Hôm nay,  

Tái Sinh

27/12/201900:00:00(Xem: 14007)
Bo Tung Ma-Tai Sinh
Bồ Tùng Ma lãnh giải Việt Bút năm 2008, với Sơn Điền Nguyễn Viết Khánh, Tường Vi Lê, Kiều Chinh, tại Rose Center Theater. Từ bỏ trở đi. Ông trở thành Giám Khảo Tuyển Chọn Giải Thưởng VVNM.

Mới đặt chân đến Mỹ chưa được mười ngày ông Hai đã được ông James tặng một chiếc xe hơi. Ông James dẫn ông Hai băng qua cái sân rất rộng, vào nhà xe, chỉ một chiếc xe màu xám trắng nằm trên bốn bánh gần như không còn một chút hơi:
-Ford Mustang 65. Anh chỉ việc bơm bốn cái bánh lên là có thể lái nó đi phom phom.
Quả vậy, sau khi nhờ một người bạn -người đã giới thiệu ông Hai với ông James- lo mọi chuyện về bốn cái bánh xe, ông Hai đã lái xe đi phom phom... trong sân nhà ông James xong nhờ ông James lái nó về nhà mình, vì ông Hai chưa có bằng lái.
Nhà ông Hai thuê cách nhà ông James chừng một mile, thuộc loại rẻ tiền, không có chỗ đậu xe riêng, nên ông Hai hướng dẫn ông James đậu chiếc xe ngoài đường. Sau đó thỉnh thoảng ông vào xe rồ máy, nhìn trước nhìn sau xem thử có cảnh sát không, rồi de tới de lui, rất khoái chí.
Ông James là một cựu Sĩ quan Hải quân. Trong chiến tranh Việt Nam, ông là Hạm trưởng của một Hộ tống hạm (PCE). Ông ta biết ông Hai cũng là Hải quân nên rất khoái. Mới gặp ông Hai, James đã ôn đủ thứ chuyện về Việt Nam, sau cùng nói:
-Anh thích xe hơi không" Nếu anh muốn, tôi biếu cho một chiếc. Xe cũ thôi, nhưng rất ít mile, anh không thể tưởng tượng được trong vòng 20 năm nó chạy chưa tới 120,000 mile. Thằng Cuba ở bên cạnh nhà anh xin mà tôi không cho. Tôi không muốn một vật kỷ niệm quý giá như thế này lọt vào tay nó. Thằng ấy mà có được chiếc xe, sẽ xẻ ra từng mảnh đem về Cuba.
Ông Hai tò mò và thích thú ngắm chiếc xe. Xe kiểu cũ, chớ không hẳn là xe cũ. Thân xe sơn màu xám lợt, màu chiến hạm tiếp vận, trông vẫn còn khá mới. Nệm ghế màu xanh hải quân, không một vết sờn. Ông James khởi động máy và nhấn còi. Tiếng còi xe nghe như tiếng còi tàu, kéo dài lê thê, buồn rười rượi. Ông James cười nói:
-Tôi chế thêm ra đó.
Ông James mở cóp xe, chỉ cho ông Hai các vật dụng ở trong đó:
-Đây là thuyền phao, khi bơm lên, anh có thể an tâm ngồi trong đó mà câu cá, dù cho biển động đến sóng hai, sóng ba. Đây là cần câu. Đây là mồi giả. Đặc biệt xe này có một cái ghế sau rất nhẹ mà anh có thể tháo ra làm ghế ngồi câu. Ghế này cũng do tôi chế ra.
Ông James thở dài nói tiếp:
-Bao nhiêu đồ đạc đã ở cùng ta, chiếm mọi ngõ ngách trong nhà. Chúng không bao giờ phải chết cả nên càng ngày càng nhiều thêm lên. Thú thật những thứ tôi biếu anh là những thứ tôi không cần dùng nữa, nhưng lại không nỡ rời bỏ. Tôi biết anh là người mới qua, cần dùng những thứ này, ít ra cũng trong một thời gian vài năm.
