Hôm nay,  

Đảo Hoang

06/12/201915:27:00(Xem: 4635)
Dao Hoang Ann Phong
Minh Họa: Ann Phong


Lá phổi của tôi nhận ra không khí. Một cái bình đựng dầu rỗng nhưng có nắp đậy trôi bập bềnh bên cạnh. Chụp lấy nó, trồi lặn, những làn sóng có tác dụng như bàn đạp.  Xa xa, những chiếc bóng lần lượt nhảy  xuống biển trong khi chiếc tàu đánh cá của chúng tôi đang hừng hực bốc cháy. Tiếng cười của bọn hải tặc rộ lên giữa tiếng máy tàu rồ mạnh cùng tiếng la ó hỗn loạn từ những cô gái bị bắt đi. Một cái bóng tóc dài nhảy vọt xuống biển. Tôi đếm thấy tám cái đầu bập bềnh trên mặt đại dương.

Bàn chân tôi cảm nhận được cát. Rắn chắc, sần sùi, nhột. Cảm giác vui mừng đặt chân lảo đảo vào đất liền, rồi bò xuống, và cuối cùng nhấc toàn thân ra khỏi biển. Toàn bộ trọng lượng đặt lên hai lòng bàn tay, hai đầu gối. Tôi trườn vào bờ và bắt đầu ói.

Những tấm thân nát bấy khác bò vào đất liền. Những sinh thể màu nâu rần rần chạy về phía chúng tôi. Tôi cuộn mình lại như một con bọ, đưa hai tay che lấy đầu.

“Không sao, không ai làm gì cháu đâu.” Một giọng nói nữ, giọng miền nam, thốt ra có vẻ nhân từ, lặp lại: “Đừng sợ, không ai làm gì cháu đâu.”

Vẫn trong tư thế cuộn tròn, tôi hé mắt nhìn. Người đàn bà, từ đầu tới chân phủ ngập bùn, ngay cả trên mí mắt, kéo tay tôi dậy.  Ngay từ đầu tôi đã biết bà là người Việt trước cả khi bà cất tiếng nói.  Vầng trán cao, cặp mắt màu hạt dẻ, gò má sắc nét, đôi môi đầy đặn.  Hai cánh tay sắt và bàn tay cứng như đá của bà làm tôi ngạc nhiên. Hẳn bà đã quen làm việc nặng nhọc, quen với xung đột.

Khác hẳn với Mẹ, người chuyên đọc thơ và chú ý chăm sóc sắc đẹp và dựa vào Bố khi cần đến sức mạnh. Bà cào mặt hải tặc bằng móng tay của mình, cổ bà bị cứa vì tôi.

Người đàn bà và một người cũng phủ đầy bùn giúp bà kéo tôi vào bóng mát. Như một phép lạ, một trái dừa non có đục hai lỗ thủng hiện ra trong không trung. Nước dừa tươi ngọt với hương vị béo ngậy. Tôi đã quên mất sự tồn tại của thứ cảm giác sung sướng này. Đường thay thế muối, cho đến khi mọi vị giác thăng hoa. Tôi nhắm chặt mắt.

Tôi tỉnh dậy với đôi tay và toàn thân chìm ngập trong vũng bùn mát rượi. Trời đã chạng vạng tối, thời điểm đàn muỗi, con nào con nấy to như ruồi, bắt đầu cuộc săn lùng kiếm ăn. Chúng vo ve giận dữ, đi tìm mâm cỗ, nhưng bàn tay đã nhanh chóng cung cấp áo giáp bảo vệ sau khi tôi đã uống đủ chất ngọt.

Tám người sống sót kia, cũng phủ ngập trong bùn, bắt đầu ơi ới gọi tìm người thân. Một người đàn ông phủi từng khuôn mặt bùn, hốt hoảng tìm vợ và hai đứa con. Ông ta nhảy trở lại xuống biển, ngụp lặn tìm kiếm giữa những đám bùn xoáy tròn. Đã không có ai đủ nhanh hay đủ mạnh để ngăn ông ta lại. Một người mẹ tru tréo gọi con. Một thằng bé hướng ra biển tìm cha. Đứa con gái tóc dài sát bên cạnh tôi tỉ tê khóc bà ngoại. Thuyền trưởng tàu đánh cá của chúng tôi kêu than, “Xin mọi người tha thứ cho tôi.” Ông ta biến mất vào rừng xanh.

