Hôm nay,  

DÒNG ĐỜI

08/03/202010:06:00(Xem: 5510)


 Ông Dawson giơ tay ngoắc gọi:

 - Tim, mày làm ơn đi kiểm tra laị các mối giằng buộc và hệ thống máy hơi! Tao muốn tất cả phải bảo đảm tuyệt đối, không phải tao không tin mày, nhưng công việc là công việc!

 Tim trả lời:

 - Ok, tao đi kiểm tra đây, mặc dù tao đã biết là tất cả đã an toàn!

 Tim thông cảm với Dawson, nó làm quản lý vô cùng bận rộn, mọi việc đổ lên đầu nó, trên thì chủ la rầy, dưới thì nhân viên cứng đầu. Nó phải làm sao cho vừa lòng chủ mà cũng không phải căng thẳng với nhân viên. Mọi việc phải chính xác, nếu có sai sót gì thì nó là người đầu tiên chịu trách nhiệm. Công việc nó thật khó chứ chẳng phải chơi, ở cái xứ này việc an toàn là trên hết, phải lăn ra làm và chịu trách nhiệm việc mình làm, không có chuyện:”Tao tin ở mày!”. Nhớ năm kia có thằng bé chơi đu quay bị té, lỗi một phần ở thằng bé không chịu nghe theo chỉ dẫn. Ấy vậy mà ba mẹ nó đi thưa, bọn luật sư và bác sĩ làm hồ sơ gian để ăn tiền bảo hiểm, sau khi bồi thường xong đoàn xiếc tưởng chừng sạt nghiệp luôn. Ông chủ thương lượng với nhân viên:

 - Đoàn xiếc chúng ta cạn tiền vì vụ kiện, giờ mọi người thắt lưng buộc bụng, giảm lương và các khoản phúc lợi, bằng không thì đoàn xiếc chúng ta khai phá sản.”

 Đa số mọi người chấp nhận vậy để đoàn xiếc còn họat động, tuy có thằng Jackson D thì không bằng lòng:

 - Shit! lời ăn lỗ chịu, sao bắt tôi phải gánh? Hôm nay ngày cuối của tôi!

 Thế là nó ra đi, con Annie A- bồ thằng Jackson D ca cẩm:

  - Lương đã thấp còn giảm nữa sao sống nổi?

 Nó rời đoàn đi theo thằng bồ luôn. Hai đứa đi rồi, việc của nó những người còn laị phải làm bù trước khi tuyển người mới. Nhiều người bực bội vì vừa giảm lương mà laị thêm việc, tuy vậy vẫn phải cố đu theo đoàn vì chưa biết đi đâu. 

 Tim theo đoàn này đã mười lăm năm, cuộc sống rày đây mai đó, lang thang khắp góc bể chân trời, khi thì từ bờ Đông sang bờ Tây, khi thì từ miền Nam ngược lên miền Bắc, lúc thì về miền Trung Tây. Đoàn xiếc rong ruổi từ thành đô, thị trấn cho chí miền thôn quê heo hút, nơi thì năm ba tuần, nơi thì một hai tháng; đi tới đâu mang tiếng cười sảng khoái cho con nít ở đấy. Dân địa phương cũng thích thú với những màn xiếc tạp kỹ, các trò chơi rộn ràng, các gian hàng ăn uống, quà lưu niệm… tiếng loa quảng cáo, âm nhạc xập xình, đèn màu chấp chới…làm sống động một góc trời. Đoàn xiếc tạp kỹ nào cũng thế, không thể thiếu anh hề tóc vàng bù xù, cái mũi cà chua đỏ loét, cái miệng vẽ cười toét đến mang tai và đôi mắt buồn vô hạn; phải chăng đấy là dấu hiệu của cuộc đời? những tấn tuồng cười đó khóc đó của kiếp nhân sinh.

 Không biết nhân duyên gì mà Tim laị gắn bó với đoàn xiếc này, đôi khi tự nhủ lòng và cười thầm mà không biết phải trả lời sao. Sau khi học xong phổ thông, một lần tình cờ đi chơi và thấy đoàn xiếc tuyển người. Tim xin vào làm tạm thời, định bụng sẽ học tiếp hoặc xin một việc ổn định và có tương lai hơn, ấy vậy mà dính luôn đến tận bây giờ. Ban đầu chú Hai- ba của Tim cũng nghĩ là Tim làm tạm thôi, chứ ai laị theo đoàn xiếc lang bạt kỳ hồ như vậy, nhưng sau thấy Tim dính chặt với đoàn nên nhiều lần khuyên nhủ:

 - Con tìm công việc nào cho nó chính danh, có thu nhập và ổn định chứ theo đoàn xiếc hoài sao được? tương lai không có, người quen biết chê cười! 