Ông Hai cảm động nhìn ông bạn Mỹ. James đang lấy tay xoa xoa đầu chiếc xe như vuốt ve một đứa bé hay một con vật nuôi. Ông Hai không ngờ ở nơi xa xôi này lại có người có tâm hồn giống mình đến thế. Ngày rời khỏi trại cải tạo ông Hai đã không bỏ lại bất cứ một cái gì: cái lon Guigoz, cái áo trấn thủ làm bằng bao cát chống đạn, đôi đũa tre. . .; những vật dụng đã đồng cam cộng khổ với ông; nhất là cái lon Guigoz, gần như nó có thể làm đủ mọi chuyện: nấu ăn, đun nước, làm gáo múc nước và làm cái bô đi tiểu những lúc bị kẹt...
*
Gia đình ông Hai, gồm hai vợ chồng và đứa con trai, chuẩn bị dọn qua Los Angeles. Ông nói với bà:
-Mình sẽ qua đó bằng xe hơi. Từ Orlando qua đó hơn 2700 mile, đi mất chừng 3 ngày 3 đêm, kể cả nghỉ ngơi dọc đường. James đã chỉ cho tôi cách giải quyết mọi tình huống bất ngờ khi đi đường. Tôi cũng đã đem xe đi tune-up...
Nghe đến đây bà Hai kêu lên:
-Ông có điên không" Dùng một chiếc xe đời 65 để dưa vợ con đi từ Đại Tây Dương qua Thái Bình Dương.
Ông định cãi lại bà như thói quen gia trưởng xưa nay, nhưng rồi nghe bà nói cũng có lý nên ông bỏ ý định dùng chiếc Mustang. Tuy nhiên ông không biết nên để lại chiếc Mustang cho ai. Thằng Cuba thì nhất định ông không giao xe cho nó, ngay cả bán với giá 500 đô như nó đã trả. Ông cũng không muốn giao chiếc xe cho thằng con ông bạn ở ngay cạnh nhà, nó sắp có một công việc làm khá tốt, chẳng bao lâu nó sẽ cho xe vào nghĩa địa xe để mua xe mới. Ông suy nghĩ suốt hai ngày về việc này và cuối cùng mắt ông sáng lên, ông sẽ cho ông Danh chiếc xe. Chắc chắn ông Danh sẽ dùng chiếc xe ít ra cũng 4 năm nữa. Ông Danh đã 61 tuổi, đang ăn tiền bệnh SSI. Ông Danh nhác gan và lẩm cẩm, sợ Sở An Sinh Xã Hội cúp tiền bệnh nếu nghi ông hết bệnh, nên suốt ngày nằm nhà làm như bệnh nặng lắm. Nếu phải đi đâu ông Danh chỉ đi bộ, quấn khăn quanh cổ, ho hen sù sụ như sắp chết đến nơi. Ông vượt biên từ miền Bắc, từng sống trong một xã hội mà người dân hay dò xét nhau, việc này trở thành ấn tượng sâu đậm, nên khi đến Mỹ ông tưởng tất cả mọi người chung quanh đều dò xét ông, xem ông có đáng ăn tiền SSI hay không. Ông Danh rất thích xe hơi, nhưng nghe đồn ai lái xe và sở hữu xe là khỏe mạnh và có lợi tức, không ăn tiền SSI được, nên rất ngại mua xe, nhất là xe tốt. Sau khi nghe ông Hai ngỏ ý muốn cho mình chiếc xe hơi, mắt ông Danh sáng lên nhưng rồi tối ngay lại:
-Mà. . . mà tớ có lái xe được đâu. Từ ngày bị thằng biên phòng cho mấy bá súng vào đầu, mắt tớ không dược bình thường.
Ông Hai bực mình nói:
-Có lấy không" Nếu không, tôi cho người khác.
-Xe thế nào, đời mấy"
-Đời 65.
-Phải chi đời cũ hơn.
-Ngoài nghĩa địa cũng không có xe đời cũ hơn.
-Thế thì tớ nhận.
-Nhưng tôi lấy lại một cái ghế sau.
-Phải, phải. Như thế... tiện cho tớ hơn.
