Hôm nay,  

Như Nhiên Vốn Không Tịch

11/12/202517:26:00(Xem: 1258)
blank

Như Nhiên Vốn Không Tịch

Nguyên Giác
 

Có rất nhiều chữ rất khó để hiểu cho tận tường trên đời này. Và khi gặp chữ khó hiểu, tất nhiên là chuyện dịch từ Anh sang Việt, hay từ Việt sang Anh sẽ rất khó chính xác. Bởi vì, khi những chữ có nhiều nghĩa được chọn dịch theo một nghĩa, hẳn là các nghĩa khác sẽ bị thiếu sót. Trong đó, có chữ “tâm” tưởng là dễ dịch, nhưng hóa ra lại là chữ gây ra vô cùng gian nan. Thêm nữa, tại sao các Thiền sư ưa nói “ba cõi là tâm,” hay nơi khác lại nói, “vạn pháp duy tâm.” Chữ đã khó, mà nghĩa lại càng khó vô cùng tận.
 

Tôi yêu thích các Thiền sư Trung Hoa và Việt Nam khi họ làm thơ và hiển lộ những cách biểu hiện khác. Quý ngài nói rằng tâm là Phật, và không bận tâm lý luận dài dòng. Trong khi chúng ta đọc các văn bản đời nay, các phân tích rất phức tạp, có khi dễ làm rối rắm (trên nguyên tắc là để làm dễ hiểu) thêm. Thí dụ, ngài Tuệ Trung Thượng Sĩ trong bài thơ Phật Tâm Ca, chỉ nói về tâm, và không bàn chuyện “căn, trần, thức... uẩn, xứ, giới...” hay bất kỳ những gì thiếu chất thơ.
 

Ngay ở những câu đầu của Tuệ Trung Thượng Sĩ trong bài thơ này đã nói thẳng những gì nhà thơ thấy, theo bản dịch của Thầy Thanh Từ:

Phật! Phật! Phật! không thể thấy!

Tâm! Tâm! Tâm! không thể nói!

Khi tâm sanh tức là Phật sanh,

Bằng Phật diệt là lúc tâm diệt.

Diệt tâm còn Phật chuyện không đâu,

Diệt Phật còn tâm bao giờ hết.
 

Hiển nhiên là khó. Phật mà là tâm? Mà sao tâm là Phật? Chúng ta thấy rõ, Tuệ Trung Thượng Sĩ không giải thích rõ. Vậy còn, tâm tham, tâm sân, tâm si... và vô lượng tâm của ba thời. Bởi vì tâm là một chữ nói về tất cả các hoạt động nơi thân tâm chúng ta, như suy nghĩ, cảm thọ, nhận biết, tưởng tượng, ghi nhớ, gợi nhớ, ý định, ý chí.... Vậy thì, tâm nào là Phật, tâm nào không phải Phật? Để rồi tới một chỗ, Tuệ Trung Thượng Sĩ mới viết:
 

Muốn cầu tâm, chớ tìm ngoài,

Bản thể như nhiên vốn không tịch.

Thực tế, ngài giải thích như thế cũng còn khó hiểu kinh khủng. Nếu không đủ vốn học Phật và không có nhiều năm ngồi cho mòn bồ đoàn, chúng ta có thể sẽ níu theo chữ và thắc mắc: nếu gốc là không, rồi lại tịch nữa, thì sao biết có cái gì là như nhiên.
 

Bây giờ chúng ta nói về Kinh Pháp Cú. Hai bài kệ đầu Pháp Cú là nói về Tâm, ý, thức... Bản dịch của Thầy Minh Châu trích như sau, nơi đây chúng ta viết theo văn xuôi cho dễ đối chiếu:

 1. "Ý dẫn đầu các pháp / Ý làm chủ, ý tạo / Nếu với ý ô nhiễm / Nói lên hay hành động / Khổ não bước theo sau / Như xe, chân vật kéo ".       

