Hôm nay,  

Chôn Súng

04/04/202010:45:00(Xem: 5894)

                                                                

                                      

Thiếu Tá Lê Hữu Nhân với giọng nói đều đều, có vẻ mệt mỏi vì mất ngủ, anh tự giới thiệu và nói về quá trình anh đi trình diện vào ngày ba mươi tháng Tư bảy lăm:

- Tôi là lính địa phương quân đóng ở Bến Tre trước bảy lăm. Tôi bị đưa đi tù cải tạo tận ngòai Bắc: Hoàng Liên Sơn rồi Lào Kai. Đầu năm tám mươi họ chuyển chúng tôi về Nghệ Tĩnh, Lý Bá Sơ. Cuối năm tám mươi tôi được ‘lệnh tha’ thuôc diện sức khỏe. Đi tù cải tạo ở ngòai Bắc nghề chính của tôi là sẻ gỗ. Tôi bị tai nạn cây đè, gẫy kín xương đùi trái…

Đoạn anh đưa tay phải lên cao choàng vai người bạn ngồi bên cạnh, rồi anh bảo:

- Nhờ đi tù cải tạo tận ngòai Bắc mà tôi được biết anh Phùng này đây. Chúng tôi ở cùng chung một trại từ Hoàng Liên Sơn…Nói đến đây, anh và anh Phùng, hai người ôm nhau cùng cười. Anh Phùng cảm động, cố nuốt nước bọt, giọng anh ngậm ngùi:

- Nguyên tôi là Đại úy, Lực Lượng Đặc Biệt, đóng ở Vùng Ba Biên Giới, tiếp liệu và liên lạc với bên ngoài hoàn toàn bằng trực thăng. Việt cộng dùng đặc công đánh úp đồn. Tôi bị bắt. Gia đình được khai báo tôi bị mất tích, xem như đã chết. Vợ tôi lãnh ‘tiền tử’. Khi bị bắt, tôi thuộc diện tù binh, nhưng đến bảy lăm cộng sản chuyển tôi sang chế độ học tập cải tạo. Năm bảy sáu họ chuyển tôi ra tận ngoài Bắc, nên mới được ở chung với ông thiếu tá Lê Hữu Nhân này đây. Khi cấp cứu anh Nhân bị gẫy kín xương đùi tại Lào Kai, có tôi. Chính ở Lào Kai tôi và anh Nhân hái được trái “mắc cọp”, trái cây quí của người Bắc. Xin lỗi anh em, tên nó nghe không thơm lắm, nhưng khi ăn không đến nỗi nào. Câu chuyện trái “mắc cọp” vì cái tên vô duyên của nó làm cho anh em tòan nhóm điều trị cười một trận.

Sau đó thiếu tá Nhân tiếp nối câu chuyện về anh:

- Sự thật thì cho tới năm bảy lăm tôi vẫn còn là tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 552 Địa Phương Quân, tỉnh Bến Tre. Bộ chỉ huy của tiểu đoàn đóng ở rừng Rạch Rợp, dựa lưng vào sông Ba Lai. Địa bàn hoạt động của tiểu đòan gồm 16 xã thuộc quận Ba Tri. Sau khi Tướng Nguyễn Khoa Nam tuẫn tiết vào đêm 30 tháng Tư bảy lăm, cũng như các sĩ quan của các đơn vị quân đội Vùng 4, chúng tôi buông súng và đi trình diện tại quận Ba Tri. Đến trình diện, thoạt tiên thấy cộng sản họ cũng tử tế. Họ đội nón tai bèo có, nón cối có, đến ân cần nói chuyện với các sĩ quan trình diện. Tất cả họ đều nói một câu mà hình như có ai dạy cho họ và họ thuộc lòng sẵn trong bụng. Họ bảo anh em chúng tôi: “Các anh phải thật thà, thành khẩn mà khai báo, đừng có khai man tên họ, lý lịch và chức năng của mình. Cách mạng có cái nhìn thấu suốt tam đại, tứ đại của các anh”. Một anh chiến binh cộng sản coi còn trẻ, chừng mười bảy, mười tám, đội mũ tai bèo, nói giọng Bắc, đến nhẹ nhàn hỏi tôi và ghi tên họ cùng chức năng Tiểu đoàn trưởng của tôi. Một ông sĩ quan của họ, đội nón cối và cũng người miệt ngoài đó, đến cúi xuống trên tờ kê khai lý lịch của tôi, đóng khung bằng mực đỏ chức năng Tiểu đoàn trưởng của tôi. Đoạn ông ta ngước ngược tròng con mắt lên nhìn tôi, cái nhìn sắc lạnh xuyên suốt cột sống tôi. Cái nhìn ghê rợn ấy có sức ám ảnh tôi. Mãi đến bây giờ đôi khi tôi vẫn nhìn thấy lại trong những cơn ác mộng. Nói thật với các anh em, lúc đó tôi đã thấy cái gì bất ổn cho riêng tôi…