Những khuôn mặt ẩm ướt đầy bùn đọc tên những người đã trôi vào lòng đại dương, hay tệ hơn nữa, những người đã lọt vào tay hải tặc. Có tới năm mươi bảy người trên một chiếc thuyền nhỏ lẽ ra chỉ chứa mười người. Đêm kéo dài chậm chạp. Tôi đọc tên Mẹ, Đỗ thị Mỹ Thu. Khi tôi vừa cất tiếng, những tiếng thì thầm nhận ra tôi là con gái. Cũng có thể mọi người trên tàu đã biết điều này từ trước nhưng không muốn đụng tới ảo tưởng an toàn qua sự giả dạng của chúng tôi.

Mùi khói thơm bốc lên và bụng tôi cồn cào đói. Trên một tấm lá chuối là một con cá nướng cỡ lòng bàn tay được đưa cho tôi. Tôi được dặn phải nhai chậm rãi, từng chút từng chút một, nghe ngóng xem dạ dày của mình liệu có chịu nổi những miếng cá bóng bảy, vảy giòn, tròng mắt dai, và cái đuôi cá xòe ra như bông pháo. Tôi cảm thấy mình may mắn khi được thêm một trái dừa, được nằm xuống trên chiếc chiếu cọ.

Dạ dày của tôi từ chối từng miếng cá, từng giọt nước ngọt, cùng lúc thải ra bất kỳ dấu tích đại dương nào. Không nản lòng, nhiều bàn tay bùn tiếp tục trao cho tôi thêm cá nướng, thêm những trái dừa. Và lần này tôi đi ngủ với cái bụng bình thản hơn.

Cái bụng đánh trống và cái lưỡi không ngừng liếm mép của Hằng khiến cho Ly-Roi bật dậy và kéo Hằng đứng lên, hắn liệt ra đủ loại món ăn mà lẽ ra họ có thể ăn vào lúc này.

“Du gô.” Hằng nói hắn đi đi, mà trong lòng không thực sự muốn hắn đi. Hơi ấm bên trong vòng tay của hắn, nhịp thở của hắn, đã trở nên cần thiết thân thuộc như  làn da của chính mình.

Hằng đẩy hắn ngồi xuống trở lại. Hắn càu nhàu và thở dài. Có nhằm nhò gì đâu những điều hắn nói. Chỉ cần hắn ở lại và tiếp tục nói.

Sáng hôm sau tôi tỉnh dậy với những tiếng thét hải tặc, hải tặc. Những ngón tay chỉ trỏ, những âm thanh hốt hoảng trong lúc chúng tôi chạy về phía ngọn đồi và tự hỏi tại sao lại có hải tặc ám hại chúng tôi trên đất liền. Đàn bà và con gái được nhét vào những khe đá. Tôi trốn cùng với một đứa con gái đã nhảy xuống biển từ chiếc tàu hải tặc. Bà của nó đã trông chừng Mẹ và tôi. Những bức tường đá, nhầy nhụa và ẩm ướt, tanh nồng mùi cua thối rữa. Ở phía đối diện lối vào cuối đường hầm, những đợt sóng dữ dằn gầm rú, mở đường trở lại biển.

Ai đó ném vào hang hai cây sậy dài, rỗng, cùng với hướng dẫn hãy nhảy thoát thân nếu bị phát hiện. Cố gắng ở bên dưới và thở và trôi cho đến khi được cứu bởi những cây gậy chọc trên mặt nước. Đừng để bọn hải tặc nhìn thấy. Cảnh báo cuối cùng được lặp đi lặp lại cho đến khi nó khoanh tròn chúng tôi như những con trăn.

Nằm xuống, Hằng cố gắng đè xuống những ký ức như căn nhà sừng sững trong lồng ngực. Tay thắt chặt nút áo, Hằng thở từng hơi thở đều đặn, tập trung nghĩ đến một điều gì đó vui hơn.

