Hôm nay,  

Chôn Súng

04/04/202010:45:00(Xem: 5907)

                                                                

                                      

Thiếu Tá Lê Hữu Nhân với giọng nói đều đều, có vẻ mệt mỏi vì mất ngủ, anh tự giới thiệu và nói về quá trình anh đi trình diện vào ngày ba mươi tháng Tư bảy lăm:

- Tôi là lính địa phương quân đóng ở Bến Tre trước bảy lăm. Tôi bị đưa đi tù cải tạo tận ngòai Bắc: Hoàng Liên Sơn rồi Lào Kai. Đầu năm tám mươi họ chuyển chúng tôi về Nghệ Tĩnh, Lý Bá Sơ. Cuối năm tám mươi tôi được ‘lệnh tha’ thuôc diện sức khỏe. Đi tù cải tạo ở ngòai Bắc nghề chính của tôi là sẻ gỗ. Tôi bị tai nạn cây đè, gẫy kín xương đùi trái…

Đoạn anh đưa tay phải lên cao choàng vai người bạn ngồi bên cạnh, rồi anh bảo:

- Nhờ đi tù cải tạo tận ngòai Bắc mà tôi được biết anh Phùng này đây. Chúng tôi ở cùng chung một trại từ Hoàng Liên Sơn…Nói đến đây, anh và anh Phùng, hai người ôm nhau cùng cười. Anh Phùng cảm động, cố nuốt nước bọt, giọng anh ngậm ngùi:

- Nguyên tôi là Đại úy, Lực Lượng Đặc Biệt, đóng ở Vùng Ba Biên Giới, tiếp liệu và liên lạc với bên ngoài hoàn toàn bằng trực thăng. Việt cộng dùng đặc công đánh úp đồn. Tôi bị bắt. Gia đình được khai báo tôi bị mất tích, xem như đã chết. Vợ tôi lãnh ‘tiền tử’. Khi bị bắt, tôi thuộc diện tù binh, nhưng đến bảy lăm cộng sản chuyển tôi sang chế độ học tập cải tạo. Năm bảy sáu họ chuyển tôi ra tận ngoài Bắc, nên mới được ở chung với ông thiếu tá Lê Hữu Nhân này đây. Khi cấp cứu anh Nhân bị gẫy kín xương đùi tại Lào Kai, có tôi. Chính ở Lào Kai tôi và anh Nhân hái được trái “mắc cọp”, trái cây quí của người Bắc. Xin lỗi anh em, tên nó nghe không thơm lắm, nhưng khi ăn không đến nỗi nào. Câu chuyện trái “mắc cọp” vì cái tên vô duyên của nó làm cho anh em tòan nhóm điều trị cười một trận.

Sau đó thiếu tá Nhân tiếp nối câu chuyện về anh:

- Sự thật thì cho tới năm bảy lăm tôi vẫn còn là tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 552 Địa Phương Quân, tỉnh Bến Tre. Bộ chỉ huy của tiểu đoàn đóng ở rừng Rạch Rợp, dựa lưng vào sông Ba Lai. Địa bàn hoạt động của tiểu đòan gồm 16 xã thuộc quận Ba Tri. Sau khi Tướng Nguyễn Khoa Nam tuẫn tiết vào đêm 30 tháng Tư bảy lăm, cũng như các sĩ quan của các đơn vị quân đội Vùng 4, chúng tôi buông súng và đi trình diện tại quận Ba Tri. Đến trình diện, thoạt tiên thấy cộng sản họ cũng tử tế. Họ đội nón tai bèo có, nón cối có, đến ân cần nói chuyện với các sĩ quan trình diện. Tất cả họ đều nói một câu mà hình như có ai dạy cho họ và họ thuộc lòng sẵn trong bụng. Họ bảo anh em chúng tôi: “Các anh phải thật thà, thành khẩn mà khai báo, đừng có khai man tên họ, lý lịch và chức năng của mình. Cách mạng có cái nhìn thấu suốt tam đại, tứ đại của các anh”. Một anh chiến binh cộng sản coi còn trẻ, chừng mười bảy, mười tám, đội mũ tai bèo, nói giọng Bắc, đến nhẹ nhàn hỏi tôi và ghi tên họ cùng chức năng Tiểu đoàn trưởng của tôi. Một ông sĩ quan của họ, đội nón cối và cũng người miệt ngoài đó, đến cúi xuống trên tờ kê khai lý lịch của tôi, đóng khung bằng mực đỏ chức năng Tiểu đoàn trưởng của tôi. Đoạn ông ta ngước ngược tròng con mắt lên nhìn tôi, cái nhìn sắc lạnh xuyên suốt cột sống tôi. Cái nhìn ghê rợn ấy có sức ám ảnh tôi. Mãi đến bây giờ đôi khi tôi vẫn nhìn thấy lại trong những cơn ác mộng. Nói thật với các anh em, lúc đó tôi đã thấy cái gì bất ổn cho riêng tôi…

Làm xong mọi thủ tục, họ bảo: “các anh ai về nhà nấy, và chờ lệnh gọi tập trung”.