Làm xong mọi thủ tục, họ bảo: “các anh ai về nhà nấy, và chờ lệnh gọi tập trung”.

Trên đường về nhà, tôi suy nghĩ thật mông lung. Tôi có cảm tưởng mình là con cá nằm trên thớt đang giãy dụa. Tôi gặp thượng sĩ Long đang chạy xe Honda. Nó là thượng sĩ già, kinh nghiệm, từng trải, trước sau như một, trung hậu với tôi. Tôi đem chuyện kể cho nó nghe. Nó có vẻ sợ cho tôi, nó bảo:

- Hay ông thầy về trình diện ở thị xã Kiến Hòa cũng không muộn. Ở đó có người có ta, chớ ở quận Ba Tri này, chỉ có ông thầy là lớn. Ngại lắm…

Tôi còn mãi cân nhắc, thượng sĩ Long vụt nói:

- Giờ này không còn ai dám chạy xe lôi xe lam rước khách cả. Được, tôi chở ông thầy đi Kiến Hòa bằng xe Honda của tôi.

Chỉ vỏn vẹn có 5 phút, nó ghé nhà cho vợ nó hay. Nó bảo tôi ngồi sau lưng nó, ôm nó thật chặt. Nó chở tôi một mạch về Kiến Hòa. Trên đường vảo thị xã  Kiến Hòa tôi gặp Trung tá Bùi Tấn Bửu mới hôm qua ông còn là Tham mưu trưởng Tiểu khu Kiến Hòa, bây giờ ông mặc thường phục, dân sự, chân mang dép, đang đi lẹt xẹt trên vỉa hè đường phố. Tôi liền đến trình bày với ông ta về sự thể của tôi tại Ba Tri. Ông ta hơi ngại cho tôi. Ông ta bảo:

- Ở quận Ba Tri không ai mà không biết anh. Thì cũng đành vậy thôi.

Lúc ấy trông mặt ông ta có vẻ căng ra. Mồ hôi rịn trên trán, ông vụt hỏi tôi:

- Quê anh ở Sa-đéc? Còn sớm chán, về ngay quê quán mình mà trình diện cho có bà con và cũng có vẻ thật thà hơn. Chớ ở Bến Tre này anh cũng biết ngại lắm, chính tôi cũng không biết thân phận của tôi ngày mai ra sao?

Tên Thượng sĩ già của tôi cũng chụp nói vào:

- Đúng rồi đó ông thầy. Tôi đưa ông thầy xuống phà, xong tôi bốc ông thầy lên ngã ba Trung Lương để ông thầy đón xe đò về bến phà Mỹ Thuận rồi thẳng về Sa Đéc nội trong ngày, trước hai hay ba giờ chiều nay.

Tôi bắt tay từ giã trung tá Bùi Tấn Bửu. Chúng tôi chưa hề bắt tay nhau ngỡ ngàng như vậy, không phải là lời chào vĩnh biệt, cũng không phải lời hẹn tái ngộ. Có gì bẽ bàng cho thân phận chúng tôi.

