Hôm nay,  

Biết ơn: cửa vào sơ thiền, giải thoát

26/11/202522:44:00(Xem: 639)
blank

Biết ơn: cửa vào sơ thiền, giải thoát

Nguyên Giác

 

Người dạy mình một chữ cũng là Thầy, nửa chữ cũng là Thầy. Nhất tự vi sư, bán tự vi sư. Ông bà mình thường nhắc con như thế khi đưa con vào sơ học. Người dân Việt đã được dạy lòng biết ơn từ những ngày thơ ấu như thế. Chúng ta đang bước vào mùa Lễ Tạ Ơn tại Hoa Kỳ. Bầu không khí lễ hội đôi khi tưng bừng quá, có thể làm chúng ta quên đi sự sâu lắng cần thiết để nghĩ tới những ơn sâu nghĩa nặng mà chúng ta đã thọ nhận trong kiếp này. Đối với Phật giáo, lòng biết ơn và đền ơn là một phẩm chất cao quý cần có. Bài Kinh về Lòng Biết Ơn là Kinh đầu tiên Đức Phật dạy sau khi thành Phật. Đó là một bài Kinh vô ngôn. Thêm nữa, trong một bài Kinh có ký số là SN 5.264, Đức Phật dạy rằng những người không sống với lòng biết ơn sẽ không thể vào sơ thiền. Do vậy, biết ơn là một phẩm tính chúng ta cần phải tu dưỡng không rời.

Kho truyện cổ tích Việt Nam có nhiều truyện đề cao lòng biết ơn. Trong đó có truyện Trạng Nguyên Tô Tịch, còn gọi là Ông Trạng Nồi. Thuở xưa, có một chàng trai nghèo tên là Tô Tịch, hàng ngày phải kiếm củi để lấy tiền ăn học. Với sự thông minh và lòng ham học, chàng ngày đêm miệt mài ôn thi. Vì quá nghèo và không có thời gian kiếm gạo, chàng luôn đợi nhà hàng xóm ăn cơm xong rồi chạy sang mượn nồi, mục đích là để ăn vét cơm cháy còn sót lại, nhờ đó mà có đủ sức học.

Năm ấy, chàng tham dự khoa thi và đỗ đầu bảng, trở thành Trạng Nguyên. Vua ban thưởng và cho phép trạng tự chọn vật quý ban thưởng. Trước sự ngạc nhiên của tất cả mọi người, tân trạng nguyên chỉ xin nhà vua ban cho một chiếc nồi nhỏ bằng vàng. Khi về làng thăm quê, Trạng Nguyên Tô Tịch cầm chiếc nồi vàng đến thẳng nhà người hàng xóm đã cho mình mượn nồi năm xưa, tặng chiếc nồi quý giá để tạ ơn vì sự giúp đỡ vô tình đó. Trạng tiết lộ rằng, nhờ những miếng cơm cháy vét từ nồi của họ mà chàng mới có sức học và đỗ đạt. Dân làng và chủ nhà vô cùng cảm phục lòng hiếu học, sự kiên trì và đặc biệt là lòng biết ơn sâu sắc của vị trạng nguyên trẻ tuổi. Từ đó, Tô Tịch được dân gian gọi thân thiết là Ông Trạng Nồi.

Nơi Miền Tây VN, có một hệ phái Phật Giáo lấy tên là Phật Giáo Tứ Ân. Cách tu dưỡng là đề cao Ơn cha mẹ, Ơn thầy bạn, Ơn nhà nước, Ơn chúng sanh. Đó là Tứ Ân, tức là bốn ơn lớn, mà Đức Phật đã dạy chớ quên. Trong sách Phật Học Thường Thức, tác giả Tâm Minh Lê Đình Thám viết rằng cha mẹ sinh ra và nuôi dưỡng chúng ta, Thầy bạn giúp cho chúng ta “hiểu biết điều hay, lẽ phải, bỏ dữ, làm lành, thì mới là ân nhân. Báo ơn thầy bạn, người đạo Phật chỉ yếu là báo ơn Tam bảo, nghĩa là báo ơn Phật, bằng cách cứu độ chúng sanh, phục vụ chúng sanh, báo ơn Phật bằng cách lưu thông và tuyên dương Phật pháp, báo ơn Tăng bằng cách phát triển và củng cố đoàn thể đệ tử Phật, trên tinh thần lục hòa, ngũ đức, bằng cách giúp đỡ những người tu học và tuyên dương Chánh pháp.” (1)