 Tim im lặng chưa trả lời thì ông Hai laị nói: 

 - Dòng đời nghiệt ngã, người đời bạc lắm con! người thầy suốt đời dạy chữ cho người, khi nằm xuống không ai đọc cho một chữ. Người nghệ sĩ đem tiếng ca dâng cho đời, khi ra đi chẳng có ai hát cho một lời. Người làm trò suốt đời đem nụ cười tiếng khóc đến cho người, khi tàn hơi không có ai nhỏ cho gịot nước mắt. Người đưa đò suốt đời đưa người qua sông, đến khi mình qua thì chẳng có ai đưa…Con theo đoàn xiết rong ruổi như thế, rồi ngày mai sẽ ra sao?

 Bà Hai cũng càm ràm:

 - Con lớn rồi, tìm việc khác cho ổn định, còn phải lấy vợ sanh con, xây dựng tương lai… Con theo đoàn xiếc miết sao được! nhiều người quen của gia đình cứ hỏi thăm về con và họ xì xầm tiếng bấc tiếng chì. 

 Tim dạ dạ cho qua chuyện, một lần nghỉ phép về nhà. Ông bà Hai nói gắt quá,Tim bảo:

 - Con muốn sống tự do, cuộc sống của con như thế này cũng được, đừng bắt con theo cái lối mòn. Ba má thương con thì đừng ép con! 

 Ông bà Hai thôi không nói nữa nhưng trong lòng vẫn xót xa thương cho Tim:” Thằng nhỏ số long đong, cứ như dân du mục, không biết có bùa mê thuốc lú gì mà theo đoàn xiếc quanh năm.”

 Bạn bè Tim cũng cười cợt:

 - Sao không tìm một việc gì đó ổn định mà sống?

 Tuị nó giờ thành danh hết rồi, thằng Logan R làm văn phòng luật, thằng Carpenter J lấy bằng bác sĩ, thằng Keith J thì làm chủ tiện Nails, con Tammy N làm đaị lý bảo hiểm… nói chung tụi nó tiếng, có tiền trong cộng đồng. Con Tammy R bỏ Tim đã lâu, nó cặp với thằng Josh T- một đaị gia mua bán nhà cữa. Tim và Tammy yêu nhau suốt hai năm cuối phổ thông, sau khi Tim vào đoàn xiếc thì Tammy không hài lòng, nhiều lần cô ta bảo:

 - Anh tìm việc khác đi, theo đoàn xiếc người ta cười chết! 

 Tim không trả lời, hai tháng sau thì người ta thấy Tammy cặp kè với Josh. Thật tình Josh theo đuổi Tammy đã lâu nhưng ngặt nỗi lúc ấy Tammy còn yêu Tim. Tim biết tin nhưng  cũng không buồn. Anh biết chuyện phải thế thôi, cô ấy không có lỗi, nếu anh là cô ấy anh cũng sẽ làm thế. Làm sao một cô gái trẻ có thể sống với anh nhân viên đoàn xiếc, rày đây mai đó; tiền bạc và địa vị ai mà không ham, cho dù cái danh vị cỏn con là chủ tiệm nails hay văn phòng này nọ…Riêng trong tâm Tim thì chẳng may may có ý niệm gì về những cái danh vị ấy. Anh sống và hành xử như một chú bé, làm những gì mình thích, không màng chuyện khen chê của người đời, coi khinh những cái mà người đời tranh đoạt cho bằng được. Bởi thế trong nhà và bạn bè vẫn bảo:” Cái thằng xìu xìu ễnh ễnh, chẳng có chí tiến thân”. Từ khi Tammy bỏ, ban đầu cũng thoáng chút cô đơn, có lần sau đêm diễn. Tim cùng các bạn diễn vào quán bar trong thị trấn uống thả giàn, cả bọn hú hét tán thưởng những cô gái trần truồng múa cột, những tờ tiền xếp nhỏ nhét vào chiếc dây buộc ở bắp đùi và cánh tay các cô, đêm ấy Tim qua đêm với cô gái làng chơi trong lúc hứng khởi laị gọi tên Tammy. 

