Hôm nay,  

BẠCH QUỶ

24/01/202000:00:00(Xem: 4464)
Hinh minh hoa Dinh Truong Chinh
Hình minh họa: Đinh Trường Chinh


Nếu một ngày có hai mươi bốn giờ thì trong cơ thể em cũng nhốt đủ hai mươi bốn cái xương sườn. Một ngày kia, có thể gọi là giờ thứ hai mươi lăm, em gặp phải tai nạn làm gãy mất một cái xương sườn. Vào bệnh viện, chụp quang tuyến X và người ta ra tay giải phẫu, thò tay vào chỗ hóc hiểm để bắt tạm cho em một con vít bằng kim loại, hy vọng đôi ba tháng sau em thôi ca cẩm hát hò bản nhạc “chuyện một chiếc cầu đã gãy”.

 

Gọi giờ thứ 25 là vì nó đi ra ngoài dự kiến, nó đột ngột hiện tới gây ra bao thảm cảnh nằm mộng cũng chẳng ngờ. Cái iPhone của em văng ra khỏi hiện trường đến bốn thước, va vào lề đường trầy trụa, mặt kính rạn nứt, tuy vậy cảm ứng bén nhạy có ở màn hình chưa mất đi. Một người tốt bụng đã nhặt lên, có thể bà dùng nó để thử bấm số 911 trước tiên. Đang trong sở làm, anh buộc phải ngừng tay để trả lời một cuộc gọi thất thường xuất phát từ phía em nhưng vang bên tai là một giọng nói lạ, ngập ngừng, bối rối. Anh nhìn đồng hồ, còn hơn tiếng nữa mới khép một ngày cày bừa, tuy nhiên anh đã đến gặp thằng cai: Việc bất khả kháng, tao đành phải dông thôi. Ừ, có ở lại cũng đâu còn lòng dạ mà tập trung với công việc, hy vọng bạn ấy không đến nỗi nào, chúc may mắn.

 

Bà Lucie, người loan tin thất thường có nhắn gửi lời cuối: Tôi bấm số cầu may trong một loạt số vừa hiện lên, sẽ hoàn trả lại chiếc điện thoại này vào tay khổ chủ. Ambulance đang tới, có thể họ chở cô ấy vào bệnh viện Jean Talon. Anh nghe nhói đau một bên hông, anh nhớ câu chuyện thần thoại từng đặt điều “đàn bà được cấu thành từ một cái xương sườn của đàn ông”. Em bị nạn và anh chịu chung một nỗi đau lây lan.

 

Vì gần hiện trường xẩy ra tai nạn, xe cấp cứu tiện đường mang em vào nhà thương, nơi mà anh phải nương nhờ Google hiện lên bản đồ chỉ lối. Nói cho đúng thì khoảng sáu năm trước anh từng ngại ngùng đặt chân vào lãnh địa đó một lần, nơi treo cái dấu cộng màu đỏ thật to. Anh vào thăm một người bạn mang bệnh hiểm nghèo mà bác sĩ đã không dối lòng: Ông Nguyen còn ở chơi với trần thế này thêm đôi ba tuần nữa. Hôm đó anh mọc lên một ý nghĩ rồ dại, lý ra nhà thương nên dùng dấu trừ làm “logo”. Cộng là gộp thêm niềm đau? Trừ là soán đoạt lấy bớt niềm vui. Không ai đi vào chốn này mà mặt tươi mày tỉnh cả, kể luôn tới thằng đàn ông vừa nghe tin vợ tròn con vuông. Trước mắt hắn hiện đầy bao toan tính, rồi một hôm trái gió trở trời hắn sẽ nghe vợ hiền than: Ông trời bất công, sao chẳng cho đàn ông mang trước ngực một cặp vú đầy sữa!

 

Mất chừng mười phút, anh tìm ra nơi em nằm. Vạn bất đắc dĩ, sự bất khả kháng mới vậy chứ bình thường đó là thế giới riêng tư mà một người con gái luôn tìm cách che đậy, có thể dán tấm giấy trước cửa phòng: “Vô phận sự, miễn vào”. Chỉ duy nhất một đứa có phận sự: Thằng chồng. Anh muôn đời chẳng phải là chồng em. Và ông trời có công bằng khi tạo ra hai đứa thương yêu nhau mà chả đoái hoài gì tới sợi dây trói thân: Vợ chồng? Đó chỉ là danh xưng ở mặt pháp lý, chưa chắc những gì được hợp thức hoá, ghi vào sổ sách làm bằng chứng đều thơ mộng đáng quý cả. Giấy trắng mực đen, bút sa gà chết vẫn luôn kéo theo bao điều phiền toái nằm ngoài dự tưởng.