Nghĩa là, hoằng pháp là một pháp đền ơn. Ngài Tâm Minh viết về chúng ta phải báo ơn nhà nước để làm cho nhân dân an cư lạc nghiệp và bảo vệ đất nước. Trong khi đó, ơn chúng sanh đối với chúng ta là vô cùng tận, theo ngài Tâm Minh: “Nếu kể từ vô lượng, vô số kiếp, thì tất cả chúng sanh đều có ơn và cần phải báo đáp tất cả chúng sanh, nếu kể riêng về đời sống hiện tại, thì báo ơn chúng sanh là báo ơn nhân loại cần lao nói chung và báo ơn đồng bào lao động nói riêng.” (1)

Đã học theo Phật thì phải bắt chước theo Phật. Trong đó, một phẩm tính cần thiết là lòng biết ơn. Đặc biệt, biết ơn là nội dung bài kinh đầu tiên Đức Phật dạy sau khi Ngài thành Phật. Trong sách Mahabuddhavamsa (2), do nhà sư Miến Điện Mingun Sayadaw biên soạn dựa theo các văn bản Pali, Đức Phật trong tuần lễ đầu tiên đã ngồi trên Kim cương bảo tọa để nhập định để hưởng niềm hạnh phúc giải thoát. Tuần lễ thứ nhì kế tiếp gọi là Tuần Lễ Nhìn Ngắm Không Chớp Mắt: trong bảy ngày, Đức Phật nhìn chăm chú vào cây Đại Bồ Đề và tòa Kim cương bảo tọa mà không chớp mắt, được gọi là tuần lễ Animisa sattāha.

Phât sử kể rằng, sau khi thành Phật và ngồi kiết già hưởng hạnh phúc A-la-hán, Đức Phật ngự trên tòa Aparājita trong bảy ngày. Trong dòng tâm thức của một số chư thiên và Phạm Thiên bình thường (ngoài những vị Ariya và Phạm Thiên đã biết được các đặc tính của Đức Phật, một phần vì họ đã chứng ngộ Đạo Quả vào thời các vị Phật trước), có những nghi ngờ nảy sinh khi họ tự hỏi: “Cho đến bây giờ Đức Phật vẫn chưa rời khỏi tòa. Ngoài những đặc tính Ngài đã có, còn có những đặc tính nào khác giúp Ngài đạt được Phật quả không?”

Vào ngày thứ tám (ngày trăng khuyết thứ tám), biết được sự nghi ngờ của chư thiên và Phạm thiên, Đức Phật bay lên hư không và thực hiện Thần thông song hành nước và lửa để diệt trừ nghi ngờ của họ. Sau khi thực hiện Thần thông song hành nước và lửa để diệt trừ nghi ngờ của chư thiên và Phạm thiên, Đức Phật từ trời giáng xuống và đứng thẳng như một cây cột vàng tại vị trí phía đông bắc của Tòa Aparājita, suy ngẫm: "Ta quả thực đã đạt được Toàn giác trên Tòa Aparājita này." Ngài trải qua bảy ngày không nhắm mắt, chỉ nhìn lên ngai vàng và cây bồ đề, nơi Ngài đã chứng đắc Phật quả nhờ những Ba La Mật mà Ngài đã viên mãn trong suốt bốn A-tăng-kỳ và một trăm ngàn đại kiếp.