 Sáng hôm sau đoàn xiếc rong kéo về miền Cherokee, một trấn nhỏ bên bờ sông Cherokee, con sông nhỏ mà nước trong vắt. Ban ngày chưa diễn, Tim ra sông tắm, bọn con nít quanh đấy đang giỡn ầm ĩ cả khúc sông, chúng leo lên những cây sồi có nhành xìa ra mép nước rồi nhảy tùm xuống. Những chú bé con tóc vàng mắt xanh đẹp như những thiên thần, nghịch ngợm không kém những chú bé ngày xưa ở khúc sông quê Tim. Thuở ấy lên mười, Tim cùng lũ trẻ con trong xóm vẫn thường ra sông Hà Thanh  tắm, cả một trời kỷ niệm ùa về. Tim cũng leo lên cây sồi nhảy tùm xuống, vùng vẫy đã đời giữa giòng nước trong xanh. Tim nghĩ có tắm trong những bồn tắm sang trọng của khách sạn năm sao cũng không bằng tắm ở khúc sông này.Thằng Jack thấy Tim thân mật với tụi trẻ bèn nhắc nhở:

 - Tim, mày cẩn thận! đừng có quá thân thiện, không chừng ba mẹ nó thưa mày tội ấu dâm, quấy rối con nít là tàn đời đấy!

  - Cảm ơn mày, tao biết, tao vẫn giữ khoảng cách an toàn- Tim trả lời Jack 

 Ở cái xứ này việc gì cũng có thể thưa kiện cả, có những vụ kiện rất mơ hồ và vu vơ tỉ như: có bà uống cà phê, vô ý làm đổ trên đùi, thế là kiện vì cà phê nóng quá. Có người bất cẩn mà té, bèn kiện vì sàn siêu thị trơn. Có cô đi kiện chồng vì sau một thời gian chung sống bị hao mòn thân thể… Những vụ kiện không biết nên khóc hay nên cười đây? Có phải vì dòng đời như thế nên những anh hề luôn luôn vẽ mặt với cái miệng cười toe toét mà đôi mắt buồn đẫm lệ? 

 Ở cái xứ này quả là rất tự do nhưng đừng giỡn mặt với pháp luật, luật là lý không có chỗ cho chữ tình. Có những bộ luật to lớn đồ sộ, bao hàm cả thế giới, thậm chí vũ trụ như chiến tranh các vì sao, các tàu thám hiểm không gian… nhưng cũng có những điều luật vô cùng nhỏ nhiệm, chi li như:  gà không được gáy nhưng chó được sủa, cấm làm tình bằng miệng…( việc như thế làm sao mà biết, ấy vậy mà có luật hẳn hoi). Còn nhớ năm xưa, O.J. Simpson giết vợ, ấy vậy mà ra toà laị trắng án. Luật sư quá giỏi, tìm được kẽ hở của luật làm cho quan toà không sao kết án được. Simpson tránh được luật thế gian nhưng luật nhân quả thì không tránh được, chỉ chừng mươi năm sau thì Simpson từ giàu có trở thành nghiện ngập, trộm cắp và chết trong đói nghèo. 