Liệu Hằng sẽ khao khát điều gì nếu cuộc đời đã ban cho mình một quá khứ êm dịu, ngọt ngào? Điều gì sẽ xảy ra nếu sáu năm qua chỉ đơn thuần là một sự  tiếp nối của gia đình, trường học, bạn bè, vẽ vời và học hành? Điều gì còn lại để khao khát?

Trống rỗng. Hằng cố gắng tưởng tượng đến điều gì đó đơn giản hơn, một tô cháo ngào ngạt mùi xương hầm và hành lá. Rồi ngủ.

Ngay khi Hằng vừa nhắm mắt, lời ru đều đặn của LeeRoy ngừng lại. Cô ngồi bật trở dậy trong lúc Ly-Roi cựa quậy tới lui. Kéo tay hắn một lần nữa, mắt cô mở to cầu xin anh tiếp tục nói.

Và cô không quên cộng thêm vào đó nụ cười.

Trích Bướm Vàng / Butterfly / Lại Thanhhà (Nina Hòa Bình Lê phỏng dịch)

___________


"Đảo Hoang" là một chương trong Bướm Vàng/Butterfly Yellow của nhà văn Mỹ gốc Việt Lại Thanh Hà, từng đoạt giải thưởng National Book và giải Newbery-Danh dự, thể loại Thiếu niên, với tác phẩm thơ xuôi Inside Out & Back Again / Trong Ra Ngoài & Ngược Trở Lại - mới đây đã được nhà xuất bản HarperCollins xuất bản một cuốn tiểu thuyết mới nhan đề Butterfly Yellow / Bướm Vàng (284 trang, giá bán $17.99) và đã được giới phê bình văn học của tờ nhật báo New York Times gọi đây là một tác phẩm "đẹp nhức nhối." (Searingly beautiful.)