 

Em nằm trên giường, phòng có hai giường và hai tấm màn che chắn thế bình phong. Hiện tại “dậu mồng tơi” kia không định ra biên giới bảo bọc, cửa sổ cũng thế, mở toang cho nắng gió vào hoán đổi môi sinh. Hai cô y tá có phận sự chăm nom, anh nhìn qua gã hàng xóm của em, một chân bó bột và khúc thạch cao trắng được treo lên như con mực ống bị phơi khô, một ngày kia hắn ta sẽ biểu những đứa vào thăm mang bút ra để ghi lên đó ít nhiều cảm nhận về sự què quặt hắn phải hứng chịu. Đèn bắt trên trần rất sáng, mặt em xanh và anh rất muốn chải gỡ giúp em những cụm tóc rối. Hình như y tá vừa cho em uống thuốc giảm đau. Chăn mỏng đắp ngang bụng, chiếc áo rộng kỳ cục của bệnh viện khiến em rất gầy, anh đồ rằng người ta biểu em chớ nên mặc áo nịt vú hoặc chính họ đã cởi ra giúp em, vú thoi thóp chẳng tượng hình dưới tấm chăn có in tên nhà thương. Anh ngồi xuống chiếc ghế đặt bên giường, mắt em nhắm và anh ngại lay em ra khỏi cái hiệu ứng do thuốc thang vừa tác động. Trên đầu giường có ghim miếng giấy bọc nhựa: “Mỗi cái bàn phím đều thu giữ nhiều vi trùng, yêu cầu bạn rửa sạch tay trước khi tiếp xúc với bệnh nhân”. Lời nhắc nhở kia chắc chỉ dành riêng cho y tá, bác sĩ. Anh nhớ tới đoản văn vẫn còn dở dang đã ba hôm chưa tìm được thông lộ, anh ngó xuống bàn phím bày từng hàng mẫu tự q w e r t y u i o p… nó có là nơi cho vi trùng ẩn náu? Chưa khi nào anh rửa tay sau khi đóng gập cái laptop lại. Tay anh đút túi quần khi đi tới chỗ hẹn hò em vừa cho hay địa chỉ, thường là một hàng quán cà phê. Anh vẫn tin rằng, ngồi cả giờ bên em, chia tay xong, khi trở về sẽ tìm ra lối thoát cho những con chữ đang bị dồn vào cul de sac.

 

Anh tôn trọng em nhưng bà y tá thì không, bà sẵn lòng đánh thức cũng như độ lượng trao cho bệnh nhân vài viên thuốc ngủ. Không ai có quyền hờn oán đến “mẹ hiền” cả, đơn giản vì họ tận tuỵ và quan ngại đến sự an nguy của bạn. Phải cảm ơn họ mới đúng. Em không cảm ơn thì anh sẽ nói merci. Em mở mắt ra. Bà y tá nói khi lôi một cánh tay em ra khỏi tấm chăn: Tôi đo huyết áp, chừng mười phút nữa cô sẽ có buổi ăn tối. Thấy bớt đau chưa? Tốt lắm. Bà ghi những con số vào tờ giấy kẹp dưới chân giường. Và em nhìn thấy anh. Tròng mắt em loáng ướt như trong mơ em vừa đi băng qua một độc đạo ngập mưa lũ. Một đôi mắt anh chưa từng thấy nó rơi lệ, gần em là đón nhận toàn những điều vui thú. Em có vẻ cứng rắn kể cả lúc người ta buộc phải mềm lòng. Em xa nhà từ nhỏ, từ vùng cô quạnh đi xe đò băng đồng vượt suối tới thành phố này kiếm việc làm, tự lực cánh sinh. Một kẻ như vậy, thứ hành trang cần trang bị trước tiên là sự can đảm. Can đảm đánh rơi những uỷ mị. Anh giống em chỉ một nửa, ở cái khoảng làm đứa xa nhà, ở đậu. Nửa khác biệt với em là anh chưa học được chút cứng rắn nào cả. Nếu chai lỳ anh đã không tìm tới với chữ nghĩa, với văn chương, với những trang viết đa phần xiêu đổ nhiều than thân trách phận. Anh phân bua cùng em mà em nào tin: Chúng ta giống nhau để hiểu nhau và khác nhau để bù đắp cho nhau. Câu nói đó của một văn sĩ anh quên tên mà khi đón nghe em hiểu duy một điều: Khác giống giữa đực, cái, nam, nữ. Một tháng, em dành ra hai bữa để làm tình cùng anh.

 

Em thấy sao? Thấy người nhẹ như mặt đất thôi còn sức hút. Thuốc tê vẫn chưa tan và morphin vẫn còn ngăn chận cơn đau. Khi anh về, hãy tạt qua chỗ em lấy giúp ít áo quần lót để thay, vài đôi vớ, bàn chải đánh răng… sớm mai mang vào cho em, có được không? Chìa khoá nằm trong xách tay, hình như họ cất vào cái tủ sắt ấy. Mấy giờ rồi anh? Sáu giờ rưỡi. Anh mở cánh cửa tủ có đánh số, dành cho chủ nhân nằm giường 725A. Áo quần và vật dụng cá nhân đều dồn vào một cái túi ny-lông có ghi tên Debbie bên ngoài. Anh mó tay vào lục lọi, anh ngửi mùi hương quen thuộc từ đó xông lên.

 

Một người mặc trang phục của bệnh viện, đầu tóc tóm gọn trong cái nón ny-lông xanh đẩy chiếc xe chứa từng khay thức ăn dừng lại trước cửa. Khuôn mặt không phấn son cố làm bộ tươi tỉnh khi mang buổi cơm chiều vào. Bà dùng một tay điều chỉnh cái bàn ăn sao cho thật đúng vị trí rồi đặt khay nhựa xuống đó, xong thì dùng chân để điều khiển chiếc giường thay đổi vị trí, nâng người em lên, gập lưng cho vừa tầm. Bà ngó anh như thông báo, chỉ có vậy, phần còn lại mày hãy giúp cô ấy tìm được sự thoải mái khi nuốt trôi thực phẩm nhiều sinh tố, chóng tiêu hoá.