 Tim theo đoàn xiếc rong ruổi bốn phương trên mảnh đất bao la này, gặp đủ hạng người, thấy nhiều cảnh đời. Nếu người phương Bắc: New York, Seatle… cao ráo, lịch lãm hơi lạnh lùng; người phương Nam: Alabama, New Orleans, Georgia… có vẻ cục mịch và bảo thủ hơn. Nếu người thành thị thì tính cách cởi mở, hào nhoáng, tiếp nhận những cái khác biệt về văn hoá, tôn giáo, giới tính… thì người nông thôn laị cực kỳ bảo thủ, nhất là những tay Mormons. Tim thấy mình như một loại chuối ruột trắng vỏ vàng, gốc phương Đông còn đấy nhưng đã pha quá nửa chất phương Tây. Sở dĩ Tim theo đoàn xiếc rong ruổi   đây đó cũng một phần ảnh hưởng từ những trang sách Đông phương, hình ảnh những hiệp khách giang hồ rày đây mai đó, trọng nghĩa khinh tài. Những ông tăng nơi thiền lâm thạch thất, cao sơn… vô cùng hào sảng, lãng mạn… kết hợp và hoà với hình ảnh các tay cao bồi Viễn Tây như anh chàng Lucky Luke; những tay nghĩa hiệp, cao thượng, hào hùng nhưng không kém phần lãng mạn, tài hoa! tất nhiên bọn họ rất tài giỏi và bản lãnh cao cường. Bởi thế mà người ta bảo:” Đông Tây hội ngộ”, hội ngộ ở đây, gặp nhau ở điểm này. Dòng đời thật không phải là những trang sách! Tim theo đoàn xiếc rày đây mai đó khắp bốn phương trời phần nào thoã cái chí xê dịch của mình, vừa được cái tự do nhiều nhất, không bị trói buộc bởi những khuôn phép sáo mòn, hình thức của người đời. Đoàn xiếc rong và những thành viên của nó như những người du mục của những thế kỷ xa xưa, vừa mưu sinh vừa thõa chí tang bồng

 Theo đoàn xiếc thật sự là ăn buị ngủ bờ, cơm chùa cháo chợ…Đoàn có bà Monica N- như một quản gia, quán xuyến mọi việc trong ngoài, lo việc ăn uống… Bà cao to, ăn to nói lớn tưởng chừng như thô tháo ấy vậy mà cũng rất nồng hậu. Khi mới vào đoàn, Tim không thích bà, có lần bà quát:

 - Bữa nào mày không ăn thì phải báo trước cho tao biết, tao sẽ không tính tiền bữa đó, bằng không tao sẽ tính! 

 Bà sòng phẳng đúng tính cách dân giang hồ, không nhưng nhị gì cả, tưởng chừng khô khan. Ấy vậy mà có lần Tim sốt li bì, bà mang một ly mật ong chanh nóng và mấy viên Tylenon đến, rờ trán Tim: 

 - Mày uống mấy viên Tylenon với ly nước này, ngaỳ mai sẽ khoẻ! 

 Quả thật vậy, hôm sau bớt sốt, từ đấy Tim nhìn bà Monica với một cái nhìn khác. Sau đó Tim kêu bà bằng mama, bà cười to, chỉ vào ngực Tim:

 - Tao không phải là má mì, tao là quản gia cho đoàn xiếc nhé! 

 Nói xong bà cầm ly Whishky tu một hơi cạn sạch, làm Tim laị nhớ về một bà già ở chợ quê ngày xưa. Khi Tim lên bảy, gần nhà Tim có bà Tư bán rau sống. Người ta kể chồng bà đi tập kết ngoài Bắc,  khi về đem theo một bà ngoài ấy về theo, sau đó họ đánh đuổi bà Tư ra khỏi nhà. Bà Tư phải sống nhờ ở góc chợ Bà Bâu, ngày ngaỳ bán rau sống. Mỗi ngaỳ hai lần, bà Tư cũng ghé quán bà Bảy để làm xị đế, bà laị hay nói liệu. Người xóm chợ thấy thế thường hay chọc ghẹo cho bà nói liệu lấy đó làm trò cười. Có nhiều người ác tâm bày con nít hốt ổ kiến lửa ném vào nơi bà ngủ. Tim thấy thương bà lắm nhưng không biết  làm sao giúp bà được cả. Bà Monica uống rượu như nước làm cho hình ảnh bà Tư uống rượu trong ký ức xa xưa hiện về. Từ lâu những chuyện cũ, những hình ảnh thơ ấu đầu đời những tưởng đã mờ nhạt, ấy vậy mà nay bất chợt hiện về. Tim laị gần bà Monica nói:

 - Cảm ơn bà rất nhiều bà Monica! 

 Bà nhìn vào mặt Tim:

 - Mày cảm ơn tao vì chuyện gì?

 Tim cười cười:

 - Cảm ơn bà vì mọi chuyện mà cũng chẳng vì chuyện gì cả! cảm ơn vì dòng đời thế thôi! 