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Người đáng sợ hơn ma, chỉ có người mới sân hận thù ghét, chỉ có người mới đâm bị thóc thọc bị gạo, dèm pha phỉ báng; cũng chỉ có người mới tham lam tranh đoạt bằng mọi giá và cũng chỉ có người mới chơi đểu, chơi dơ, chơi xấu... Người hại người mới ghê gớm và tàn bạo.
Anh đậu xe trước chung cư, đèn khẩn cấp nhấp nháy đều đặn. Năm phút rưỡi chờ đợi. Những người qua lại nhìn anh. Những cái nhìn tọc mạch, xét nét. Bốn giờ ba mươi sáu phút, bóng em lấp ló ngoài khung cửa. Mắt em dừng lại ở xe anh. Trời lạnh. Em mặc áo da trông ấm cúng lạ thường. Nhưng anh không cảm thấy thèm được ôm chầm lấy em để hơi ấm hai thân thể hòa lẫn trong nhau như thuở trước. Em thong thả bước xuống những bậc thang xi măng ẩm ướt. Một chiếc xe van dừng lại phía sau anh. Những đầu tóc mầu đen rối bù ló ra khung cửa. Rồi những bàn chân da vàng khẳng khiu bước xuống xe, tất tả. Tiếng cười đùa, gọi nhau ơi ới vang cả một góc đường. Em luống cuống mở cửa xe. Em chào anh. Vẫn giọng nói thì thầm như hơi thở độ nào. Anh cố cười thật tươi đáp lại.
Người ta thường ca tụng tình yêu là vật đẹp muốn mầu (Love is a splendid thing). Quả đúng như thế, vì tình yêu đúng nghĩa cao đẹp của nó là bao gồm hành động bác ái, chỉ biết cho đi mà không cần nhận lại, nào là những lời yêu thương ngọt ngào trìu mến chân thật trao cho nhau, phát xuất từ đáy con tim, chứ không phải bằng đầu môi chóp lưỡi, như người ta vẫn thường nghe thấy.
Không lẽ người Việt giờ chỉ mới lên ba sao? Sao cứ phải ạ khan như thế này? Cứ ạ, ạ, ạ vô tội vạ kiểu này chắc chết! Mà đâu chỉ có ạ, còn bao nhiêu từ ngữ khác nữa, hiểu được chết liền! Tâm tư Michael nghĩ mông lung, cũng may buổi diễn vừa đến hồi kết thúc.
Quay ra cửa, thấy Ba tôi, ông y tá chạy thoát bằng cửa sau, bỏ quên bộ đồ tây của Ba tôi. Dòng kỷ niệm buồn của tôi vừa đến đây, tôi chợt nghe tiếng Ba tôi gọi: “Con!” Quay lại, tôi thấy Ba tôi ngồi xuống chiếc ghế cạnh tôi, vừa chỉ theo ba Bố con đang đi trên đường trước nhà tôi vừa nói: -Cậu đó với hai đứa nhỏ làm Ba nhớ thời gian gia đình mình sống ở Sơn Tịnh và Hà Bằng.
- Anh ấy chung tình lắm chị ạ. Em dám cá bây giờ cho một cô gái thật đẹp sống chung trong nhà thì anh ấy vẫn chỉ biết có em thôi. - Thế em đã thử chưa ? - Cần gì phải thử chị ! Lần này thì Nguyệt nghiêm trang nói: - Không thử sao biết người ta thật chung tình với mình ? Dường như hơi bị đuối lý nhưng Nga vẫn chống chế: - Thử thì cũng được nhưng ngộ nhỡ ? - Ngộ nhỡ tức là người ta đâu thực sự chung tình với mình, có phải vậy không ? - Nhưng làm thế nào để thử ?
Tôi thì thầm với hắn chuyện ấy, thêm chút muối, chút mắm rằng tôi có thể nói giùm để mụ chủ thông cảm chuyện viết lách của hắn. Hắn cám ơn tôi và hào hứng nói thêm rằng một giây phút cảm hứng có thể ghi tên nhà văn vào danh sách vĩnh cửu. Rồi hắn lan man qua chuyện ông Gheorghiu nhà văn nào đó ở nước tôi. Hắn say mê nói về những anh nông dân Johan, những mục sư Kuruga, những nhân vật Traian… (không biết tôi viết tên có đúng không) vớ vẩn trong cuốn “Giờ Thứ Hai Mươi Lăm” nào đó mà tôi chưa bao giờ nghe nói đến chứ đừng bàn đến chuyện đã đọc hay chưa. Nhìn hai con mắt rực rỡ tin yêu của hắn, tôi chỉ thấy tội nghiệp, nhưng hắn không hiểu. Hắn hăng hái bảo mỗi lần tạo ra một nhân vật, hắn phải cố sống trọn vẹn tâm trạng nhân vật ấy. Từ kẻ sát nhân, kẻ anh hùng, người thất nghiệp, gã ăn mày, ăn xin, tên sở khanh, người đứng vất vơ đầu đường xó chợ, kẻ trộm, kẻ cướp, tên hãm hiếp phụ nữ… Tất cả những tâm lý nhân vật ấy hắn đều đã tự đọa đày mình để trải qua, để sống thực, để viết cho “sống”