2. "Ý dẫn đầu các pháp / Ý làm chủ, ý tạo / Nếu với ý thanh tịnh / Nói lên hay hành động /An lạc bước theo sau / Như bóng, không rời hình ". (1)
 

Ý là gì của tâm? Có phải ý là suy nghĩ (think)? Hay là ý định (intent)? Hay là ý chí (will)? Trong thơ, tất nhiên phải ngắn gọn, không giải thích. Nhưng cách dịch của các vị sư khác cũng có chỗ bất đồng. Nơi đây, chúng ta xem các bản Anh dịch của các nhà sư, học giả nổi tiếng quốc tế.
 

Ngài Sujato dịch: Intention shapes experiences (Ý định dẫn tới các trải nghiệm).

Ngài Suddhāso dịch: All things are preceded by the mind (Tâm dẫn đầu các pháp).

Ngài Ānandajoti dịch: Mind precedes thoughts, mind is their chief (Tâm dẫn tới suy nghĩ, tâm là chủ...)

Ngài Ācāriya Buddharakkhita dịch: Mind precedes all mental states. Mind is their chief (Tâm dẫn tới các trạng thái của tâm. Tâm là chủ...)

 Ngài Peter Feldmeier dịch: All phenomena are preceded by the mind (Đi trước tất cả hiện tượng là tâm

Ngài Thanissaro dịch: Phenomena are preceded by the heart, ruled by the heart (Tâm [trái tim] dẫn tới các hiện tượng...)
 

Tóm lại, chúng ta thấy có những cách khá dị biệt để dịch chữ tâm nơi đây. Trong đó, có chữ “heart” và  “mind” là mơ hồ, tổng quát. Nhưng dịch là “intention” có hàm ý là dẫn tới nghiệp, vì khi có ý định, khi cố ý làm gì đó, thì sẽ gây ra nghiệp. Còn khi dịch đơn giản là “tâm” hay “mind” hay “heart” thì không chắc đã hàm ý gây nghiệp. Dĩ nhiên, tất cả các dịch giả đều đúng. Chữ nghĩa không bao giờ diễn dịch cho toàn hảo. Thí dụ, khi chúng ta nhìn lên bầu trời xanh, tìm cho đúng chữ “xanh” để mô tả thì bất khả, vì xanh thì có vô lượng màu xanh.
 

Khi quý ngài học giả đã có những cách dịch dị biệt nhau, tôi là bậc hậu sinh và học kém, tất nhiên phải dựa trên quý ngài, và phải lựa chọn cách nào mình thấy ưng ý nhất.
 

Tuy nhiên, khi nói về phẩm tính “tỉnh thức” của tâm, thường chữ này được quý Thầy tách ra để nói rõ, nói cụ thể. Thí dụ, bài Kệ 218 của Pháp Cú, bản dịch của Thầy Minh Châu là:

218. "Ước vọng pháp ly ngôn / Ý cảm xúc thượng quả / Tâm thoát ly ác dục,/ Xứng gọi bậc Thượng Lưu."

 Pháp ly ngôn là pháp giải thoát, không còn dùng ngôn ngữ để nói tới. Bản dịch của Thầy Minh Châu nhiều chữ Hán Việt, nên còn khó hiểu. Nhưng bản dịch của ngài Sujato dễ hiểu hơn:

One eager to realize the ineffable would be filled with awareness. Their mind not bound to pleasures of sense, they’re said to be heading upstream. (Người khao khát thấu hiểu điều không thể diễn tả bằng lời sẽ tràn đầy nhận biết tỉnh thức. Tâm họ không bị buộc vào thú vui giác quan, họ đang hướng lên thượng nguồn.)
 

Như thế, Thầy Minh Châu mô tả các trạng thái của tâm trong bài kệ 218 là: ước vọng, ý cảm xúc, tâm thoát ly. Trong khi ngài Sujato viết là: eager, awareness, mind not bound.

