồng người Mỹ gốc Việt khắp Hoa Kỳ tổ chức tưởng niệm.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.