Việc ngài đứng liên tục 7 ngày 7 đêm nhìn vào cây Bồ Đề để tri ân cây đã che chở gió mưa cho ngài là một bài kinh sống động, nhưng vô ngôn, dạy cho chúng ta biết trân trọng tất cả các duyên trong cõi này đã hộ trì, gìn giữ thân tâm chúng ta. Trong đời thường, chúng ta đôi khi cũng biết ơn cây cỏ núi rừng chung quanh mình, nhưng hẳn là chưa có ai như Đức Phật với cách rất mực trân trọng với cội cây đã che chở cho ngài như thế. Đối với một cội cây Bồ Đề đã biết ơn như thế, hiển nhiên là đối với chung sanh, tức là cha mẹ thân quyến nhiều đời, tấm lòng của Đức Phật hiển nhiên là rất mực sâu nặng, bất khả đo lường.

Tại sao chúng ta cần có lòng biết ơn? Bởi vì trong khi tu học, nếu không có lòng biết ơn, chúng ta có thể rơi vào tà thiền, tà định. Nhìn lại lịch sử Phật giáo, chúng ta từng thấy nhiều vị thầy chỉ mới tu được chứng đắc chút xíu, liền tự cho là mình vĩ đại cỡ như Phật, như Tổ, rồi lập tông, lập phái, rồi nặng lời phỉ báng, chê gièm những người đi trước, hoàn toàn không chút lòng biết ơn nào. Không có lòng biết ơn, dù là biết ơn một bữa cơm chay trong chùa, là sẽ dẫn tới những kiêu mạn về sau.

Chúng ta cần cảnh giác với những người có năng lực phi phàm, nhưng là tà thiền, tà định. Kinh MN 108, bản dịch của Thầy Minh Châu, ghi rằng, trích: “—Này Bà-la-môn, Thế Tôn ấy không tán thán tất cả Thiền định, không không tán thán tất cả Thiền định. Và này Bà-la-môn, loại Thiền định nào Thế Tôn ấy không tán thán? Ở đây, này Bà-la-môn, một số vị sống với tâm thấm nhuần dục tham, bị dục tham chi phối, và không như thật biết sự giải thoát khỏi dục tham đã được khởi lên. Vị ấy lấy dục tham làm đối tượng tối hậu, Thiền tu, Thiền tư, Thiền định, Thiền nhập. Vị ấy sống với tâm thấm nhuần sân hận, bị sân hận chi phối, và không như thật biết sự giải thoát khỏi sân hận đã được khởi lên. Vị ấy lấy sân hận làm đối tượng tối hậu, Thiền tu, Thiền tư, Thiền định, Thiền nhập. Vị ấy sống với tâm thấm nhuần hôn trầm thụy miên, bị hôn trầm thụy miên chi phối, và không như thật biết sự giải thoát khỏi hôn trầm thụy miên đã được khởi lên. Vị ấy lấy hôn trầm thụy miên làm đối tượng tối hậu, Thiền tu, Thiền tư, Thiền định, Thiền nhập. Vị ấy sống với tâm thấm nhuần trạo hối, bị trạo hối chi phối và không như thật biết sự giải thoát khỏi trạo hối đã được khởi lên. Vị ấy lấy trạo hối làm đối tượng tối hậu, Thiền tu, Thiền tư, Thiền định, Thiền nhập. Vị ấy sống với tâm thấm nhuần nghi hoặc, bị nghi hoặc chi phối và không như thật biết sự giải thoát khỏi nghi hoặc đã được khởi lên. Vị ấy lấy nghi hoặc làm đối tượng tối hậu, Thiền tu, Thiền tư, Thiền định, Thiền nhập. Này Bà-la-môn, Thế Tôn ấy không tán thán loại Thiền định như vậy.” (3)
 