 

TIỂU LỤC THẦN PHONG

Ất Lăng thành, 3/2020 

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi là người viết báo nghiệp dư. Từ khi khởi viết vào năm 1959, tay cầm viết luôn là nghề tay trái. Tôi sống bằng nghề tay phải khác. Cho tới nay, nghề chính của tôi là…hưu trí, viết vẫn là nghề tay trái. Tôi phân biệt viết báo và làm báo. Làm báo là lăn lộn nơi tòa soạn toàn thời gian hoặc bán thời gian để góp công góp sức hoàn thành một tờ báo. Họ có thể là chủ nhiệm, chủ bút, tổng thư ký, thư ký tòa soạn hay chỉ là ký giả, phóng viên. Nhưng tôi nghĩ người quan trọng nhất trong tòa soạn một tờ báo là ông “thầy cò”. Thầy cò ở đây không có súng ống hay cò bóp chi mà là biến thể của danh từ tiếng Pháp corrector, người sửa morasse. Morasse là bản vỗ một bài báo cần sửa trước khi in.
Sáu tuần. Nàng đã đi ra khỏi mụ mị từ trong mối tình hiện tại của mình. Cô bạn gái hỏi "Tỉnh chưa?". Tỉnh rồi, nhưng tỉnh không có nghĩa không yêu anh ấy nữa, chỉ là không còn mụ mị mê muội nữa thôi...
Trong bóng tối dày đặc, dọ dẫm từng bước một, hai tay vừa rờ vào hai bên vách hang động, vừa quơ qua quơ lại trước mặt, dù cố mở mắt lớn, chỉ thấy lờ mờ, nhiều ảo ảnh hơn là cảnh thật. Cảm giác bực bội vì đã trợt té làm văng mất ba lô, mất tất cả các dụng cụ, thực phẩm và nước uống cần thiết. Bối rối hơn nữa, đã rớt chiếc đèn bin cầm tay, mất luôn chiếc đèn bin lớn mang bên lưng và máy liên lạc vệ tinh có dự phòng sóng AM. Giờ đây, chỉ còn ít vật dụng tùy thân cất trong mấy túi quần, túi áo khoát và hoàn toàn mất phương hướng. Chỉ nhớ lời chỉ dẫn, hang động sẽ phải đi lên rồi mới trở xuống. Trang nghĩ, mình có thể thoát ra từ lối biển. Là một tay bơi có hạng, nàng không sợ.
Cô người Nha Trang, lớn lên và đi học ở đó. Cô sinh trưởng trong một gia đình gia giáo, mẹ cô đi dậy học, ông thân cô cũng là hiệu trưởng một trường trung học lớn ở Phú Yên. Năm 22 tuổi, cô học năm cuối đại học văn khoa Huế thì gặp gỡ chú Hiếu trong một dịp hội thảo sinh viên do các biến động thời cuộc miền Trung bắt đầu nhen nhúm. Chú Hiếu lúc đó đang theo cao học luật. Họ thành đôi bạn tâm giao tuổi trẻ, sau thành đôi uyên ương. Ba năm sau khi Trang vừa 25 tuổi, Hiếu đã nhậm chức chánh án tòa thượng thẩm.
Nhà trẻ kế bên bệnh xá. Trong góc một trại giam. Nhà trẻ có sáu đứa con nít. Bệnh xá có mấy bệnh nhân già. Coi bệnh xá là một tù nam nguyên là y tá ngoài đời. Coi nhà trẻ là một tù nữ án chung thân. Coi cả hai nơi ấy là một công an mà mọi người vẫn gọi là bác sĩ! Sáu đứa con nít đều là con hoang. Mẹ chúng nó là nữ tù bên khu B, đừng hỏi cha chúng đâu vì chúng sẽ không biết trả lời thế nào. Cũng đừng bao giờ hỏi mẹ chúng nó về chuyện ấy vì rằng đó là chuyện riêng và cũng là những chuyện rất khó trả lời. Thảng hoặc có ai đó được nghe kể thì lại là những chuyện rất tình tiết ly kỳ lâm ly bi đát… chuyện nào cũng lạ, chuyện nào cũng hay