*
Hôm nay là ngày chủ nhật, ông Hai và người con trai đang thu gọn các đồ đạc trong nhà, nghĩa là tính xem nên bỏ đi và nên giữ lại cái gì, để chuẩn bị dọn sang nơi ở mới.
Bao nhiêu đồ đạc tích trữ từ nhiều năm trước chiếm nguyên cả cái nhà để xe, đến nỗi xe phải đậu ngoài đường. Những đồ đạc này phần lớn do bà Hai sắm. Bà là người thích mua sắm hay nói đúng hơn là có bệnh mua sắm. Bà càng có nhiều tiền, bệnh mua sắm của bà càng trầm trọng. Không những bà thích mua sắm áo quần và những đồ đạc lặt vặt khác mà còn thích mua sắm luôn cả những đồ chứa đựng các thứ này như hộp, thùng, tủ và những đồ chứa đựng kỳ cục khác. Đồ mua sắm này giống như thân phận của những cung phi, có khi được dùng đến, có khi bị bỏ quên, để rồi một thời gian sau trở nên cổ lỗ, không được ngó ngàng đến.
Người con trai ông Hai là người chủ chốt trong việc thu gọn nhà cửa lần này. Đã từ lâu anh ta nhất quyết "làm một cuộc cách mạng triệt để" vào những đồ đạc này, nghĩa là loại bỏ không nương tay những "thành phần" mà anh ta cho là không có lợi. Nhưng ông Hai lại không muốn vất bỏ chúng, ông muốn giành chúng cho những người mới đến Mỹ hay giữ chúng trong kho, chớ không nỡ để chúng nằm lăn lóc trong một đống rác hôi thối nào đó. Ông cảm thấy chúng như có linh hồn, lại có cả tình gắn bó với ông sau khi đã ở trong nhà ông một thời gian khá lâu.
Ông bất bình thấy người con vất một cách thô bạo những đồ đạc chứa trong nhà để xe lên chiếc xe truck nhỏ. Ông nói:
-Nhẹ tay một chút được không" Mình có thể đem cho mà.
-Gọi Good Will hai ba lần mà họ cũng không đến nhận, có lẽ họ chê. Ba xem này, cái lon đen thui cột chung với miếng giẻ rách...


-Mày nói sao" Cái lon, cái lon Guigoz, cái áo trấn thủ.
-Ba nói gì vậy"
-Mày đưa mấy thứ đó cho tao, các thứ còn lại mày muốn làm gì thì làm.
Ông giằng lấy cái lon Guigoz và cái áo trấn thủ nơi tay người con trai rồi bỏ đi, không nỡ nhìn những đồ đạc nằm ngổn ngang trên sàn nhà, như không dám nhìn những người thân yêu đang bị tra tấn hay bước lên đoạn đầu đài.
Đêm hôm đó ông nằm cố ru giấc ngủ nhưng không tài nào nhắm mắt được. Ông cố quên những đồ đạc nằm ngổn ngang ngang lúc chiều nhưng chúng cứ hiện ra trước mắt ông. Ông chợt nhớ đến chiếc Mustang 65. Đã từ lâu không liên lạc với ông Danh, ông không biết gì về chiếc xe cũng như chủ của nó. Ông nhớ lại khi ông giao chiếc xe cho ông Danh và ra về trời đang lất phất mưa. Những giọt nước mưa đọng trên hai cái đèn xe long lanh trong ánh nắng vàng vọt của buổi chiều tà, làm ông có cảm tưởng như chiếc xe đang rưng rưng lệ từ biệt ông. Ông nhớ đến chiếc ghế xe mà ông đã tháo ra và mang sang đây. Mấy năm trước mỗi khi đi Santa Monica câu cá, ông vẫn dùng chiếc ghế này. Ngồi trên ghế nhìn từng lớp sóng xô vào bờ từ biển xa, những con hải âu bay lượn trên nền trời xanh biếc, những con tàu màu trắng đục ở xa tít tận chân trời, ông có cảm tưởng như đang ngồi trên chiến hạm tuần tiễu cận duyên và nhớ lại một thời đẹp nhất trong cuộc đời mình. Tất cả đã xa rời, không bao giờ còn trở lại. Nhưng mà chiếc ghế xe, mới chiều nay nó vẫn còn... Ông ngước nhìn đồng hồ treo tường. Đã gần 2 giờ sáng. Ông nhổm dậy, bước qua phòng đứa con trai. Nó vẫn còn đang thức đọc sách.