Trong khi đó, Đức Phật dạy một điểm cực kỳ quan trọng là: Những người sống vô ơn sẽ tự làm tan vỡ, ngay cả khi họ đã sống thiện được ở thân, khẩu, và ý. Bởi vì biết ơn và vô ơn là phương diện thứ tư của thiện và bất thiện, bên cạnh ba phương diện của thân, khẩu và ý. Trong Kinh AN 4.223, nơi đây, chúng ta dịch theo bản tiếng Anh của ngài Sujato:

Khi một kẻ ngu si, bất tài, giả dối có bốn đặc điểm, họ sẽ tự làm họ tan vỡ và tổn thương. Họ đáng bị người sáng suốt chỉ trích, và tâm họ đầy những gian ác. Bốn điều đó là gì? Hành vi bất thiện về thân, khẩu, ý, và sự vô ơn, không biết ơn. Một người sáng suốt… sẽ tràn đầy công đức. … Họ có hành vi thiện lành về thân, khẩu, ý, và lòng biết ơn.” (4)

Trong khi đó, trong Kinh AN 5.264, Đức Phật nói rõ rằng người không có lòng biết ơn, sẽ không vào được sơ thiền. Nơi đây, chúng ta dịch kinh này theo 2 bản tiếng Anh của Sujato và Thanissaro, không dị biệt nhau:

Này các Tỷ-kheo, nếu không từ bỏ năm pháp này, các ông không thể nhập và trụ trong sơ thiền. Năm pháp nào? Đó là keo kiệt về nhà ở, gia đình, vật chất, lời khen, và sự thiếu lòng biết ơn. Nếu không từ bỏ năm pháp này, các ông không thể nhập và trụ trong sơ thiền. Nhưng sau khi từ bỏ năm pháp này, các ông có thể nhập và trụ trong sơ thiền. Năm pháp nào? Đó là keo kiệt về nhà ở, gia đình, vật chất, lời khen, và sự thiếu lòng biết ơn. Sau khi từ bỏ năm pháp này, các ông có thể nhập và trụ trong sơ thiền.” (5)

Tại sao cần vào sơ thiền? Bởi vì đó là cửa giải thoát căn bản. Bởi vì từ sơ thiền, người tu có thể quán vô thường để giải thoát. Trong Kinh AN 9.36, bản dịch của Thầy Minh Châu, có lời Đức Phật dạy rằng có trường hợp chỉ cần an trú sơ thiền là đủ để giải thoát. Kinh này nói rằng khi vào sơ thiền, quán các pháp ngũ uẩn (sắc, thọ, tưởng, hành, thức) là vô thường, khổ, rỗng không, vô ngã, đoạn diệt tham ái, vào Niết Bàn. Tức là, tu thiền chỉ, rồi tới thiền quán. Tức là, có định trước, rồi tới huệ. Trường hợp chưa được, thì cũng được hóa sanh (hiểu là vào cõi tịnh độ của thánh quả Bất Lai) và nơi cõi trời này sẽ chứng Niết Bàn. Kinh AN 9.36 trích như sau:

Này các Tỷ-kheo, Ta nói rằng: “Y chỉ vào sơ Thiền, các lậu hoặc được đoạn tận”, như vậy được nói đến. Do duyên gì, được nói đến như vậy? Ở đây, này các Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo ly dục… chứng và trú sơ Thiền. Vị ấy, ở đây đối với cái gì thuộc về sắc, thuộc về thọ, thuộc về tưởng, thuộc về hành, thuộc về thức, các pháp ấy, vị ấy tùy quán là vô thường, là khổ, là bệnh, là mụt nhọt, là mũi tên, là va chạm, là tật bệnh, là khách lạ, là biến hoại, là trống không, là vô ngã. Vị ấy tránh né tâm mình khỏi những pháp ấy, sau khi tránh né tâm mình khỏi những pháp ấy, vị ấy hướng dẫn đến giới bất tử: “Đây là tịch tịnh, đây là thù thắng, tức là sự chỉ tức tất cả hành, sự từ bỏ tất cả sanh y, sự diệt tận khát ái, ly tham, đoạn diệt, Niết-bàn”. Vị ấy trú ở đây, đạt đến sự diệt tận các lậu hoặc, nếu không diệt tận các lậu hoặc, với pháp ái ấy, với pháp hỷ ấy, do đoạn diệt năm hạ phần kiết sử, là vị hóa sanh, tại đấy chứng được Niết-bàn, không còn trở lui thế giới này nữa.”(6)
 