      

Ngã ba Trung Lương, một ngã ba sầm uất, nhộn nhịp của các tỉnh phía Nam Saigòn. Nó nằm bên này sông Tiền trên trục giao thông của các tỉnh thuộc đồng bằng sông Cửu Long. Nó nối liền đường về các tỉnh miền Tây, đường đi Mỹ Tho,Vĩnh Long, bến phà Mỹ Thuận, về Sa Đéc và Đồng tháp v.v…Cách nó không xa là căn cứ Đồng Tâm, Hậu Cần Quân Khu 4. Và cũng cách nó không xa là Bộ Tham Mưu của Sư đòan 7. Hôm nay, tại ngã ba Trung Lương, người qua kẻ lại có vẻ bối rối khác thường. Ai cũng có bộ mặt thản thốt, ngỡ ngàng. Những anh em binh sĩ quân đội Việt Nam Cộng Hòa mới hôm qua, hôm nay mặc đồ dân sự, chân mang dép, đứng nhìn sững sờ các chú lính giải phóng, đội nón tai bèo, lái xe jeep chạy tứ tung, vô kỷ luật. Họ không biết lái, họ húc phải người, tung cả quán hàng. Có xe bị lật bên đường. Có xe hết xăng bỏ ngay giữa con lộ. Nhìn lại, đó là những chiếc xe nhà binh mà các bộ đội giải phóng lấy tại căn cứ Đồng Tâm và Bộ Tham Mưu Sư đòan 7. Có người lính giải phóng đội nón tai bèo, đứng trên xe jeep la lớn bằng giọng Bắc Kỳ: “Đó là qui luật của chiến tranh”, và anh ta chĩa súng AK lên trời bắn đùng đùng. Tôi thấy buồn lắm. Buồn lắm các anh em…Mới hôm qua cả Quân Đòan 4 đều nắm vững tay súng, chủ động trên khắp chiến trường, làm chủ trong mọi tình thế. Đêm qua Tướng Nguyễn Khoa Nam tuẫn tiết tại Cần Thơ, cả Quân Đòan 4 sụp đổ. cộng sản chiếm cả Vùng 4 không tốn một viên đạn. Tôi cảm thấy mất mát quá nhiều. Tôi vô cùng xấu hổ khi thấy mình cải trang trong bộ đồ dân sự, chân mang dép. Tôi thấy thương mình vô hạn. Tôi còn trẻ. Tôi mới 32 tuổi, Tiểu Đoàn Trưởng! Cuộc đời binh nghiệp của tôi chấm dứt sớm và thê thảm như vậy sao? Tôi nghĩ đến Tú, vợ tôi. Tôi yêu Tú vô hạn. Tôi nhớ các con tôi. Có lẽ giờ này tất cả mẹ con đang ngóng mong tôi tại Sa Đéc. Cầm lòng không được, nước mắt dâng tràn…

     Không muốn để tâm tình xúc động của các anh em kéo dài, tôi bèn lên tiếng yêu cấu Thiếu tá Nhân tiếp tục câu chuyện từ ngã ba Trung Lương về Sa Đéc.

        Thiếu tá Nhân bậm môi, cố gắng lấy hết can đảm mới đủ bình tĩnh tiếp nối câu chuyện của mình:

- Như các anh biết, lúc đó xe chạy rất ít. Tôi có ý sợ không có xe về sớm để kịp giờ trình diện.  May quá lúc đó một chiếc xe nhà binh GMC cũng đang chạy trờ tới. Trên xe có mấy anh em bộ đội giải phóng đội nón cối, cũng có những người đàn ông đàn bà mặc đồ dân sự. Tôi liền đưa tay đón chiếc xe lại. Khi đến gần, họ ngừng xe lại, tôi thấy người tài xế lại là chú lính Việt Nam Cộng hòa. Tôi mạnh dạn hỏi lớn:

- Cho quá giang về phà Mỹ Thuận có được không?

Một anh bộ đội giải phóng, nói giọng Bắc la lớn:

- Nào! Lên đi nào. Khẩn trương lên. Trưa cả rồi.