-Hồi chiều mày có thấy chiếc ghế của ba không"
-Ghế gì"
-Cái ghế ba hay ngồi câu cá đó.
-Có vài thứ con vất trong thùng rác hay bỏ ngoài đường, không chở đi. Mà ba muốn gì vậy" Ba Mẹ đều... lẩm cẩm hết rồi! Đầu hôm mẹ khóc nguyên cả 1 giờ vì con vất cái ví đầm cổ lỗ sĩ của mẹ trong thùng rác.
-Mầy là người rất hời hợt, ngay cả ảnh tao chụp cho mầy hồi nhỏ mầy cũng vứt tùm lum, bây giờ vứt luôn cả vật kỷ niệm của mẹ mầy. Đó là cái ví tao mua tặng mẹ mày.
- Ở xứ Mỹ này mà ba mẹ. .. như vậy thì không bao lâu nhà mình biến thành cái thùng rác.
- Ba mẹ mầy như vậy thì mới có mầy; nếu mẹ mầy cũng hời hợt như mầy thì đã bỏ tao ngay khi tao còn ờ trong trại cải tạo. Còn tao...
-Nhưng cái gì cũng có sự chấm dứt chứ...
Ông không muốn nghe tiếp nữa, quay gót trở về phòng. Ông ngủ một giấc ngủ chập chờn vì mãi suy nghĩ mênh mang. Ông nhớ đến chiếc xe "rớm lệ" khi ông bỏ nó lại Orlando. Ông tưởng tượng chiếc ghế xe đang nằm co quắp trong đống rác hôi thối than trách ông. Ông bùi ngùi nói:
-Phải, cái gì cũng có sự chấm dứt. Cái gì rồi cũng có lúc tàn lụi. Cái gì có rồi cũng sẽ không có; ngay cả vũ trụ, trái đất; ngay cả thân xác tao rồi cũng sẽ đi theo mầy. Tất cả chúng ta sẽ gặp nhau tại một nơi, đó là nơi không-có-gì-cả. Việc gì phải than trách.
-Nhưng tôi chưa tàn lụi. Tôi chỉ mới bị sút vài cây đinh vít, vài con ốc. Ông chỉ việc lấy chiếc kèm vặn lại là xong, là có thể dùng tôi, một loại đồ đạc đã theo ông suốt mười mấy năm dài đăng đẳng, đã chịu đựng biết bao nhiêu thô bạo của ông. Ông còn nhớ không, rất nhiều lần, chỉ vì câu hụt một con cá nhỏ mà ông đã giận dữ ngồi phịch lên người tôi, làm tôi suýt rách nát cả da thịt.
Ông Hai ngồi nhổm dậy. Đồng hồ chỉø 4 giờ 30 sáng. Xe hốt rác sắp đến đem rác đi. Xe của mấy người Mễ đi lượm đồ phế thải cũng sắp tới. Ông Hai đi nhanh ra ngoài đường nhìn dáo dác rồi reo lên một tiếng mừng rỡ. Cái ghế vẫn còn nằm bên vệ đường.

***

Ông Hai nay là một ông già lụ khụ. Bà Hai đã mất. Ông giao ngôi nhà rộng thênh thang lại cho đứa con trai quản lý, ra ở nơi căn phòng mới chế biến từ cái nhà để xe. Việc này do ông tự nguyện sắp xếp, một sự sắp xếp có tình có lý theo nếp sống tự do của Mỹ. Ngôi nhà nay rất rộng vì bao nhiêu đồ đạc cũ đều bị vợ chồng người con trai vất đi hết. Ông Hai chỉ còn giữ lại một vài vật kỷ niệm của vợ ông và chiếc ghế xe.