Câu cá là một thú vui tao nhã và nhàn hạ, nhưng chỉ bắt được ít cá chứ không nhiều. Đánh bắt bằng lưới và tàu thuyền thì được nhiều hơn, nhưng phải sắm sửa vật dụng, tàu bè, chắc chắn tốn kém nhiều tiền. Trong cuộc sống, khi đi làm phải chịu nhiều áp lực công việc, nhiều người chọn câu cá như một thú vui xả căng thẳng ở chỗ làm. Tôi chẳng bao giờ sắm cần câu để tự mình đi câu vì tôi không có số “sát cá”. Tôi đã thử mấy lần theo bạn bè đi câu mà chẳng bao giờ câu được con cá nào. Muốn ăn cá, tôi vào chợ “câu” là chắc ăn. Nhưng có 1 lần trong đời tôi chẳng tốn kém gì mà vẫn bắt được rất nhiều cá, cả 5, 6 bao tải cá, ăn không kịp phải phơi khô. Tôi xin kể cho bạn làm thế nào tôi bắt cá được nhiều, nhưng xin bạn đừng bắt chước theo tôi với kiểu nói quen thuộc trên TV bây giờ: “Do not try this at home”. Những ngày còn trong nước, khoảng thời gian năm 1975, 1976, tại ngã ba cây số 67 trên đường đi ra Bà Rịa, Vũng Tàu, có một vùng kinh tế mới tự túc tên là Bầu Cạn. Thời đó cả nước
Mùa Hè đầu thập niên 60, từ Đà Nẵng, chúng tôi mở cuộc “hành phương Nam” vào thành phố Nha Trang. Dũng có người bà con ở dưới Cầu Đá, đã nhiều lần vào Nha Trang, mô tả vùng trời phương xa thật hấp dẫn, ba đứa còn lại được nghe bạn kể nên rất náo nức, được dịp rủ rê nên chớp ngay cơ hội sau vài ngày nghỉ hè. Bốn đứa mang theo hai chiếc xe đạp để tiện việc di chuyển, đáp chuyến xe đò Phi Long từ mờ sáng, đến Nha Trang vào lúc mặt trời lặn.
Những tàng cây ngả nghiêng trong gió. Lá me xanh rải đầy đường. Cơn đói bò lan ra cả ngoài da. Chỉ còn hai tiếng đồng hồ nữa là tới giờ hẹn. Không còn cách nào khác. Hắn đạp xe vòng quanh con phố. Bụng quặn lên ngàn con sóng. Biển động cấp năm trong bao tử và ruột non ruột già. Nhưng cơn đói hùng hổ như thế cũng chẳng thấm thía gì so với nỗi lo âu đầy nanh vuốt của cái việc phải làm. Hắn quẹo gắt vào con hẻm. Tay lái xe vướng vào quang gánh một người đàn bà bán hàng rong. Cú giật ngược làm hắn lao đao và người đàn bà nhùng nhằng sắp ngã. Chén bát xô vào nhau loảng xoảng hai đầu quang gánh. Người đàn bà trợn ngược con mắt.
Sau ngày 30 tháng tư 1975 tôi bị ở tù như mọi người cựu quân nhân Cộng Hòa. Ở tù ra, đói khát, lang thang, tới giai đoạn mà “cái đèn đường có chưn nó cũng muốn kiếm đường mà đi.” Đi khỏi quê hương đất tổ mồ mả ông cha, còn cái gì khổ cho bằng? Vậy mà phải đi. Nhứt định đi. Nếu được tới bến bờ tự do thì nhờ phúc đức ông bà kiếm sống rồi tím cách đem thân nhân còn lại không thì chết cũng lẹ làng hơn là chết đói chết khát tại quê hương. Tù vượt ngục về còn có cái mình không với cái quần xà lỏn. Tiền bạc có đâu???, vàng cây để vượt biên là chuyện ngoài chân mây. May mắn hết sức là tôi liên lạc được thằng bạn đồng ngũ đã qua Mỹ, má nó mua chiếc ghe bầu tính chuyện vượt biên đang cần người lái tàu mà tôi là cựu hải quân ngành Rada truyền tin. Bà cho tôi giữ ghe một năm để chuẩn bị.
Chủ Nhật mùng 9 vừa qua của tháng 5 này là Ngày Hiền Mẫu (Mother’s Day) tại Hoa Kỳ, để cho tất cả con cái có dịp đặc biệt tỏ lòng thành kính tri ân người Mẹ qua nhiều hình thức khác nhau, đã phải cực nhọc hy sinh mọi gian khổ để nuôi dưỡng con khôn lớn, ăn học thành tài và sống tự lập ngoài xã hội. Nói riêng về Đạo Công Giáo, trong suốt tháng 5 này gọi là tháng Dâng Hoa Đức Mẹ của tất cả các tín đồ người Công Giáo Việt Nam trên hoàn vũ, bầy tỏ lòng kính mến và tôn vương Thánh Nữ Đức Mẹ Đồng Trinh Maria là Mẹ Thiên Chúa.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.