Một cánh tay đưa xuống kéo tay tôi lên.  Khi bàn tay tôi chạm phải bàn tay anh, tôi thấy tay áo anh làm bằng vải kaki xanh Nam Định. Tim tôi se lại. Dưới màu kaki xanh Nam Định này, tôi đã nhiều lần nhìn thấy trên chiến trường những xác chết trẻ trung dưới hai mươi tuổi, trên ngực họ, trên tay họ hay trên lưng họ có xâm hàng chữ “Sanh Bắc, Tử Nam”.

      Xe chạy…chạy xa ngã ba Trung Lương. Mọi người ngồi trong xe đều im lặng. Hình như mỗi người đang theo đuổi những ý nghĩ riêng tư của mình. Ai cũng có vẻ ngỡ ngàng khi chạm phải mắt nhau. Xe chạy qua những thôn xóm quen thuộc tôi đã từng qua lại nhiều lần từ thuở thiếu thời, cắp sách đến trường gặp thầy, gặp bạn. Hôm nay nay trông quạnh vắng lạ thường. Trường học đóng cửa không một bóng dáng học trò, chợ búa tiêu điều không ai nhóm, nền gạch trơ, phất phơ mấy miếng lá chuối khô bay. Có lúc trên xe im phăng phắc. Hình như ai cũng đang chờ đợi cái gì. Sau những năm chiến đấu ồn ào với súng đạn, bây giờ tôi mới hiểu im lặng là cái đáng sợ. Nhất là cái im lặng sau cuôc chiến, cái im lặng chứa đầy tử khí, ngạo nghễ và phản kháng. Các anh bộ đội miền Bắc, có lúc cố gắng pha trò để đỡ buồn đỡ căng thẳng. Có anh nhái giọng Nam bộ, hỏi người trên xe: “Mần sao? Bà con làm một chuyến du lịch từ Rạch Miễu đến phà Mỹ thuận trên chuyến xe đò Cách mạng kỳ này chắc ‘dzui’ lắm hả”?

Câu pha trò của anh rơi vào khỏang không. Tôi gượng gạo, nhìn bâng quơ ra ngoài. Làng mạc ruộng vườn bao la một màu xanh rờn vắng bóng người nông phu, chỉ có những cánh cò bay lặng lẽ.

Chợt anh tài xế la lớn;

- Đến bến phà rồi bà con.

Tôi vội vàng cám ơn mọi người và nhảy xuống xe trước nhất. Một cánh tay cầm khẩu AK của anh bộ đội giăng ra chận tôi lại. Tôi hốt hoảng không biết xử trí như thế nào; nhưng với phản xạ

tự nhiên của người lính, bàn tay phải của tôi đã sẵn trong túi quần, lúc ấy ngón tay cái của tôi đã nằm sẵn trên khóa an toàn, và ngón tay trỏ của tôi lúc đó cũng đã sẵn sàng nằm trên cò của khẩu Colt 12 mà tôi lận rất kỹ trong người và nó sẵn sàng nổ!

Anh chàng bộ đội, nhấm ghiền đôi mắt lại, ngước cổ cao lên và la lớn:

- Ối giời! Chúng tôi đèo anh từ ngã ba Trung Lương đến tận đây, thì anh phải trả tiền chứ, sao lại cám ơn ‘không’ đâu có được?

Nói thật, lúc đó tôi mới lấy lại bình tĩnh. Tôi từ từ rút bàn tay phải ra khỏi túi quần có dính theo tờ giấy bạc 500 đồng đưa cho anh bộ đội và nói cám ơn anh ấy.

Trên đường tôi ngồi tiếp xe lôi về nhà, tôi nhớ lại câu nói của anh bộ đội:“Tôi đèo anh”, tôi cười một mình. Mãi sau này đi tù cải tạo tại miền Bắc tôi mới hiểu được nghĩa của chữ đèo. Chiến thắng Miền Nam, đối với các anh nhanh quá. Các anh ngỡ ngàng như còn trong mơ. Các anh chở chúng tôi trên chiếc xe hơi nhà binh GMC mà các cứ tưởng là các anh đang đèo chúng tôi trên chiếc trên chiếc xe đạp thồ trên con đường quê nào đó tại miền-Bắc-xã- hội-chủ-nghĩa.