Nghĩa là, nên hiểu theo quý ngài xưa thường nói, “được ý thì quên lời.” Còn chấp vào chữ để bẻ nát chữ ra, thì sẽ thấy tay mình vấy mực mà chữ không toàn vẹn nữa. Viết như trên để nói rằng quý Thầy Tam Tạng pháp sư, đại dịch giả còn dùng chữ không hoàn toàn thống nhất, trong khi bản thân tôi là người sơ học, chỉ lặng lẽ học, đọc, nghiên cứu và không hề dám so đo gì khác.
 

Nói như thế cũng để nêu lên các nỗ lực gian nan khi tìm hiểu rằng phiền não khởi lên từ đâu và thế nào, rằng tâm chấp ngã ẩn núp nơi đâu, lấp ló chỗ nào và khi nào. Và nếu không nhìn tận tường tâm mình, thì sao thấy được bản nhiên không tịch được.

Bây giờ chúng ta nhìn lộ trình này. Khi nhìn thấy nụ hoa, thì sắc uẩn là mắt nhìn (căn) và cái được thấy là nụ hoa (trần), thức sẽ khởi lên nhận biết rằng có cái được thấy, và tưởng là xác định rằng cái được thấy là nụ hoa; lúc đó thọ khởi lên hoặc ưa thích, hoặc ghét bỏ, hoặc trung tính không ưa, không ghét. Lúc đó, hành sẽ khởi lên, dẫn tới ý định (như ưa thích, muốn ngắt bông hoa đưa về cắm bông) hay gì đó. Chữ ý định (intention) là chữ mà Thầy Sujato dịch cho câu đầu trong bài kệ số 1 của Kinh Pháp Cú. Và ý định chính là nghiệp phiền não, nghiệp sinh tử luân hồi.
 

Do vậy, Đức Phật dạy trong Kinh SN 18.7 rằng phải xa lìa tất cả các ý định đối với cái được thấy, được nghe, được ngửi, được nếm, được chạm xúc và được tư lường (a learned noble disciple grows disillusioned with intention regarding sights, sounds, smells, tastes, touches, and ideas). Nghĩa là, không muốn, không ưa, không ghét, và tỉnh thức thấy rằng vì ý định là vô thường nên không có gì cần phải ý định.


 

Một cách khác, bởi vì chúng ta nghĩ rằng có cái gọi là mắt, có cái gọi là hoa... nên thế giới tập khởi. Đức Phật dạy trong Kinh SN 35.91 rằng phải vô niệm, phải xa lìa tư lường, đừng nghĩ ngợi rằng abc hay xyz... và đó là giải thoát. Kinh này viết, theo bản dịch của Thầy Minh Châu:
 

"Chớ có nghĩ đến mắt, chớ có nghĩ đến trong mắt, chớ có nghĩ đến từ mắt, chớ có nghĩ đến: “Mắt là của ta”. Chớ có nghĩ đến các sắc, chớ có nghĩ đến trong các sắc, chớ có nghĩ đến từ các sắc, chớ có nghĩ đến: “Các sắc là của ta”. Chớ có nghĩ đến nhãn thức … Chớ có nghĩ đến nhãn xúc … Do duyên nhãn xúc khởi lên cảm thọ gì, lạc, khổ hay bất khổ bất lạc... [Chớ có nghĩ tới tai... mũi... lưỡi... thân... ý... cho đến uẩn, giới, xứ...] Vị ấy không nghĩ đến như vậy nên không chấp thủ một cái gì trong đời. Do không chấp thủ nên không có dao động. Do không có dao động, vị ấy tự mình tịch tịnh một cách hoàn toàn. Vị ấy biết rõ: “Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, những việc nên làm đã làm, không còn trở lui trạng thái này nữa”. (2)
 

Tuy nhiên, tập khởi ái đôi khi là tự nhiên, bởi vì tập khí nhiều đời. Đức Phật dạy rằng ngay khi thấy, là ly tham liền, thì đó là giải thoát. Trong Kinh SN 12.43, Đức Phật giải thích về đoạn diệt khỏ, theo bản dịch Thầy Minh Châu:

 