 

Anh mở nắp nhựa úp trên dĩa: Khoai tây nghiền đứng kề một hòn thịt băm chen cài với bốn năm cọng đậu đũa luộc nhừ. Trên khay có chén súp còn bốc khói, bánh croissant nhỏ và một cốc nước trái táo. Chưa bao giờ, đây là lần đầu tiên trong đời anh đút thức ăn cho một kẻ khác. Ơn đền oán trả? Dù chẳng tiết ra sữa, Debbie từng cho anh ngậm lấy vú. Khi đó anh nhớ tới mẹ mình, anh bất hiếu ở chỗ là đã khuấy quên hình dáng cái bầu sữa mẹ già. Có no tròn? Có hồng hào? Có thơm mát? Có sự khác biệt nào giữa cấu trúc ta và tây?

 

Rất khéo tay, anh chu toàn công việc êm ru bà rù. Tên hàng xóm bị treo giò bên kia giường nhìn anh với tia mắt đong đầy sự ganh tị, hờn ghen các thứ, hoặc tủi thân do đang cô quạnh mình ên. Cô y tá mang thuốc vào cho em, một cốc nước, một ly giấy đựng bốn viên xanh đỏ trắng vàng. Cô giải thích, cái này chống nhiễm trùng, cái này giảm đau, cái này chống táo bón, cái này giúp bạn ngủ yên. Có thấy buồn tiểu không? Cô khom lưng lấy từ dưới giường ra cái thau hình dáng lạ thường rồi vén chăn đút nó dưới mông em. Anh nhìn thấy một vùng da thịt trắng muốt, ở đâu đó phía bên kia hẳn là nơi đang bưng bít vết mổ dài 15 phân được đậy đệm bằng bông băng. Em nói, thôi anh về đi.

 

Anh nghe lời. Anh về “con đường xưa anh đi vàng lên mái tóc Debbie ngõ hồn không tái tê”. Trước, anh nhấn chuông, anh gõ cửa. Nay, anh ung dung với chiếc chìa khoá, tuỳ nghi mở đóng. Sylvie, cô bạn chia tiền phòng góp gạo nấu ăn chung đang lui cui cùng bếp núc lấy làm ngạc nhiên khi thấy anh bước vô. Sylvie chỉ mặc quần lót với lại xú-chiên, cô hơi hoảng nhưng kịp trấn tĩnh vì cái nồi đang bị lửa táp gần bỏng khét. Mùi thơm quá. Anh phát biểu cảm tưởng, tính nấu spaghetti hả? Ừa, con Deb đâu? Deb bất cẩn bị xe đụng hiện nằm nhà thương, giao chìa khoá cho tôi về tìm vài món bới xách cho bạn ấy. Tôi thế Deb có được không? Mon Dieu, nó bị nặng lắm không? Ờ, ở lại ăn cùng tôi cho đỡ buồn. Gãy xương, bệnh viện đã tìm cách chắp nối lại, dự tính phải nằm trong đó cả tuần lễ. Tội nghiệp. Nằm bệnh viện nào? Dắt tôi vào thăm với nhé. Phải luôn xáo tay kẻo nó cháy dưới đít, coi giúp để tôi mặc lại áo quần ngó cho tử tế. Vậy là tử tế rồi, có đâu như Debbie giờ này chỉ có chiếc áo choàng kỳ cục che không kín người. Sylvie cười, không dám đâu, hổ ngươi lắm, thà mà bạn gái với nhau.

 

Không cất công mở youtube ra học hỏi gia chánh, chỉ mua nguyên vật liệu có sẵn bán đầy chợ, tôi chỉ thêm chút thịt xay, thêm chút hành tỏi, chút muối đường, sợi thì vừa trụng xong. Thích ăn cùng lát mì có trét bơ không? Tương đối thôi, chẳng có lắm thời giờ. Hồi nào quởn bày tôi cách nấu phở đi. Ngày mai chứ hồi nào nữa, vào thăm Debbie xong chúng ta cùng đi chợ Á đông, bạn phải đứng sát tôi, nhất nhất cử động đều phải nhìn ngó, nhập tâm. Thực sự thì chẳng có gì nhiêu khê đâu, Debbie từng đùa là nếu có tiền chúng tôi sẽ mở một quán bán phở.