 

Về đến Sa Đéc, trước khi đến nhà, đi ngang qua một công đất bỏ hoang, cây cối um tùm, có con lạch nhỏ, nước sâu đến gối và nhiều bùn. Tôi dừng lại, suy nghĩ một hồi…Tôi bước xuống đứng dưới con lạch. Bỏ tay vào túi quần, tôi từ từ tháo gỡ cây súng, kiểm soát khóa an toàn, cho nó rơi xuống trong ống quần, rơi thật sâu xuống con lạch nước. Tôi nghe cây súng rơi xuống đến mắt cá chân. Tôi dí bàn chân sâu vào trong bùn và rút lên từ từ. Cây súng, ngang mắt cá chân tôi rơi theo đúng vào lỗ bùn sâu. Bước lên khỏi con lạch, mang lại đôi dép, tôi đi hướng về nhà không ngoãnh mặt lại…

     Có một chút gì ân hận chua xót trong tôi. Hình như tôi vừa từ giã ai? Một người bạn? Một chiến hữu? Một khẩu súng?..Một thoáng buâng khuâng mơ hồ, tôi vừa bước qua ngưỡng cửa cuối cùng của cuộc đời binh nghiệp../.

 

Đào Như

Oak park, Illinois, USA

4-2001

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Ba chục năm trước, Bê đã bắt đầu sự nghiệp thể thao của Bê. Số là, Ba vừa học xong lớp chuyển nghiệp. Thời gian chuẩn bị thi cử, Ba dạy kèm cho một người bạn cùng lớp. Thi đậu, người bạn tạ ơn Ba một cặp vé Musik Konzert. Lúc đó, Bê ở trong bụng Mẹ đã hơn sáu tháng. Mẹ kể, Mẹ đang năm đầu ở đại học. Trời mùa đông, Mẹ đi học, mặc áo khoác dày cui. Bởi vậy, bạn học không ai biết Mẹ sắp sửa có em bé, chỉ ngỡ Mẹ hơi lên cân, zugenommen. Bác bạn của Ba có lẽ không dè vợ của bạn là bà bầu nên mới mời đi Rock Pop Konzert của ca sĩ Jennifer Rush.
Năm đó, 1999, miền Trung Việt Nam nhất là ở Huế đang chịu trận thiên tai bão lụt lịch sử lớn nhât từ trước cho đến thời điểm bấy giò. Trong hội chợ tết, người Việt ở đây San Jose vui Xuân nhưng không quên đồng bào ở quê nhà. Từng đoàn Hướng Đạo Sinh Việt Nam được phân phối nhiệm vụ cầm những thùng lạc quyên để quyên tiền cứu trợ. Đang lang thang trong hội chợ, hai em bé trong đồng phục Hướng Đạo chận tôi lại. Một trai một gái. Bé gái cao hơn bé trai non nữa cái đầu, chửng chạc nói “Chú ơi, ủng hộ đồng bào bảo lụt đi chú”. Trọn một câu tiếng Việt, tuy phát âm không trọn vẹn, nhưng khá rõ ràng. Tôi nhìn hai em, nhất là bé gái đang thắt cái nơ trên đầu cái nơ mầu đỏ! Tôi bỗng thấy lòng bâng khuâng man mác.
Qua sự giới thiệu của phụ huynh học sinh, chiều nay tôi có thêm học trò mới. Tuy tin tưởng vào người giới thiệu, nhưng tôi cũng có sự dè dặt thường lệ. Đây không phải là lớp dạy thêm bình thường, mà là lớp dạy kèm “Anh văn chui” tại nhà. Nếu bị bắt “tại trận”, tôi có thể bị đuổi việc (nhẹ) hoặc cả vào trại tù "miệt thứ" dài hạn như chơi. Tuy rất nguy hiểm, nhưng được sự “bảo mật” của học trò lẫn phụ huynh và nhất là khoản tiền thù lao rất hậu. Lương giáo viên cấp 3 lúc đó (1978-1979) mỗi tháng $70 đồng cộng nhu yếu phẩm, thì mỗi học sinh "dạy thêm" tôi nhận được $80/ tháng. Chỉ cần ba học trò là mỗi tháng tôi có thêm đến $240 đồng. Đối với giáo viên lúc đó không phải nhỏ! Cà phê cà pháo, cơm hàng cháo chợ cuối tháng vẫn dư tiền bỏ ống. Phần nữa, học trò lớp “Anh văn chui” của tôi thông thường chỉ vài ba tháng là “ra đi”, nên cũng thường xuyên thay đổi.