"Và này các Tỷ-kheo, thế nào là khổ đoạn diệt? Do duyên con mắt và các sắc, nhãn thức khởi lên. Do ba cái tụ hội, nên có xúc. Do duyên xúc nên có thọ. Do duyên thọ nên có ái. Do ly tham, đoạn diệt ái ấy một cách hoàn toàn nên thủ diệt. Do thủ diệt nên hữu diệt. Do hữu diệt nên sanh diệt. Do sanh diệt nên già chết, sầu, bi, khổ, ưu, não đều đoạn diệt. Như vậy là sự đoạn diệt của toàn bộ khổ uẩn này. Này các Tỷ-kheo, đây là khổ đoạn diệt.[tương tự với tai, mũi, lưỡi, thân, ý]"(3)
 

Thực tế, không hề có cái gì gọi là thế giới, mà chỉ có thể nói có thế giới là duyên từ các căn khởi lên. Nghĩa là, thế giới là từ tâm khởi lên. Chúng ta từ vô lượng kiếp chấp rằng có ta, có người, có thế giời... Tuy nhiên, Đức Phật nói rằng tất cả không có chuyện có thế giới hay không có thế giới, mà tất cả chỉ là duyên theo mắt, tai, mũi. lưỡi, thân, ý... Kinh SN 35.68, bản dịch của Thầy Minh Châu ghi lời Đức Phật:
 

“… “Thế giới, thế giới”, bạch Thế Tôn, như vậy được nói đến. Cho đến như thế nào, bạch Thế Tôn, là thế giới, hay là danh nghĩa thế giới?

—Chỗ nào, này Samiddhi, có mắt, có các sắc, có nhãn thức, có các pháp do mắt nhận thức, tại chỗ ấy có thế giới, hay danh nghĩa thế giới … (như trên) … Chỗ nào có ý, có các pháp, có ý thức, có các pháp do ý nhận thức, tại chỗ ấy có thế giới hay có danh nghĩa thế giới.

Và tại chỗ nào, này Samiddhi, không có mắt, không có các sắc, không có nhãn thức, không có các pháp do mắt nhận thức, tại chỗ ấy không có thế giới, hay không có danh nghĩa thế giới … không có ý … tại chỗ ấy, không có thế giới hay không có danh nghĩa thế giới.”(4)

Tới đây, hiển nhiên là Đức Phật muốn nói vạn pháp là do tâm hiển lộ. Ba cõi là tâm... hiển nhiên là nghĩa bí ẩn vô cùng. Đơn giản là, ngoài thế giới chúng ta kinh nghiệm, sẽ không có thế giới nào khác. Như thế, giác ngộ với giải thoát phải là ngay ở nơi mắt tai mũi lưỡi thân ý, không dựa vào chỗ nào khác.

Trong Kinh SN 35.23, Đức Phật dạy rằng: “—Này các Tỷ-kheo, Ta sẽ thuyết về tất cả. Hãy lắng nghe. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là tất cả? Mắt và các sắc; tai và các tiếng; mũi và các hương; lưỡi và các vị; thân và các xúc; ý và các pháp. Như vậy, này các Tỷ-kheo, gọi là tất cả. Này các Tỷ-kheo, ai nói như sau: “Sau khi từ bỏ tất cả này, ta sẽ tuyên bố (một) tất cả khác”, thời lời nói người ấy chỉ là khoa ngôn. Và bị hỏi, người ấy không thể chứng minh gì. Và hơn nữa, người ấy có thể rơi vào ách nạn. Vì sao? Này các Tỷ-kheo, như vậy ra ngoài giới vức (avisaya) của người ấy!” (5)

Tới đây chúng ta hỏi thêm, tại sao các Thiền sư ưa nói về Không. Ngay trong Kinh Nhật Tụng là có bài Bát Nhã Tâm Kinh, và nói rất minh bạch rằng Sắc (cái được thấy, nghe, ngửi, nếm, cảm xúc, tư lường) chính là Không. Ngay đó là không. Và ngay nơi Không cũng là thế giới hóa hiện. Dò lại Kinh điển, Đức Phật cũng từng nói như thế. Nói y hệt như thế.
 