 

Hai đứa ngồi vào bàn, thưởng thức món ăn Ý, truyền thống hay không thì chẳng rõ. Ăn cho có, ăn để sống chứ không phải sống để mà ăn. Đã sống thở thì đời bày ra chán khối việc để lo toan, để đối đầu, để giải quyết dù bụng đang đói meo. Có thực mới vực được đạo lại là chuyện khác. Ăn no bò cỡi cũng vậy. Nói cho cùng tận thì ăn là động từ khẩn thiết, chiến tranh xẩy ra cũng vì miếng ăn. Ăn cũng là một thứ triết lý chẳng bao giờ già cỗi, lạc hậu. Miếng ăn là miếng tồi tàn. Ô kê, đừng tranh cãi thêm cho nhọc sức. Anh ngồi vào chiếc ghế lệ thường có Debbie đặt đít, cách vuông bàn hẹp anh thấy rõ những nhịp tim rung động trên ngực mát mẻ của Sylvie. Vòng một của cô ấy lớn hơn Debbie, điều này khẳng định được là nếu sinh con đẻ cái, mấy baby nọ hẳn phải bụ bẫm lắm. Kinh nghiệm cá nhân? Mẹ anh gầy nhom nên anh khẳng khiu cả xương chẳng mấy có thịt, đi đến trường học bạn bè đặt cho danh hiệu: Thằng ni đại diện cho hãng sản xuất tăm tre xỉa răng. Anh bú sữa bình nhãn hiệu Hột Xoàn, xong đổi qua măm sữa Con Chim. Rồi chơi sữa Ông Thọ, cứ cầu âu vậy mà thân thể chẳng tráng kiện một mảy may. Mẹ anh nói “bị cái tạng nó vậy” chứ sức nó ăn thì khiếp lắm, mỗi bữa ba bốn chén cơm vung cũng chưa nhằm nhò. Nói tội trời, mấy đứa mập mạp dễ sinh bệnh hơn là mấy thằng rọm rơ như hắn. Đặt lưng xuống là ngủ quên trời quên đất.

 

Thời còn bé cơ, dạo còn ngây thơ cơ. Chứ giờ này nương nhờ vào “bơ thừa sữa cặn” phương này thì trông cũng có da có thịt như người ta. Người ta thông thoáng thì hắn cũng biết nghía, biết thèm thuồng, biết háu ăn, biết săm soi một cách kín đáo, biết đè nén và trấn nước nỗi dục vọng thầm kín, chết chìm. Hắn từng đọc ở đâu đó một lề luật chẳng in thành văn bản: Chơi với bạn mà tơ tưởng đến bạn của bạn là một tội trạng khó tha thứ. Vắng chủ nhà gà mọc niêu tôm? Con cá từng bắt đang nằm ngáp, vậy có nên bắt thêm con cá đang bẹo hình bẹo dạng bơi lội thoải mái kia?

 

Là người tử tế, ăn xong anh dành phần rửa chén dĩa. Anh mở những ngăn tủ, chỉ thấy lọ cà phê hoà tan, chỉ thấy trà đóng gói, những thứ mà với anh có chết khát cũng không uống. Đã vậy còn chú thích hàng chữ bên ngoài “caffeine free”. Chẳng có gì kỳ cục bằng đi nhậu, đi phá mồi mà lựa toàn mấy món giả chay. Đã thò chân xuống sông để lội qua bờ kia mà vẫn ngại bùn vấy bẩn?

 

Anh vào phòng Debbie. Rõ là người ta chẳng thể nào biết trước những gì đang chờ chực ở thì tương lai để hiện tại nên bỏ công tập vén khéo. Bừa bộn, bầy hầy, vung vãi, xộc xệch mọi thứ. Một người con gái sống đơn thân thì không việc gì phải tập ngăn nắp, thứ lớp? Vậy chứ người con gái đó trước khi đi ngủ vẫn tiêu tốn chút thời gian để rửa mặt rửa mày, thoa kem, chải tóc. Chi vậy? Để nhỡ có gặp ai trong mơ, họ nhìn ra dung mạo mình không đến nỗi tệ! Trong mơ, anh từng bắt gặp Debbie nhưng cô chỉ phát quang từ ngực trở xuống, anh thức giấc trên giường với bao hối tiếc về giấc mộng đã chẳng đi hết đường. Không phải ác mộng, nhưng luôn luôn nó y như một câu chuyện chẳng có hậu.

 

Anh máng những gì vương vãi dưới sàn lên thành ghế, mớ áo xống hỗn độn trên giường thì dồn chúng vào trong cái rá nhựa; xong thì vật mình xuống tấm nệm. Đã hai năm, chừng như nệm vẫn chung tình ở sự đàn hồi đáp trả khi hứng chịu sức nặng của người nằm đè. Anh và Debbie đã đi vào cửa hàng Ikea của Thuỵ Điển để lựa mua, họ quảng cáo tuổi thọ của nệm là mười năm, bạn sẽ hài lòng vì kẻ nằm bên có vặn vẹo trăn trở cách gì thì nó chẳng lây lan độ rung sang chỗ bạn đặt lưng, êm ru bà rù, mộng đẹp là cái chắc!

 

Ngọn đèn nhỏ trên đầu nằm đủ soi tỏ những tấm ảnh Debbie dán tuỳ tiện ở vách, đa số đều chụp lấy thứ quang cảnh ở quê cũ, một thành phố biển chẳng lấy gì làm sầm uất nhiệt náo dẫu là vào hè, mùa đông nó biến thành những cánh đồng tuyết ngập giá băng. Tám tuổi đứng bên mẹ. Mười hai tuổi quàng vai bá cổ với người bạn trung học. Mười sáu tuổi mặc đồ tắm nghịch nước với cậu bạn trai đầu đời… Những tấm ảnh đã ố vàng, những chặng đời lớn lên được ghi nhận đi kèm với tàn phai. Đã xẩy ra điều gì không vui khiến Debbie quyết định từ bỏ nó, cô lên phố rậm rật này tìm cách sống và cô từng hỏi về quá khứ anh: Làm sao bạn sống qua với những ngày đầy khói lửa của chiến tranh? Rồi hoà bình, sự bạc ác nào buộc bạn phải làm đứa vô tổ quốc? Anh thua thiệt, so với Debbie, ngay cả thứ nhỏ nhặt nhất là anh chẳng có lấy một tấm ảnh ghi nhận về thời bể dâu. Anh trắng tay, trắng tận cùng của chữ trắng. Sạch bong, lạnh giá như màu tuyết.