Vừa đi vừa ngắm lá vàng vừa suy nghĩ chuyện cũ mà đến nhà Sarah hồi nào hổng hay. Sarah mở cửa với nụ cười thật tươi, Lệ thấy ngay phòng khách những giỏ táo đầy ắp, Sarah giải thích: - Hễ cuối hè đầu thu là nhà tớ hái toàn bộ các trái táo ngoài vườn sau, một phần để sên mứt, phần sấy khô, và phần làm bánh táo nướng.
Nhà thơ Trần Mộng Tú gửi tới tôi bài “Mùa Hạ Đom Đóm và Dế Mèng” khi tôi muốn cùng các ông bạn đồng lứa tuổi trở về những ngày xưa thật xưa. Chị Tú hình như cũng cùng tâm trạng với các bạn không còn trẻ của tôi: “Tháng sáu, tôi đến chơi với anh tôi ở Virginia. Cái nóng rịn mồ hôi trên thái dương, và khó ngủ lắm, buổi tối, tôi với anh ra ngồi ở bực thềm, nói chuyện. Tôi bỗng thấy thỉnh thoảng có những chớp nho nhỏ như lân tinh sáng lóe lên rồi lại biến mất trong bụi cây thấp trước mặt, hỏi anh tôi, cái gì thế? “Đom Đóm” Tôi lặng người đi một lúc như nghe thấy ai nhắc tên một người bạn thân cũ, nó làm tôi xúc động. Xúc động một cách rất mơ hồ, chẳng có nguyên nhân gì cả, chỉ là cái tên của một loại côn trùng bé tí được gọi lên. Cái tên nhắc nhở một quê hương xa lắc, một dĩ vãng nằm dưới tấm chăn phủ dầy lớp bụi thời gian. Trong bóng tối, tôi ngắm những cái chấm lửa nhỏ nhoi, lóe lên rồi tắt ngóm với trái tim nôn nao trong ngực. Có đến cả hơn bốn mươi năm tôi không được nhìn thấy những đố
Tọa lạc trong vùng ngoại ô Saint Maur, kề bên là bờ sông Marne hàng hiên ngang cửa nhà chú, chú đổ đầy đất đen đất vụn phải đi mua từng bao ở siêu thị bán cây trồng đất mua chú đổ vào lưng một cái bac ciment rộng lớn chạy ngang hàng hiên nhà. Trong bac chú trồng đầy hoa vàng, hoa nở thì lớn bằng đồng 50 xu, có năm cánh y hệt mai vàng ở Việt Nam, lá xanh non to bằng bàn tay con nít 5, 3 tuổi. Lá cũng rất thưa, hoa rất đẹp, vàng trong như mai ngày tết. Khi nắng gắt, mầu vàng có đậm thêm tí chút, sáng hé nở, trưa ấm nở rộ. Chiều chiều hoa cúp lại ngủ, ngày mai sáng sớm lại mãn khai, thân cây hoa chỉ cao lắm là đến đầu em bé 5, 6 tuổi. Nên hoa và cây không che vướng tầm nhìn từ trong nhà ra ngoài trời. Chú Phương yêu quý những cây hoa đó lắm. Vun tưới thường xuyên. Hỏi tên hoa đó là hoa gì? Chú trả lời ngon ơ: Đó là hoa vông vang của Đỗ Tốn, Chúng tôi không nhớ và cũng không biết ông Đỗ Tốn là ai
Trong sự bồi hồi xúc động, tay bắt mặt mừng, họ được gặp lại để trò chuyện với những người họ hàng thân yêu, những bạn bè xa gần thân thiết, nhìn thấy tận mắt những làng xưa chốn cũ, nhớ lại những kỷ niệm êm đẹp từ thuở thơ ấu cho đến ngày tạm thời phải rời bỏ những nơi này ra đi, ôi biết bao nhiêu nỗi xúc động trộn lẫn niềm sung sướng vô biên, nói làm sao cho hết được.