Khi chúng ta dẫn ra giải thích của Cư sĩ Tâm Minh Lê Đình Thám sẽ thấy dễ hiểu hơn, cụ thể rằng cái bàn trước mắt chính là không, là vô ngã, là do duyên hình thành, không bấu víu vào đâu để nói là có. Dẫn ra trường hợp cái bàn, cụ Lê Đình Thám viết, trích: “Ví dụ như một cái bàn, nó cũng pbải đủ Nhơn đủ Duyên rồi mới thành cái bàn được. Nhơn của cái bàn tức là các thứ gỗ; gỗ lim thi đóng thành bàn lim, gỗ kiền-kiền thì đóng thành bàn kiền-kiền, nhơn với quả tụy có khác, nhưng cũng đồng một tánh-cách, hễ gỗ lim thì đóng thành bàn lim, chớ không thể nào đóng thành bàn kiền-kiền được. Song một mình gỗ cũng không đủ làm thành cái bàn, muốn đóng cho thành được cái bàn, lại cần phải có nhơn-công cưa, xẻ, bào, chuốt, ráp mộng, ghép ván nữa, những nhơn-công kia đều là những trợ duyên giúp đỡ cho cái nguyên-nhơn gỗ tạo thành ra cái bàn vậy. Chúng ta xét như trên thì biết cái bàn là một vật do nhơn-duyên sanh ra, tức là một cái nhơn-duyên-sở-sanh pháp. Vậy những nhơn duyên-sở-sanh pháp thiết-thiệt là thế nào? Đáp lại câu hỏi ấy, chúng ta nên lập câu kệ thứ hai, tức là câu: "Ngã thuyết tức thị không". Ngã thuyết tức thị không, nghĩa là tôi nói các nhơn duyên-sở sanh pháp kia tức là chơn không.”
 

Trong khi đó, Đức Phật không cần dài dòng. Đức Phật nói đơn giản rằng mọi thứ đều không có cái gì để gọi là cái gì. Trong Kính SN 35.85, Đức Phật dạy:

Ānanda, thế giới là không tự ngã, và không thuộc tự ngã, nên thế giới được gọi là trống không. Và cái gì, này Ānanda, là không tự ngã và không thuộc tự ngã? Mắt, này Ānanda, là không tự ngã và không thuộc tự ngã. Các sắc là không tự ngã, hay không thuộc tự ngã. Nhãn thức là không tự ngã, hay không thuộc tự ngã. Nhãn xúc là không tự ngã, hay không thuộc tự ngã … Do duyên ý xúc khởi lên cảm thọ gì, lạc, khổ, hay bất khổ bất lạc; cảm thọ ấy không có tự ngã hay không thuộc tự ngã. Và vì rằng, này Ānanda, không có tự ngã, hay không thuộc tự ngã nên được gọi trống không là thế giới này.” (6)
 

Và vì thế giới trống không, vì mắt tai mũi lưỡi thân ý đều trống không, vì sắc thọ tưởng hành thức đều là trống không... cho nên đúng như Tuệ Trung Thượng Sĩ nói rằng bản nhiên là không và tịch.
 

Tuy rằng, ba cõi là tâm, nhưng giải thoát là, theo ngài Tuệ Trung:

Muốn cầu tâm, chớ tìm ngoài,

Bản thể như nhiên vốn không tịch.

Nơi đó đó, không đâu xa, rất gần đó, ngay trước mắt và ngay bên tai.
 