Ở trong căn phòng nguyên là nhà để xe này, ông Hai có cảm tưởng như mình cũng là một loại đồ đạc sắp bị phế thải. Khi xưa ông cụ thân sinh ra ông ở Việt Nam chắc chắn không có cái cảm tưởng như ông ngày nay. Từ bao giờ, trước khi ông mở mắt chào đời, ông cụ đã ở trong ngôi nhà từ đường, chễm chệ ngồi trên bộ phản gõ kê ngay trước bàn thờ, bên cạnh biết bao nhiêu vật dụng để từ đời này sang đời khác, không ai dám có ý định vất đi vì những vật tổ tiên sắm ra không những là những kỷ vật thiêng liêng mà còn là của cải, chứ không phải chỉ là phương tiện. Ông cụ ở đó cho đến khi nhắm mắt lìa đời với đám con cháu chung quanh. Ông Hai nghĩ đến đây lòng buồn rười rượi.
Ông và những đồ đạc trong căn phòng này chẳng còn bao lâu nữa sẽ đến nơi-không-có-gì-cả, sẽ vĩnh viễn bị quên lãng trong đám cát bụi của trần gian.
Ít khi hai vợ chồng người con trai đến phòng riêng của ông. Ông càng ngày càng ít bạn bè, hầu hết họ đều ra đi về bên kia thế giới trước ông. Người khách vãng lai duy nhất ở đây là đứa cháu nội trai lên năm. Nó chẳng có nhu cầu gì nơi ông cả, nó không cần ông kể chuyện cổ tích vì đã có TV, nó cũng chẳng cần kẹo bánh vì ở xứ Mỹ này đồ ăn uống dư thừa, nhưng nó vẫn cà rà một bên ông.
Ông Hai vẫn còn đi câu cá hay nói đúng hơn là đi nhìn biển. Ít khi ông nhờ vợ chồng người con trai chở đi mà thường hay lủi thủi một mình đáp chuyến xe buýt số 4 đi Santa Monica. Xuống xe ông chỉ cần đi một đoạn đường ngắn là đến nơi.
Một hôm ông Hai cùng đứa cháu nội định băng qua đường để đi về phía biển thì thấy trên một đoạn đường có giăng cờ màu sắc rực rỡ, phía dưới có nhiều chiếc xe mới đủ màu đang đậu. Ông tò mò đi đến xem. Người ta đang quảng cáo xe. Đây là những chiếc Ford Mustang mới tinh đủ màu: xanh hải quân, đỏ, trắng xám... Ông Hai say mê nhìn mấy cái xe. Chúng đều phảng phất bóng dáng của chiếc Mustang 65, nhưng trẻ trung, xinh đẹp và tân kỳ hơn. Chiếc Mustang 65 có thể không còn nữa, có thể đã "chết", đã được nung chảy ra và tái sinh thành những chiếc xe này. Ông nhìn đứa cháu nội đang đứng một bên. Rõ ràng nó phảng phất bóng dáng của ông. Cũng như ông, nó có mớ tóc quăn phía sau ót, hai cái tai to, những ngón chân dài... Ông đang được "nung chảy" ra để trở thành nó. Thì ra là như vậy. Cái gì có sẽ không có, nhưng không phải về một nơi không-có-gì-cả, mà về một nơi nào đó để trở lại hoàn hảo hơn. Không thể nào có sự trường sinh bất tử theo nghĩa thông thường như người ta đã nghĩ. Nếu có sự này cách đây 70 triệu năm thì hôm nay trái đất chỉ toàn là khủng long.
Ông Hai mỉm cười rạng rỡ, cùng đứa cháu đi về phía biển. Hôm nay trời khá lạnh, lại có nhiều gió, những đợt gió từ đâu ngoài biển thỉnh thoảng xô vào người ông như ngầm bảo ông nên trở về, ở đây hôm nay không phải là ngày thích hợp với một người già cả. Nhưng mà ông đang thích biển, ông muốn ra nhìn biển vì biết đâu đây không phải là dịp cuối cùng.