 

Buồng phổi anh đang điều hoà với không gian nhốt ngập hương mùi riêng biệt của Debbie. Hình như Sylvie đang chiếm ngự phòng tắm, tiếng nước chảy như cơn mưa rơi ở tận phương xa len lỏi đổ xuống giấc ngủ khó cưỡng chống, anh ngó tới cái MacBook Air của Debbie đặt trên bàn nhưng anh chẳng biết password để vọc tay vào lục soạn. Anh nhìn cái nịt vú móc ngang thành ghế và rồi mắt anh từ tốn đóng lại.

 

Nhà có ma. Anh nghe tiếng Sylvie thoảng nhẹ bên tai. Đồ đạc bọn tôi thỉnh thoảng bị xáo trộn dời đổi. Và rồi hôm nay thì Debbie bị xe đụng. Hồi nãy đứng tắm, sống lưng tôi nghe lạnh như kiểu có ai nhìn trộm. Có thấy người tôi đang run lên không? Tôi vừa khoá cửa lại, đêm nay tôi sẽ ngủ chung với anh trong phòng này, anh tin chuyện ma không? Sylvie choàng tay qua ôm siết lấy thân anh, da thịt cô có thể đang nổi ốc, mát lạnh như một cây kem đang tan vữa. Anh nhớ khúc phim về người Eskimo sống trong hầm nước đá, để chống lạnh họ cởi trần để ôm cứng lấy nhau, bu như sam. Có thể anh chưa bị lôi ra khỏi cơn mê, anh tự cởi áo quần mình trong vô thức. Anh ôm lấy Sylvie, nín thở để phát hiện thân nhiệt hai đứa vừa giao hoà nhau, vây bọc lấy nhau, ấm dần ấm dần cho tới nóng lên. Nóng đến độ cơ thể phải chảy nước. Sylvie nói: Em la lên nghe, biểu tỏ cái sướng để xua đuổi tà ma. May mà tối nay có anh, em không quen sống cu ki một mình trong căn nhà lạnh.

 

Anh thức dậy, mặt trời thập thò sau màn cửa sổ. Ngọn đèn trên đầu nằm chẳng có ai mó tay, chừng như nó thức suốt đêm. Cơ thể và tứ chi nghe rã rời cơ hồ năm canh đã bơi qua mặt sông rộng. Chăn nệm nhăn nhàu, con ma trong nhà đã bỏ đi, hết ôm hết bấu víu hết mè nheo lấy anh. Thường thì ma không dại để hiện hình giữa thiên thanh bạch nhật? Anh vào phòng tắm làm vệ sinh qua loa, chùi rửa thật kỹ một cái bàn chải đánh răng để đút vào mồm cọ xát cho bọt kem đầy tràn, suýt nhợn ói. Hôm nay thứ mấy? Có thể Sylvie đã đi làm. Sự lặng yên trong căn nhà khiến anh hồi hộp, gây thứ cảm giác khó chịu. Anh dồn những vật dụng cá nhân mà Debbie căn dặn vào trong cái túi xách có in thương hiệu một siêu thị chuyên bán sản phẩm Organic. Bạn hãy chọn ăn lấy những thứ không bị ngâm tẩm hoá chất độc hại, bạn sẽ trường thọ ngoại trừ bạn ra đường không may bị xe đụng, ngoài ý muốn. Những đứa thập tử nhất sinh, nằm lặt lìa trên giường bệnh, hắn có mọc lên sự hối tiếc: Biết vậy tao đã ăn chơi không sợ mưa rơi, tao trả thù đời cho bõ kiếp người mãi cơ cực ép mình nghe theo bao điều răn vô bổ.

 

Chỉ qua một đêm, khuôn mặt Debbie xuống sắc thấy rõ. Em không ngủ được, một phần vì đèn sáng loà, vì nhiều tiếng động vang dội suốt hành lang. Em nghĩ tới chỗ nằm này, đã có biết bao cơ thể rời đi để biến thành hồn ma? Ngôi giáo đường ở phố cổ cũng có ma huống hồ là bệnh viện, phải không? Anh thò tay vào chăn để nắm lấy năm ngón lạnh, anh bóp nhẹ: Chỗ em thuê có ma thành ra em cứ ám ảnh tới thế giới vô hình nọ. Debbie nhăn mặt: Ai nói cái apt. ấy có ma? Bệnh nhân nằm giường kề cận ngóc đầu lên, hắn ngó anh với khuôn mặt thiếu máu. Cho dù là rơi vào tình huống tồi tệ nào chăng nữa, chuyện ma vẫn luôn thu cất sự hấp dẫn, lôi cuốn, muốn được đón nghe; và theo bình bầu chung thì ma quỷ phương Đông rùng rợn khốc liệt dữ dằn hơn quỷ ma phương Tây.