GHI CHÚ:

(1) Kinh Pháp Cú. Thầy Minh Châu. https://thuvienhoasen.org/p15a7961/pham-01-10

(2) Kinh SN 35.91: https://suttacentral.net/sn35.91/vi/minh_chau

(3) Kinh SN 12.43: https://suttacentral.net/sn12.43/vi/minh_chau 

(4) Kinh SN 35.68: https://suttacentral.net/sn35.68/vi/minh_chau

(5) Kinh SN 35.23: https://suttacentral.net/sn35.23/vi/minh_chau

(6) Kinh SN 35.85: https://suttacentral.net/sn35.85/vi/minh_chau

  

 

 




Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
SINGAPORE – Hôm thứ Năm (25/7), một số chuyên gia cho biết, Trung Quốc rất có khả năng đang bí mật thử nghiệm công nghệ lưỡng dụng (dual use) trên phi thuyền không người lái có thể tái sử dụng của mình, theo Reuters.
WASHINGTON – Hôm thứ Tư (24/7), Giám đốc FBI Christopher Wray cho biết tay súng 20 tuổi ám sát hụt Donald Trump đã tìm kiếm trên mạng các thông tin về vụ ám sát John F. Kennedy vào khoảng thời gian hắn bắt đầu “để mắt” đến Trump, theo Reuters.
Chúng ta thường nghe nói rằng Thiền Tổ Sư là dạy pháp vô niệm, vô tâm. Cách diễn tả như thế có vẻ như như để làm nổi bật hai ý chỉ khác nhau, rằng Thiền do Như Lai dạy chủ yếu là niệm thân, niệm thọ, niệm tâm, niệm pháp… trong khi Thiền do các vị Tổ Sư Trung Hoa và Việt Nam dạy chủ yếu là vô niệm, vô tâm. Sự thật, Đức Phật trong Tạng Pali đã dạy các pháp vô niệm, vô tâm… nhưng nhiều vị sư đời sau không chú ý, và đôi khi còn ngộ nhận rằng pháp vô niệm, vô tâm là sáng tác của các vị sư Trung Hoa.
Ngôi sao ca sĩ Hoa Kỳ sẽ cầm Đuốc Thế Vận cho đoạn cuối cùng tại Paris. Ngọn lửa Olympic sẽ đi chặng cuối cùng trong hành trình dài vào thứ Sáu 26/7/2024 tới lễ khai mạc Thế vận hội Paris trên sông Seine ở trung tâm Thành phố Ánh sáng. Một dàn người cầm đuốc toàn ngôi sao nổi tiếng đã được chọn để rước đuốc – bao gồm cả rapper Snoop Dogg.
HUEHUETAN, Mexico – Hôm thứ Ba (23/7), khoảng 3,000 di dân chia thành hai đoàn lớn, tay xách nách mang, dắt díu theo con cái nheo nhóc cùng vượt qua cái nóng gay gắt dọc theo con đường cao tốc ở miền nam Mexico hướng đến biên giới Hoa Kỳ, theo Reuters.
WASHINGTON – Hôm thứ Ba (23/7), Lực lượng Cảnh sát Capitol đã bắt giữ những người Do Thái biểu tình bên trong một tòa nhà Quốc Hội để phản đối sự hỗ trợ quân sự của Hoa Kỳ dành cho Israel, theo Reuters.
Báo Haaretz của Israel nêu lên sự thật đau đớn cho người Palestine: Chiến tranh sẽ kết thúc, nhưng người dân Gaza sẽ tiếp tục chết trong nhiều tháng sau thậm chí nhiều năm sau. Tình hình bây giờ là bệnh nhân ung thư không được điều trị; 26/36 bệnh viện không hoạt động; hầu hết nước không thể uống được và nước thải chảy ra đường.
Dù Covid đã được kiểm soát tốt hơn và không còn là mối đe dọa khẩn cấp đối với sức khỏe cộng đồng như trước đây, một nghiên cứu mới cho thấy Covid vẫn có thể gây ra những ảnh hưởng lâu dài lên não bộ của con người.