Quả vậy, vài giờ sau đó người ta thấy có ông già ngồi chết bên cạnh một đứa bé đang ngủ say, tay đứa bé cầm cái cần câu, môi ông già vẫn chưa tắt nụ cười. Nếu không quan sát kỹ, khó biết được ai đã chết và ai đang ngủ.

Bồ Tùng Ma

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
“Ngày nào em cũng nhắc mà anh cứ quên hoài. Rán uống thuốc cho mau hết bịnh,” cô chưa kịp dứt lời thì một tiếng sủa bung ra cùng lúc với cái gạt tay hung hãn, “Hết cái con mẹ cô ấy!” Ly nước tay này, lọ thuốc tay kia cùng lúc bật khỏi tay cô, văng xuống nền xi măng, ném ra một mảng âm thanh chát chúa. Cái ly vỡ tan. Nước văng tung tóe, những mảnh thủy tinh văng khắp chung quanh, vạch những tia màu lấp lánh. Không dám nhìn vào hai con mắt đỏ lửa, cô cúi đầu dán mắt vào vũng nước loang loáng, vào những viên thuốc vung vãi trên nền nhà. Những viên thuốc đủ màu làm cô hoa mắt (viên màu vàng trị đau, viên màu đỏ an thần, viên màu nâu dỗ giấc ngủ, cô nhớ rõ như thế...) Một viên màu đỏ lăn tới chân cô.
Tôi định cư tại San Diego đã ngoài bốn mươi năm qua. Vùng đất hiếm hoi khó có nơi nào sánh được: bởi chỉ nội trong một ngày lái xe quanh quẩn, người ta có thể đi từ biển lên núi, từ rừng xanh đến sa mạc, thưởng ngoạn đủ đầy hương sắc của đất trời. Sáng sớm thong dong bên vịnh Mission, mặt nước yên như tờ, hàng cọ in bóng trên nền sương mỏng. Trưa ghé Julian, nhâm nhi ly cà phê hay lát bánh táo giữa tiết trời lành lạnh và màu xanh thăm thẳm của rừng thông. Chiều về, con đường tới Borrego mở ra vùng sa mạc hoang vu, xương rồng rải rác trên nền đá đỏ. Suốt dọc hành trình đâu đó hiện ra vườn cam, vườn bơ, đồng nho trĩu quả giữa thung lũng nắng chan hòa. Cảnh vật thay đổi không ngừng, khi mộc mạc, lúc rực rỡ, nhưng vẫn hài hòa như một bản nhạc êm dịu của đất trời. Mỗi lần lái xe ngang qua, tôi cảm thấy mình như được nối lại với nhịp sống của đất, và lòng bỗng nhẹ nhàng lạ thường.
Nhà kho Walmart ở ngoại ô Dallas chiều 24 tháng 12 lạnh như cái tủ đông bị quên đóng cửa. Đèn neon trên trần sáng trắng, lâu lâu chớp một cái như mệt mỏi. Mùi nhựa mới, mùi carton ẩm và tí mùi dầu máy trộn lại với nhau, cảm thấy nghèn nghẹn như cổ họng khi nuốt tin xấu. Tôi đứng giữa hai dãy kệ cao ngất, tay cầm clipboard, tay kia nhét sâu trong túi áo khoác xanh có logo Walmart. Đồng hồ trên tay: 5:17 PM. Giáng Sinh, Walmart đóng cửa sớm lúc 6 giờ. Nếu rời đúng giờ, chạy bốn tiếng, trừ chút kẹt xe, tôi sẽ về đến Houston khoảng mười, mười rưỡi. Trễ, nhưng vẫn còn kịp thấy tụi nhỏ mở quà.
Khi những ngày tháng cuối của một năm đang dần hết, chúng ta thường có lúc bồi hồi nhớ về cố hương, về mảnh đất chôn nhau cắt rốn, hoặc nơi đã in dấu nhiều kỷ niệm đã qua trong đời. Và tôi cũng vậy, xin được nhớ về Gò Vấp, nơi có địa danh Xóm Mới, vùng ngoại ô không xa Sài Gòn, được nhiều người biết đến như vùng đất với nhiều dân Bắc kỳ di cư, nổi tiếng là khu Xóm Đạo, đã từng là nơi sản xuất pháo cùng với món thịt cầy (mộc tồn) lừng danh.