 

Debbie vọc tay vào cái túi xách kiểm soát xem những vật cần thiết nhờ anh mang tới có sơ sót hoặc thừa thãi. Cái gì đây? Anh lấy từ đâu ra? Nội y này là của con Sylvie mà. Đêm qua hai người đã làm gì nhau? Đầu gã “hàng xóm” càng lúc càng ngóc lên cao. Một đôi lúc chuyện ma cũng tầm thường thôi, không sánh được bằng chuyện ghen tuông mờ ám tình tiền tù tội. Đêm qua anh bị ma đè, anh nói đằng chỗ em thuê có ma là vì vậy. Con ma kia chỉ muốn trêu chọc hai ta, và cách duy nhất để chống chọi lại nó là khẩu quyết “đoàn kết thì sống, chia rẽ là chết”. Chưa gì mà anh đã thế, mai này tôi chống gậy tật nguyền cà nhắc thì anh tha hồ lộng hành tác yêu tác quái!

 

Y tá đi vào trong lúc bệnh nhân bà chăm sóc đang trùm chăn lên tận đầu. Bệnh nhân run rẩy tuồng như đổ lệ tủi hờn mãi ấm ức. Y tá nói nhỏ với riêng anh: Ông nên đi về thì hay hơn, khi người ta bị chấn thương ở thể xác, tinh thần theo đó cũng yếu đuối đi. Trong thời gian tĩnh dưỡng này, khóc lóc là điều cần tránh, đêm qua anh John nằm giường bên có kể chuyện và cô Deb đã hưởng ứng bằng những nụ cười, theo tôi đó là phương thuốc chớ nên gián đoạn. Hiểu ở mặt nào đó, Deb và cá nhân tôi vô tình đã mang ơn anh John.

 

Anh bước ra khỏi bệnh viện, nhớ là đã hơn hai mươi bốn giờ qua miệng lưỡi chưa được thưởng thức một cốc cà phê. Anh tìm tới Starbucks, kêu một cốc đen đậm, nặng nhất mà cửa hiệu có bán. Nhấp môi hai bận thì chuông điện thoại đổ dồn trong túi áo. Tôi đây, đang ở đâu? Có nhớ không, là bọn mình  cùng đi chợ Á đông mua nguyên vật liệu xong thì về nhà chung tay ninh hầm món phở? Ô kê, tôi đang ngồi ở Starbucks, chỗ gần bệnh viện đấy. Ô kê, mười phút nữa tôi lại, see you. Nhớ đấy, quán chẳng có ai, sợ ma chết khiếp!

Trong điện thoại thông minh, sóng dồn đẩy âm lượng tiếng cười trong vắt của Sylvie, nghe sướng lỗ tai. Chỉ có ma nữ mới tạo được giọng cười áp đảo thần hồn như vậy. Anh từng ngồi xếp bằng dưới gốc cây bồ đề, mắt mở thao láo canh me bóng dáng ma nữ đầy phép thuật diễu hành qua. Giữa cuộc đời điên đảo này đây, chỉ có ma nữ mới cứu chuộc ta ra khỏi cảnh địa ngục. Debbie, e rằng em cũng tin điều anh trải lòng là cả một sự thật!

 