Tôi đã yêu mến và ngưỡng mộ gần như tất cả các nhân vật được viết trong tuyển tập này. Trong đó có những người là bậc thầy vô cùng cao tột của tôi: Thầy Trí Siêu Lê Mạnh Thát, và Thầy Tuệ Sỹ. Những vị khác về nhiều mặt cũng là những bậc thầy của tôi, nghĩa là tôi nhận thấy có phương diện nào đó để học từ họ, nhờ cơ duyên thân cận hoặc nhờ gặp trong làng văn chương. Thí dụ, Giáo sư Trần Huy Bích là đỉnh cao về Hán học, về nghiên cứu thơ và cổ văn, với những nghiên cứu về nhà thơ Vũ Hoàng Chương cực kỳ thơ mộng và thâm sâu.
WASHINGTON – Hôm thứ Hai (22/7), Ủy Ban Đạo Đức (Ethics Committee) của Thượng Viện thông báo đã bắt đầu bước đầu tiên trong quá trình xem xét việc truất phế Thượng Nghị Sĩ Bob Menendez, người vừa bị kết án tham nhũng vào tuần trước, theo Reuters.
Các diễn giả cho rằng nền dân chủ của Hoa Kỳ đang bị thử thách hơn bao giờ hết. Đảng Cộng Hòa đang từ bỏ nhiều giá trị truyền thống của mình để ủng hộ một ứng cử viên sẵn sàng đạp đổ hết mọi giá trị dân chủ để tìm chiến thắng trong cuộc bầu cử.
Hôm Chủ nhật, Đức Giáo Hoàng Francis bày tỏ hy vọng rằng Thế vận hội Olympic và Paralympic Paris sẽ tạo cơ hội cho các quốc gia đang có chiến tranh tôn trọng truyền thống Hy Lạp cổ đại và thiết lập một thỏa thuận ngừng bắn trong suốt thời gian diễn ra Thế vận hội.
Ngày 5 tháng 8, 2024 sắp tới đây, đúng vào sinh nhật thứ 76 của cựu TT Samdech Techo Hun Sen, hiện là Chủ Tịch Thượng viện, lãnh đạo đảng Nhân Dân Cam Bốt (CCP), được con trai trưởng của ông là TT Hun Manet chọn là ngày Lễ Động Thổ khởi công Dự án Kênh đào Funan Techo – đang được rầm rộ chuẩn bị như là một ngày lễ hội lớn, với đốt pháo hoa và chiêng trống nổi lên từ khắp các chùa chiền cùng với lời cầu nguyện của giới sư sãi trên toàn Vương quốc Cam Bốt. Nhưng với cái giá môi sinh nào phải trả cho cả hai dân tộc Khmer và Việt Nam đang hiển lộ và không còn là những ẩn số.
Tổng thống Joe Biden cho biết ông sẽ rút lui khỏi cuộc đua tổng thống trong một bức thư gửi lên mạng X. Ông viết: “Được làm tổng thống của các bạn là vinh dự lớn nhất trong cuộc đời tôi. Và mặc dù tôi có ý định tái tranh cử, nhưng tôi tin rằng việc tôi rút lui và chỉ tập trung hoàn thành nhiệm vụ tổng thống trong thời gian còn lại của nhiệm kỳ là vì lợi ích tốt nhất của đảng và đất nước."
(Viết cho bằng hữu tháng tư 1954. Chúng tôi 300 thanh niên trình diện trại Ngọc Hà động viên vào Đà Lạt cùng hát bài ca Hà Nội ơi, năm 20 tuổi chưa từng biết yêu. Sau 21 năm chinh chiến, tháng tư 75 khóa Cương Quyết hát tiếp. Bao nhiêu mộng đẹp, tan ra thành khói, bay theo mây chiều. Ngày nay, tháng 7-2024 vào nursing home thăm bạn cùng khóa. Ba anh bạn đại tá lữ đoàn trưởng mũ xanh mũ đỏ cùng đại đội võ bị ra đánh trận Quảng Trị chỉ còn Ngô Văn Định. Ghé lại bên tai nghe Định hỏi nhỏ. /Bên ngoài còn mấy thằng,/ Còn liên lạc được 4 thằng. Ngoài 90 cả rồi.Tôi báo cáo./ Thằng Luyện mới đến thăm./ Định nói./ Luyện nhảy Bắc 21 năm biệt giam mà còn sống. Hay thật./ Tôi nói./ Bạn yên tâm. Ngoài này còn thằng nào chơi thằng đó./ OK bạn còn sống lo cho anh em.)


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.