Ông từ người Papua New Guinea đón cha xứ mới người Việt Nam trước cổng nhà xứ. Dáng người ông từ khoảng chừng 30, khuôn mặt PNG nâu nâu đậm nét đăm chiêu, ánh mắt ẩn hiện nét hồi tưởng. Khi nhìn thấy cha xứ mới đang kiên nhẫn đứng đợi dưới mái hiên nhà xứ, nụ cười xuất hiện trên môi ông từ để lộ hàm răng trắng đều thường thấy nơi người bản xứ. Nhưng nụ cười ấy vụt tắt khi ông mở cửa, mời cha xứ lên xe. Ông từ nhanh chóng quay về lại trạng thái khô khốc khi chiếc xe cũ lăn bánh nhọc nhằn trên con đường đá sỏi gập ghềnh. Sau vài câu trao đổi xã giao ngắn gọn, ông từ lại chìm vào trạng thái im lặng. Thời gian trôi qua, năm phút rồi mà vẫn không ai nói thêm một lời nào. Cuối cùng cha xứ lên tiếng,
Giáo Sư Dương Ngọc Sum, với tôi, là hình ảnh tiêu biểu, đáng kính từ nhân cách, hiếu học, luôn luôn cởi mở, tính tình hòa nhã, thân thiện với mọi người. Ông định cư tại Hoa Kỳ theo diện H.O 3 vào tháng 7 năm 1990 (trước tôi một tháng, H.O 4) và cũng trải qua những giai đoạn thăng trầm trong tháng ngày tị nạn. Nhân dịp kỷ niệm Lễ Thượng Thọ 90 tuổi của GS Dương Ngọc Sum, nhà giáo và nhà văn, nhà thơ Dương Tử, viết những dòng về ông
Mấy chị em tôi chia nhau mua nhiều loại báo: Làng Văn, Thế Kỷ 21, Văn, Văn Học… chuyền tay nhau đọc. Tôi “quen” Thế Kỷ 21 đã lâu, nhưng chỉ là quan hệ... đơn phương. Vào những năm 90 của thế kỷ trước, tôi gởi bài đến tờ báo Măng Non, sau này đổi thành Văn Nghệ Trẻ của nhà văn Ngô Nguyên Dũng ở Tây Đức. Mãi năm 2003, tôi mon men vượt đại dương, tìm đến Làng Văn Canada. Được thời gian ngắn, anh Ngô Nguyên Dũng cho biết, báo Làng Văn phải đình bản, vì những khó khăn về tài chánh. Duyên văn nghệ của tôi với Làng Văn chưa kịp “bén” đã chấm dứt. Nghe chị Hoàng Nga “mách nhỏ”, tôi gởi bài đến Văn Học. Có lẽ địa chỉ hotmail của tôi bị nhầm là thư rác, junkmail, điện thư bị trả lại với lý do không giao thư được. Tôi vẫn tiếp tục viết, xếp trong “tủ”, lâu lâu đem ra đọc. Mỗi lần đọc, dặm thêm chút “mắm muối”.
Tôi học được cụm động từ “đi lăng quăng” của bố Sỹ vào những ngày còn học tiểu học. Sau giờ tan trường hay vào cuối tuần, thỉnh thoảng bố lại hỏi mấy thằng con trai: “Có đi lăng quăng không?” Dĩ nhiên là có rồi! Ngồi ở thùng xe phía sau chiếc Daihatsu, chúng tôi theo bố đi giao sách ở những tiệm sách, sạp báo ở trung tâm Sài Gòn. Cũng có khi chỉ là ra một công viên, chúng tôi được chạy nhảy, trong khi bố ngồi trên xe viết lách. Không rõ có bao nhiêu tác phẩm của Doãn Quốc Sỹ được viết trong hoàn cảnh này. Rồi cụm từ “đi lăng quăng” trở lại sau gần một nửa thế kỷ. Ở căn nhà Lampson thành phố Garden Grove, mỗi chiều tôi đi làm về ghé qua, bố đã ngồi đợi trước cửa. Thấy tôi đến, bố hỏi ngay: “Có đi lăng quăng không?” Thế là hai bố con bắt đầu hành trình “lăng quăng” đúng nghĩa, qua những khu dân cư ở gần nhà. Đi không có phải là để đến một nơi chốn nào đó. Đi chỉ để mà đi, để hai bố con có thì giờ ngồi bên nhau trò chuyện. 50 năm trước, bố chở con đi; 50 năm sau đổi ngược lại.