Hồ Đình Nghiêm

11 tháng 9, 2019

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi định cư tại San Diego đã ngoài bốn mươi năm qua. Vùng đất hiếm hoi khó có nơi nào sánh được: bởi chỉ nội trong một ngày lái xe quanh quẩn, người ta có thể đi từ biển lên núi, từ rừng xanh đến sa mạc, thưởng ngoạn đủ đầy hương sắc của đất trời. Sáng sớm thong dong bên vịnh Mission, mặt nước yên như tờ, hàng cọ in bóng trên nền sương mỏng. Trưa ghé Julian, nhâm nhi ly cà phê hay lát bánh táo giữa tiết trời lành lạnh và màu xanh thăm thẳm của rừng thông. Chiều về, con đường tới Borrego mở ra vùng sa mạc hoang vu, xương rồng rải rác trên nền đá đỏ. Suốt dọc hành trình đâu đó hiện ra vườn cam, vườn bơ, đồng nho trĩu quả giữa thung lũng nắng chan hòa. Cảnh vật thay đổi không ngừng, khi mộc mạc, lúc rực rỡ, nhưng vẫn hài hòa như một bản nhạc êm dịu của đất trời. Mỗi lần lái xe ngang qua, tôi cảm thấy mình như được nối lại với nhịp sống của đất, và lòng bỗng nhẹ nhàng lạ thường.
Nhà kho Walmart ở ngoại ô Dallas chiều 24 tháng 12 lạnh như cái tủ đông bị quên đóng cửa. Đèn neon trên trần sáng trắng, lâu lâu chớp một cái như mệt mỏi. Mùi nhựa mới, mùi carton ẩm và tí mùi dầu máy trộn lại với nhau, cảm thấy nghèn nghẹn như cổ họng khi nuốt tin xấu. Tôi đứng giữa hai dãy kệ cao ngất, tay cầm clipboard, tay kia nhét sâu trong túi áo khoác xanh có logo Walmart. Đồng hồ trên tay: 5:17 PM. Giáng Sinh, Walmart đóng cửa sớm lúc 6 giờ. Nếu rời đúng giờ, chạy bốn tiếng, trừ chút kẹt xe, tôi sẽ về đến Houston khoảng mười, mười rưỡi. Trễ, nhưng vẫn còn kịp thấy tụi nhỏ mở quà.
Khi những ngày tháng cuối của một năm đang dần hết, chúng ta thường có lúc bồi hồi nhớ về cố hương, về mảnh đất chôn nhau cắt rốn, hoặc nơi đã in dấu nhiều kỷ niệm đã qua trong đời. Và tôi cũng vậy, xin được nhớ về Gò Vấp, nơi có địa danh Xóm Mới, vùng ngoại ô không xa Sài Gòn, được nhiều người biết đến như vùng đất với nhiều dân Bắc kỳ di cư, nổi tiếng là khu Xóm Đạo, đã từng là nơi sản xuất pháo cùng với món thịt cầy (mộc tồn) lừng danh.
Ông từ người Papua New Guinea đón cha xứ mới người Việt Nam trước cổng nhà xứ. Dáng người ông từ khoảng chừng 30, khuôn mặt PNG nâu nâu đậm nét đăm chiêu, ánh mắt ẩn hiện nét hồi tưởng. Khi nhìn thấy cha xứ mới đang kiên nhẫn đứng đợi dưới mái hiên nhà xứ, nụ cười xuất hiện trên môi ông từ để lộ hàm răng trắng đều thường thấy nơi người bản xứ. Nhưng nụ cười ấy vụt tắt khi ông mở cửa, mời cha xứ lên xe. Ông từ nhanh chóng quay về lại trạng thái khô khốc khi chiếc xe cũ lăn bánh nhọc nhằn trên con đường đá sỏi gập ghềnh. Sau vài câu trao đổi xã giao ngắn gọn, ông từ lại chìm vào trạng thái im lặng. Thời gian trôi qua, năm phút rồi mà vẫn không ai nói thêm một lời nào. Cuối cùng cha xứ lên tiếng,
Giáo Sư Dương Ngọc Sum, với tôi, là hình ảnh tiêu biểu, đáng kính từ nhân cách, hiếu học, luôn luôn cởi mở, tính tình hòa nhã, thân thiện với mọi người. Ông định cư tại Hoa Kỳ theo diện H.O 3 vào tháng 7 năm 1990 (trước tôi một tháng, H.O 4) và cũng trải qua những giai đoạn thăng trầm trong tháng ngày tị nạn. Nhân dịp kỷ niệm Lễ Thượng Thọ 90 tuổi của GS Dương Ngọc Sum, nhà giáo và nhà văn, nhà thơ Dương Tử, viết những dòng về ông
Mấy chị em tôi chia nhau mua nhiều loại báo: Làng Văn, Thế Kỷ 21, Văn, Văn Học… chuyền tay nhau đọc. Tôi “quen” Thế Kỷ 21 đã lâu, nhưng chỉ là quan hệ... đơn phương. Vào những năm 90 của thế kỷ trước, tôi gởi bài đến tờ báo Măng Non, sau này đổi thành Văn Nghệ Trẻ của nhà văn Ngô Nguyên Dũng ở Tây Đức. Mãi năm 2003, tôi mon men vượt đại dương, tìm đến Làng Văn Canada. Được thời gian ngắn, anh Ngô Nguyên Dũng cho biết, báo Làng Văn phải đình bản, vì những khó khăn về tài chánh. Duyên văn nghệ của tôi với Làng Văn chưa kịp “bén” đã chấm dứt. Nghe chị Hoàng Nga “mách nhỏ”, tôi gởi bài đến Văn Học. Có lẽ địa chỉ hotmail của tôi bị nhầm là thư rác, junkmail, điện thư bị trả lại với lý do không giao thư được. Tôi vẫn tiếp tục viết, xếp trong “tủ”, lâu lâu đem ra đọc. Mỗi lần đọc, dặm thêm chút “mắm muối”.