Những yếu tố lôi cuốn du khách đi du lịch đến một đất nước bao gồm cảnh đẹp thiên nhiên, văn hóa, thành phố lớn với những lối kiến trúc độc đáo, cuộc sống sôi động, ẩm thực, hoạt động phiêu lưu, kỳ thú ngoài trời, những buổi hòa nhạc, thể thao, nghệ thuật, hay lễ hội, địa điểm hành hương tôn giáo, phương tiện giao thông, vấn đề an ninh và bình yên; trong văn hóa, yếu tố con người chiếm một phần rất lớn khiến du khách khi rời xa, vẫn lưu luyến muốn trở lại lần nữa.
Nếu quý vị độc giả nào đã đọc câu chuyện tình cảm éo le, oan trái tràn đầy nước mắt: "Thằng Cu Tí và Thằng Cu Tèo" và nếu quy vị nào chưa đọc, thì xin hãy mở Google.com sẽ thấy đế tài này thuật lại 2 vị cao niên về thăm VN để hưởng tuần lễ trăng thanh gió mát quê nhà, sau nhiều năm phải rời bỏ quê hương để sống tha hương ngàn trùng xa cách nơi đất khách quê người đi tìm sự tự do. Nay mới có dịp được quay trở về thăm quê cha đất tổ, đồng thời còn được thưởng thức những món ăn đặc sản quê hương
Tôi lắng nghe, ngạc nhiên nhiều hơn thương cảm. Một người như Tầm mà bị lường gạt về lãnh vực 'xương máu' của mình. Tôi có thể hiểu và cảm thông an ủi trong mọi hoàn cảnh đau buồn, thất vọng của người thân chung quanh. Nhưng tôi lại rất vụng về khi phải đề cập đến mọi giao cảm đối với những con số. Tôi không có duyên phận và chung đường với nó. Nên tôi chỉ biết yên lặng, chờ đợi.
Lúc xưa thật xưa, người Việt Nam ta có tục lệ bầy cỗ Trung Thu vào dịp tết trăng tròn tháng 8 âm lịch. Cỗ này thường để dành cho trẻ con, vừa vui Trung Thu, vừa ăn bánh vừa ngắm trăng tròn, sáng tỏ. Thường cỗ này gồm phần lớn là bánh Trung Thu, bánh dẻo bánh nướng và rất nhiều thứ trái cây, trái cây chánh là bưởi, bưởi hồng đào ngọt và tròn xoay như một vầng trăng. Ăn bưởi xong, có thể sâu hột trái bưởi, phơi khô đi sem sém, và có thể đốt hạt bưởi từng sâu như đốt nến, đèn cầy.
Tường Vi sinh ra lớn lên từ miền “quê hương em nghèo lắm ai ơi, mùa đông thiếu áo hè thời thiếu cơm”. Trước 1975, ba Vi có chức vụ lớn trong quân đội, làm việc tại Đà Nẵng cuối tuần mới ra Huế. Gia đình Vi ở bên kia bờ Sông Hương nằm trên đường Nguyễn Công Trứ, khu nhà vườn rộng mênh mông có bến sông sau, trước ngõ trồng hàng loạt hoa Tường Vi. Mẹ rất thích loại hoa này, nên đặt tên Vi giống loài hoa. Vi có bốn chị em gồm hai em trai (Vinh, Lộc) và gái út (Tường Như), Vi là chị đầu đàng. Năm 13 tuổi vì thi rớt nên phải học trường tư thục Bồ Đề đến năm lớp tám, ba Vi từ Đà Nẵng dẫn theo người thanh niên về Huế giới thiệu tên Sơn, ra Huế học đại học luật khoa, sẽ dạy kèm chị em, làm gia sư ăn ở trong nhà luôn. Vì tò mò hỏi mạ


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.