Buổi sáng cuối cùng ở Chamonix im lặng lạ thường. Suốt đêm qua, tôi đã để cửa sỗ mở toang, nên khi giựt mình thức dậy, ánh sáng trong suốt của núi tràn đầy phòng. Tấm mền len và drap giường trắng lóa như được phủ lân tinh. Không một tiếng động nào từ dưới đường phố vọng lên. Chỉ có hơi lạnh. Tôi nằm co ro và nghĩ đến ly cà-phê đen. Mùi thơm sẽ bốc lên cùng hơi nóng, rồi tan dần vào không khí. Giống như ký ức. Đôi giày đóng đầy đất bùn và gậy trekking đã xếp gọn gàng trong bao duffle cùng với áo quần đi núi từ đêm hôm qua. Chúng nằm bên cửa, sẵn sàng lên đường. Bên ngoài cửa sổ, rặng núi Mont Blanc vẫn kia, vẫn vĩ đại, vẫn trùng điệp, vẫn lặng lẽ xa xăm. Tôi nghĩ đến 11 ngày vừa qua và cảm thấy buồn buồn, làm như có điều gì tôi đã đánh mất, hay đã để quên trên ngọn núi kia, ở đâu đó, trong quãng đường dài tôi đã đi.
Năm nào cũng vậy, tháng 7 tháng 8, mùa mưa, mùa lũ lụt lại về trừng phạt quê hương Việt Nam. Từ rất xa xôi, người Việt khắp nơi thấp thỏm buồn rầu và lo sợ cho cảnh ngập lụt, bão tố hoảng loạn ở nhà, không riêng chỉ miền Trung mà cả miền Nam cũng lụt, miền Bắc và Bắc trung phần bị càn quét dữ dội do bão Bualo, rồi kế đến là bão Matno. Miền Bắc và cả thủ đô Hà Nội mưa bão trước chưa kịp khô, lại ngập nước, đường phố hóa thành sông do vỡ đập nước Lạng Sơn, nước sông dâng cao đỉnh điểm, tại thành phố còn có một số tổ chức cứu trợ, nhưng kẹt là ở các tỉnh miền cao, nước lên quá mau, đa số dân cư phải leo vội lên trú trên những mái nhà cao hơn. Cũng tại xả nước các đập thủy điện nữa v.v…
Đợi, và đợi. Có đến khoảng gần một trăm người xếp hàng đợi. Mới có năm giờ sáng thôi! Trời Đà Lạt đổ sương xuống nghe ướt tóc, ướt vai. Phòng bán vé còn đóng kín cửa. Sáu giờ mới bán vé. Biết vậy rồi, nhưng đám đông người này vẫn đến sớm chờ đợi. Chẳng qua là số xe có giới hạn, mình đến sớm mới mong có xe đi, nếu không thì phải về và trở lại vào ngày mai. Người ta nhìn nhau, như ngầm nói qua đôi mắt rằng đến sớm chắc ăn hơn. Mà không chừng có người đã ngủ đêm trước phòng bán vé để được xếp hàng phía trên cùng.
Tháng 7 trời xanh cao, mùa lên hâm nóng. Mặt đất nung nhiệt ngấm ngầm địa chấn, như muốn cùng người rung vang lời ngân quá khứ. Tháng 7 gọi về hàng phượng đỏ thắm rung rinh chùm nở, thứ lung linh ảo mờ, gần gụi mà xa thẳm, “mù không lối vào...” (TCS). Vang vang trong gió, lời trẻ thơ láng giềng vọng lại đùa vui tiếng nước...


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.