Tôi học được cụm động từ “đi lăng quăng” của bố Sỹ vào những ngày còn học tiểu học. Sau giờ tan trường hay vào cuối tuần, thỉnh thoảng bố lại hỏi mấy thằng con trai: “Có đi lăng quăng không?” Dĩ nhiên là có rồi! Ngồi ở thùng xe phía sau chiếc Daihatsu, chúng tôi theo bố đi giao sách ở những tiệm sách, sạp báo ở trung tâm Sài Gòn. Cũng có khi chỉ là ra một công viên, chúng tôi được chạy nhảy, trong khi bố ngồi trên xe viết lách. Không rõ có bao nhiêu tác phẩm của Doãn Quốc Sỹ được viết trong hoàn cảnh này. Rồi cụm từ “đi lăng quăng” trở lại sau gần một nửa thế kỷ. Ở căn nhà Lampson thành phố Garden Grove, mỗi chiều tôi đi làm về ghé qua, bố đã ngồi đợi trước cửa. Thấy tôi đến, bố hỏi ngay: “Có đi lăng quăng không?” Thế là hai bố con bắt đầu hành trình “lăng quăng” đúng nghĩa, qua những khu dân cư ở gần nhà. Đi không có phải là để đến một nơi chốn nào đó. Đi chỉ để mà đi, để hai bố con có thì giờ ngồi bên nhau trò chuyện. 50 năm trước, bố chở con đi; 50 năm sau đổi ngược lại.
Buổi sáng cuối cùng ở Chamonix im lặng lạ thường. Suốt đêm qua, tôi đã để cửa sỗ mở toang, nên khi giựt mình thức dậy, ánh sáng trong suốt của núi tràn đầy phòng. Tấm mền len và drap giường trắng lóa như được phủ lân tinh. Không một tiếng động nào từ dưới đường phố vọng lên. Chỉ có hơi lạnh. Tôi nằm co ro và nghĩ đến ly cà-phê đen. Mùi thơm sẽ bốc lên cùng hơi nóng, rồi tan dần vào không khí. Giống như ký ức. Đôi giày đóng đầy đất bùn và gậy trekking đã xếp gọn gàng trong bao duffle cùng với áo quần đi núi từ đêm hôm qua. Chúng nằm bên cửa, sẵn sàng lên đường. Bên ngoài cửa sổ, rặng núi Mont Blanc vẫn kia, vẫn vĩ đại, vẫn trùng điệp, vẫn lặng lẽ xa xăm. Tôi nghĩ đến 11 ngày vừa qua và cảm thấy buồn buồn, làm như có điều gì tôi đã đánh mất, hay đã để quên trên ngọn núi kia, ở đâu đó, trong quãng đường dài tôi đã đi.
Năm nào cũng vậy, tháng 7 tháng 8, mùa mưa, mùa lũ lụt lại về trừng phạt quê hương Việt Nam. Từ rất xa xôi, người Việt khắp nơi thấp thỏm buồn rầu và lo sợ cho cảnh ngập lụt, bão tố hoảng loạn ở nhà, không riêng chỉ miền Trung mà cả miền Nam cũng lụt, miền Bắc và Bắc trung phần bị càn quét dữ dội do bão Bualo, rồi kế đến là bão Matno. Miền Bắc và cả thủ đô Hà Nội mưa bão trước chưa kịp khô, lại ngập nước, đường phố hóa thành sông do vỡ đập nước Lạng Sơn, nước sông dâng cao đỉnh điểm, tại thành phố còn có một số tổ chức cứu trợ, nhưng kẹt là ở các tỉnh miền cao, nước lên quá mau, đa số dân cư phải leo vội lên trú trên những mái nhà cao hơn. Cũng tại xả nước các đập thủy điện nữa v.v…
Đợi, và đợi. Có đến khoảng gần một trăm người xếp hàng đợi. Mới có năm giờ sáng thôi! Trời Đà Lạt đổ sương xuống nghe ướt tóc, ướt vai. Phòng bán vé còn đóng kín cửa. Sáu giờ mới bán vé. Biết vậy rồi, nhưng đám đông người này vẫn đến sớm chờ đợi. Chẳng qua là số xe có giới hạn, mình đến sớm mới mong có xe đi, nếu không thì phải về và trở lại vào ngày mai. Người ta nhìn nhau, như ngầm nói qua đôi mắt rằng đến sớm chắc ăn hơn. Mà không chừng có người đã ngủ đêm trước phòng bán vé để được xếp hàng phía trên cùng.
Tháng 7 trời xanh cao, mùa lên hâm nóng. Mặt đất nung nhiệt ngấm ngầm địa chấn, như muốn cùng người rung vang lời ngân quá khứ. Tháng 7 gọi về hàng phượng đỏ thắm rung rinh chùm nở, thứ lung linh ảo mờ, gần gụi mà xa thẳm, “mù không lối vào...” (TCS). Vang vang trong gió, lời trẻ thơ láng giềng vọng lại đùa vui tiếng nước...
Nếu Thanksgiving ở bên Mỹ mang màu sắc rộn rã chuẩn bị cho mùa Giáng Sinh, thì Thanksgiving bên Canada lại rơi vào Tháng Mười dịu êm, có đủ màu sắc nâu vàng đỏ của lá cây chuyển màu cuối Thu, với màu cam của những trái pumpkins cho lễ hội Halloween . Những ngày này, gia đình tôi chộn rộn với những đợt “thu hoạch” cuối cùng, chuẩn bị dọn dẹp vườn tược sạch sẽ trước khi mùa lạnh đang đến. Theo ý nghĩa nguyên thủy của Thanksgiving là Tạ Ơn đất trời cho mùa màng bội thu, thì năm nay gia đình tôi cũng xin được Tạ Ơn. Mấy cây táo và plum trúng mùa trĩu quả, hái mấy lượt vẫn không hết. Những quả plum tím căng mọng ngọt ngào, vừa đem tặng bạn bè, hàng xóm, vừa để đông lạnh ăn dần, mà vẫn còn mấy rổ tươi đầy ắp. Mùa táo, nhiều gia đình Việt Nam thích đem ngâm chua ngọt, trong khi những người bản xứ làm mứt táo, hoặc sên táo làm apple pie, một trong những món bánh khoái khẩu của nhiều người trong bàn ăn Thanksgiving bên cạnh pumpkin pie .


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.