Như thế, lòng biết ơn là một phẩm tính cần có. Không chỉ là bày tỏ lòng biết ơn cha mẹ, Thầy bạn, tổ quốc, chúng sanh, mà là hãy biết ơn tất cả những gì đã hỗ trợ, cưu mang, che chở chúng ta. Hãy biết ơn ngay cả cội cây che nắng, ngay cả hạt mưa nuôi dưỡng lúa mà... và tất cả những gì chung quanh chúng ta. Đó là rừng ngăn lũ, đó là núi chận bão, đó là cây rừng chống sạt lở, đó là những chiếc ghe chở người cứu hộ tới giúp đồng bào mình, và đó là tất cả những gì làm nhân duyên cho chúng ta sống trong cõi này, và học theo Phật pháp.
 

Hãy nhớ, Đức Phật đứng yên bảy ngày nhìn cây Bồ Đề là bài kinh đầu tiên, và là bài kinh vô ngôn dạy chúng ta phải biết ơn. Thêm nữa, Đức Phật nhấn mạnh rằng, lòng biết ơn là một cửa vào sơ thiền, nơi căn bản nhất để bước vào đường giải thoát. Từng chữ một, nơi đây người viết xin viết lên lòng biết ơn vô lượng tới tất cả những gì trong cõi này mình đã thấy, nghe, ngửi, nếm, chạm xúc, tư lường. Từng chữ một, người viết xin viết lên lòng biết ơn tới Đức Phật và Chánh pháp, tới tất cả những gì mình đã đọc, đã học từ vô lượng vị thầy Bắc Tông, Nam Tông, Phật giáo Tây Tạng trong vô lượng kiếp. Om mani padme hum.
 

GHI CHÚ:

(1) Tâm Minh. Phật Học Thường Thức: https://thuvienhoasen.org/p22a7797/tu-an

(2) Mingun Sayadaw. Mahabuddhavamsa: https://www.wisdomlib.org/buddhism/book/the-great-chronicle-of-buddhas/d/doc364464.html

(3) Kinh MN 108: https://suttacentral.net/mn108/vi/minh_chau

(4) Kinh AN 4.223. Bản Sujato: https://suttacentral.net/an4.223/en/sujato

(5) Kinh AN 5.264. Sujato: https://suttacentral.net/an5.264/en/sujato

(6) Kinh AN 9.36. Bản Minh Châu:  https://suttacentral.net/an9.36/vi/minh_chau

 

 




Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Nhân dịp lần thứ 45 tưởng niệm biến cố Tháng Tư Đen, Dân Biểu Liên Bang Harley Rouda (Địa Hạt 48) đã gởi thông điệp đến với cộng đồng Người Mỹ gốc Việt tại Quận Cam: Trong thông điệp này, Dân Biểu Rouda cũng nhắc đến những người trong cộng đồng chúng ta mà ông vừa vinh danh: Tướng Lê Minh Đảo, nhạc sĩ Trúc Hồ, Bác Sĩ Phạm Đỗ Thiên Hương.
Tuần này sẽ đánh dấu nhiều mốc ngoặc mới trong đại dịch vi khuẩn corona khi các trường hợp bị lây nhiễm tại Hoa Kỳ đã hơn 1 triệu, ngày càng có nhiều cơ sở kinh doanh tái mở cửa và một số nhân viên y tế địa phương bắt đầu thử nghiệm kháng thể cho công chúng, theo bản tin của CNN cho biết hôm Thứ Hai, 27 tháng 4 năm 2020. Tính tới Thứ Hai, Hoa Kỳ đã có 1,008,571 trường hợp bị lây, với 56,521 người thiệt mạng.
3 videos ngắn cho thấy “hiện tượng xuất hiện trong không gian không xác định” đã được công bố bởi Bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ. Các video, đã được phổ biến trước đây bởi một công ty tư nhân, cho thấy cái gì đó trông giống các vật bay không xác định di chuyển nhanh trong khi được thu hình bởi các máy thu hồng ngoại tuyến, theo CNN tường trình cho biết. 2 trong 3 video, các quân nhân có thể nghe được sự phản ứng các vật bay nhanh như thế nào. Một giọng nói cho thấy nó có thể là một chiếc robot.
Tháng Tư lại trở về, gợi nhớ đến ngày cuối cùng, lúc toàn miền Nam rơi vào tay đoàn quân xâm lược từ phương bắc, lần này là lần thứ 45! Trong ký ức của mỗi người dân miền Nam chúng ta, có biết bao nhiêu khúc phim lại được dịp hiển hiện, rõ ràng và linh động như vừa mới hôm qua. Có người nhớ đến cảnh hỗn loạn ở phi trường Tân Sơn Nhất, có người không sao quên được những năm tháng tù tội trong trại giam cộng sản, có người nghẹn ngào ôn lại cảnh gia đình ly tán trong những ngày kinh hoàng đó, và có biết bao người còn ghi khắc mãi những ngày lênh đênh trên sóng nước mịt mù hay băng qua rừng sâu núi thẳm để tìm đến bến bờ tự do.
Tối nay 22 Tháng Tư, chính quyền Trump đã ban hành một Sắc lệnh mở rộng những hạn chế về nhập cư trong một nỗ lực rộng lớn để tiếp tục chương trình bài ngoại nhằm đánh lạc hướng người Mỹ về thất bại của chính họ qua các giải pháp thích ứng với đại dịch coronavirus. Sắc lệnh này được xây dựng trên một số chính sách chống người nhập cư do chính quyền đưa ra trong vài năm qua đóng cửa gần như tất cả các con đường hợp pháp để nhập cư.
Bắt đầu từ sau giữa tháng Ba 2020, hầu hết các doanh nghiệp không thiết yếu trên khắp Hoa Kỳ đều đã lần lượt được lệnh phải đóng cửa để ngân chận sự lây lan của Coronavirus, trong đó có hàng chục ngàn tiệm Nail của người gốc Việt. Vì buộc phải đóng cửa một cách bất ngờ và cũng bởi chưa đến ngày trả lương theo định kỳ, nhiều chủ tiệm Nail đã không kịp thanh toán cho nhân viên khoản tiền lương của những ngày đã làm việc từ sau lần lãnh lương trước đó cho đến ngày ngưng làm việc vì Coronavirus. Ngoài ra, vì nghĩ rằng sẽ không bị buộc phải đóng cửa quá lâu, nhiều chủ tiệm Nail dự tính sẽ trả đủ tiền lương ngay khi nhân viên trở lại làm việc. Tuy nhiên, rất ít chủ doanh nghiệp hiểu rằng không thanh toán tiền lương theo đúng quy định cho nhân viên sau khi nghỉ việc, sẽ là nguyên nhân dẫn đến vô số rắc rối về pháp lý.