Thăm nuôi năm thứ mười: trại Z30D Hàm Tân, dưới chân núi Mây Tào, Bình Tuy. Cuối năm 1985, mấy trăm người tù chính trị, trong đó có cánh nhà văn nhà báo, được chuyển từ trại Gia Trung về đây. Hồi mới chuyển về, lần thăm nuôi đầu, còn ở bên K1, đường sá dễ đi hơn. Cảnh trí quanh trại tù nặng phần trình diễn, thiết trí kiểu cung đình, có nhà lục giác, bát giác, hồ sen, giả sơn... Để có được cảnh trí này, hàng ngàn người tù đã phải ngâm mình dưới nước, chôn cây, đẽo đá suốt ngày đêm không nghỉ. Đổi vào K2, tấm màn hoa hòe được lật sang mặt trái: những dãy nhà tranh dột nát, xiêu vẹo. Chuyến xe chở người đi thăm nuôi rẽ vào một con đường ngoằn nghoèo, lầy lội, dừng lại ở một trạm kiểm soát phía ngoài, làm thủ tục giấy tờ. Xong, còn phải tự mang xách đồ đạc, theo đường mòn vào sâu giữa rừng, khoảng trên hai cây số.
Ông Hải đứng trước của nhà khá lâu. Phân vân không biết nên mở cửa vào hay tiếp tục đi. Tâm trạng nhục nhã đã ngui ngoai từ lúc nghe tiếng chim lạ hót, giờ đây, tràn ngập trở lại. Ông không biết phải làm gì, đối phó ra sao với bà vợ béo phì và nóng nảy không kiểm soát được những hành động thô bạo.
Vuốt lại tấm khăn trải giường cho thẳng. Xoay chiếc gối cho ngay ngắn. Xong xuôi, hắn đứng thẳng người, nhìn chiếc giường kê sát vách tường. Có cái gì đó thật mảnh, như sợi chỉ, xuyên qua trái tim. Hắn vuốt nhẹ bàn tay lên mặt nệm. Cảm giác tê tê bám lên những đầu ngón tay. Nệm giường thẳng thớm, nhưng vết trũng chỗ nằm của một thân thể mềm mại vẫn hiện rõ trong trí. Hắn nuốt nước bọt, nhìn qua cái bàn nhỏ phía đầu giường. Một cuốn sách nằm ngay ngắn trên mặt bàn. Một tờ giấy cài phía trong đánh dấu chỗ đang đọc. Hắn xoay cuốn sách xem cái tựa. Tác phẩm dịch sang tiếng Việt của một nhà văn Pháp. Cái va li màu hồng nằm sát vách tường, phía chân giường. Hắn hít không khí căn phòng vào đầy lồng ngực. Thoáng hương lạ dịu dàng lan man khứu giác. Mùi hương rất quen, như mùi hương của tóc.
Biết bao nhiêu bài viết về Mẹ, công ơn sinh thành, hy sinh của người Mẹ vào ngày lễ Mẹ, nhưng hôm nay là ngày Father’s Day, ngày của CHA, tôi tìm mãi chỉ được một vài bài đếm trên đầu ngón tay thôi. Tại sao vậy?
Hôm nay giống như một ngày tựu trường. Đơn giản, vắng một thời gian không ngồi ở lớp học, nay trở lại, thế là tựu trường. Ngày còn bé, mỗi lần nghỉ hè xong, lên lớp mới, trong lòng vừa hồi hộp vừa vui sướng. Có bao nhiêu chuyện để dành chờ gặp bạn là kể tíu tít. Nhưng bên cạnh đó là nỗi lo khi sắp gặp các thầy cô mới… Mỗi năm đều có ngày tựu trường như vậy, nói chung là khá giống nhau, trong đời học sinh. Nhưng cái ngày tựu trường này thật quá khác. Người ta nhìn nhau không dám cười, không dám chào hỏi. Sự e dè này, dường như mỗi người đã được tập luyện qua một năm. Một năm “học chính trị” trong cái gọi là hội trường mà tiền thân là cái rạp hát.
Cái tên Michelin không xa lạ gì với chúng ta. Vỏ lốp chiếc xe tôi đang dùng cũng mang tên Michelin. Sao hai thứ chẳng có liên quan chi lại trùng tên. Nếu tôi nói chúng tuy hai mà một chắc mọi người sẽ ngây người tưởng tôi… phiếm.
Phi là một người bạn đạt được những điều trong đời mà biết bao người không có. Là một tấm gương sống sao cho ra sống để chết đi không có gì hối tiếc. Là một niềm hy vọng cho sự tử tế vốn ngày càng trở nên xa xỉ ở nước Mỹ mà tôi đang tiếp tục sống.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.