Những người có khuynh hướng cực đoan trong chính kiến, dù hữu khuynh hay tả khuynh, đều có những đặc điểm giống nhau và rất khác người ôn hoà. Bài viết này tóm lược một nghiên cứu tâm lý học đăng trên Sage Journals tháng Giêng 2019. Hy vọng nó sẽ giúp ta hiểu thêm về hiện tượng tâm lý chính trị cực đoan để tránh bị khích động, đồng thời giúp ta tìm ra cách hoá giải. Xin lưu ý “hữu khuynh”và “tả khuynh” trong bài được dùng theo định nghĩa thông thường và hoàn toàn không hàm ý tốt hay xấu. Trong chính trị học, cộng đồng con người thường được chia làm ba nhóm: cấp tiến (liberal), trung hoà (moderate) và bảo thủ (conservative). Sự phân cách này phần lớn xuất phát một cách tự nhiên, nhưng nó cũng có thể được nhào nặn thêm bởi giáo dục, truyền thống, truyền thông, xã hội v.v.
nhà báo kỳ cựu Don Oberdorfer trên tờ Washington Post ngày 3/3/1987 nhấn mạnh lời tuyên bố của trưởng đoàn IRAC: “Chúng tôi (người tị nạn) vẫn bị coi là một vấn đề cần giải quyết. Nay chúng tôi nhất định sẽ góp phần vào giải pháp.”
Tôi sinh ra đời tại miền Nam, cùng thời với “những tờ bạc Sài Gòn” nhưng hoàn toàn không biết rằng nó đã “làm trung gian cho bọn tham nhũng, thối nát, làm kẻ phục vụ đắc lực cho chiến tranh, làm sụp đổ mọi giá trị tinh thần, đạo đức của tuổi trẻ” của nửa phần đất nước. Và vì vậy, tôi cũng không thấy “phấn khởi” hay “hồ hởi” gì (ráo trọi) khi nhìn những đồng tiền quen thuộc với cuộc đời mình đã bị bức tử – qua đêm! Suốt thời thơ ấu, trừ vài ba ngày Tết, rất ít khi tôi được giữ “nguyên vẹn” một “tờ bạc Sài Gòn” mệnh giá một đồng. Mẹ hay bố tôi lúc nào cũng xé nhẹ nó ra làm đôi, và chỉ cho tôi một nửa. Nửa còn lại để dành cho ngày mai. Tôi làm gì được với nửa tờ giấy bạc một đồng, hay năm cắc, ở Sài Gòn – vào năm 1960 – khi vừa mới biết cầm tiền? Năm cắc đủ mua đá nhận. Đá được bào nhỏ nhận cứng trong một cái ly nhựa, rồi thổ ra trông như hình cái oản – hai đầu xịt hai loại xi rô xanh đỏ, lạnh ngắt, ngọt lịm và thơm ngát – đủ để tôi và đứa bạn chuyền nhau mút lấy mút để mãi
Chiến tranh Việt Nam có hai chiến trường: Đông Dương và Mỹ. Bắc Việt cố gắng kéo dài cuộc chiến trên chiến trường Việt Nam và đồng thời làm mệt mỏi công luận trên chiến trường Mỹ. Đứng trườc chiến lược này và kế thừa một di sản là sức mạnh quân sự, các tình trạng tổn thất và phản chiến đang gia tăng, Tổng thống Nixon cân nhắc mọi khả năng trong chính sách. Nixon quyết định chỉnh đốn các trận địa chiến cho miền Nam Việt Nam trong khi củng cố khả năng chiến đấu cho họ. Sự giảm bớt vai trò của chúng ta sẽ hỗ trợ cho công luận trong nước Mỹ. Trong thời gian này, Nixon cũng để cho Kissinger tổ chức mật đàm càng nhanh càng tốt.
Bất kỳ chiến lược nào để giảm bớt mối đe dọa từ các chính sách xâm lược của Trung Quốc phải dựa trên sự đánh giá thực tế về mức tác động đòn bẩy của Hoa Kỳ và của các cường quốc bên ngoài khác đối với sự tiến hóa bên trong nội bộ Trung Quốc. Ảnh hưởng của những thế lực bên ngoài đó có giới hạn về cấu trúc, bởi vì đảng sẽ không từ bỏ các hoạt động mà họ cho là quan trọng để duy trì sự kiểm soát. Nhưng chúng ta quả thực lại có những khí cụ quan trọng, những khí cụ này hoàn toàn nằm ngoài sức mạnh quân sự và chính sách thương mại. Điều ấy là những phẩm chất “Tự do của người Tây phương” mà người Trung Quốc coi là điểm yếu, thực sự là những sức mạnh. Tự do trao đổi thông tin, tự do trao đổi ý tưởng là một lợi thế cạnh tranh phi thường, một động cơ tuyệt vời của sự cách tân và thịnh vượng. (Một lý do mà Đài Loan được xem là mối đe dọa đối với Cộng hòa Nhân dân Trung Quốc, chính là vì nó cung cấp một ví dụ với quy mô tuy nhỏ nhưng lại hùng hồn về sự thành công của hệ thống chính trị và kin
Chết phải là một chuyến du lịch tuyệt vời vì chưa có một ai đã trở về!(“La mort doit être un beau voyage puisque personne n'en est revenue”). Thông thường trong những dịp Tết, người đời thường chúc tụng lẫn nhau sống thọ đến trăm tuổi. Không phải ai muốn chết lúc nào là chết được đâu. Phải tới số mới chết. Trời kêu ai nấy dạ mà Sống quá thọ có tốt, có cần thiết không? Không có ai nghĩ giống ai hết. Đặt câu hỏi như trên có thể làm nhiều người cảm thấy khó chịu, nhưng đó là sự thật. Tuổi thọ (longévité) trong điều kiện sức khoẻ bình thường, không ngừng gia tăng thêm lên mãi tại các quốc gia kỹ nghệ giàu có... Sự gia tăng nầy thật ra phải được xem như là một sự kéo dài của tuổi trẻ (jeunesse) hơn là một sự kéo dài của…tuổi già (vieillesse). Tại sao chúng ta già? Tuổi thọ đến lúc nào sẽ dừng lại? Nhân loại đã đạt được đến mức nầy hay chưa?
Nửa tháng trước hiệp định Genève (20-7-1954), trong cuộc họp tại Liễu Châu (Quảng Tây, Trung Cộng), từ 3 đến 5-7-1954, thủ tướng Trung Cộng Châu Ân Lai khuyên Hồ Chí Minh (HCM) chôn giấu võ khí và cài cán bộ, đảng viên cộng sản (CS) ở lại Nam Việt Nam (NVN) sau khi đất nước bị chia hai để chuẩn bị tái chiến. (Tiền Giang, Chu Ân Lai dữ Nhật-Nội-Ngõa hội nghị [Chu Ân Lai và hội nghị Genève] Bắc Kinh: Trung Cộng đảng sử xuất bản xã, 2005, Dương Danh Dy dịch, tựa đề là Vai trò của Chu Ân Lai tại Genève năm 1954, chương 27 "Hội nghị Liễu Châu then chốt".) (Nguồn: Internet). Hồ Chí Minh đồng ý.
Vào lúc 5:00 giờ chiều Chủ Nhật 26/04/2020, Hòa Thượng Thích Phước Tịnh đã có buổi nói chuyện trên mạng lần thứ hai với nhóm Phật tử Giớ Trẻ Mây Từ, với chủ đề những điều Phật tử nên làm trong mùa đại dịch COVID-19 đang tiếp tục hoành hành.
New York bị thiệt hại nặng nề hơn bất cứ khu vực nào tại Hoa Kỳ bởi đại dịch vi khuẩn corona tính đến nay, 26 tháng 4, và ác mộng của tiểu bang vẫn còn chưa hết. Hôm Thứ Bảy, 25 tháng 4, có 5,902 người đã thử nghiệm dương tính với vi khuẩn corona, và trong khi đó là sự sút giảm từ cao điểm của tiểu bang (khi một ngày chứng kiến hơn 10,000 người thử nghiệm dương tính), tiểu bang này vẫn còn nhiều trường hợp bị lây mới hơn 25 tiểu bang đã bị trong tổng số hơn 3 tháng kể từ vụ lây lan của vi khuẩn vào Mỹ bắt đầu.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.