Trên đường về nhà, tôi suy nghĩ thật mông lung. Tôi có cảm tưởng mình là con cá nằm trên thớt đang giãy dụa. Tôi gặp thượng sĩ Long đang chạy xe Honda. Nó là thượng sĩ già, kinh nghiệm, từng trải, trước sau như một, trung hậu với tôi. Tôi đem chuyện kể cho nó nghe. Nó có vẻ sợ cho tôi, nó bảo:

- Hay ông thầy về trình diện ở thị xã Kiến Hòa cũng không muộn. Ở đó có người có ta, chớ ở quận Ba Tri này, chỉ có ông thầy là lớn. Ngại lắm…

Tôi còn mãi cân nhắc, thượng sĩ Long vụt nói:

- Giờ này không còn ai dám chạy xe lôi xe lam rước khách cả. Được, tôi chở ông thầy đi Kiến Hòa bằng xe Honda của tôi.

Chỉ vỏn vẹn có 5 phút, nó ghé nhà cho vợ nó hay. Nó bảo tôi ngồi sau lưng nó, ôm nó thật chặt. Nó chở tôi một mạch về Kiến Hòa. Trên đường vảo thị xã  Kiến Hòa tôi gặp Trung tá Bùi Tấn Bửu mới hôm qua ông còn là Tham mưu trưởng Tiểu khu Kiến Hòa, bây giờ ông mặc thường phục, dân sự, chân mang dép, đang đi lẹt xẹt trên vỉa hè đường phố. Tôi liền đến trình bày với ông ta về sự thể của tôi tại Ba Tri. Ông ta hơi ngại cho tôi. Ông ta bảo:

- Ở quận Ba Tri không ai mà không biết anh. Thì cũng đành vậy thôi.

Lúc ấy trông mặt ông ta có vẻ căng ra. Mồ hôi rịn trên trán, ông vụt hỏi tôi:

- Quê anh ở Sa-đéc? Còn sớm chán, về ngay quê quán mình mà trình diện cho có bà con và cũng có vẻ thật thà hơn. Chớ ở Bến Tre này anh cũng biết ngại lắm, chính tôi cũng không biết thân phận của tôi ngày mai ra sao?

Tên Thượng sĩ già của tôi cũng chụp nói vào:

- Đúng rồi đó ông thầy. Tôi đưa ông thầy xuống phà, xong tôi bốc ông thầy lên ngã ba Trung Lương để ông thầy đón xe đò về bến phà Mỹ Thuận rồi thẳng về Sa Đéc nội trong ngày, trước hai hay ba giờ chiều nay.

Tôi bắt tay từ giã trung tá Bùi Tấn Bửu. Chúng tôi chưa hề bắt tay nhau ngỡ ngàng như vậy, không phải là lời chào vĩnh biệt, cũng không phải lời hẹn tái ngộ. Có gì bẽ bàng cho thân phận chúng tôi.

      

Ngã ba Trung Lương, một ngã ba sầm uất, nhộn nhịp của các tỉnh phía Nam Saigòn. Nó nằm bên này sông Tiền trên trục giao thông của các tỉnh thuộc đồng bằng sông Cửu Long. Nó nối liền đường về các tỉnh miền Tây, đường đi Mỹ Tho,Vĩnh Long, bến phà Mỹ Thuận, về Sa Đéc và Đồng tháp v.v…Cách nó không xa là căn cứ Đồng Tâm, Hậu Cần Quân Khu 4. Và cũng cách nó không xa là Bộ Tham Mưu của Sư đòan 7. Hôm nay, tại ngã ba Trung Lương, người qua kẻ lại có vẻ bối rối khác thường. Ai cũng có bộ mặt thản thốt, ngỡ ngàng. Những anh em binh sĩ quân đội Việt Nam Cộng Hòa mới hôm qua, hôm nay mặc đồ dân sự, chân mang dép, đứng nhìn sững sờ các chú lính giải phóng, đội nón tai bèo, lái xe jeep chạy tứ tung, vô kỷ luật. Họ không biết lái, họ húc phải người, tung cả quán hàng. Có xe bị lật bên đường. Có xe hết xăng bỏ ngay giữa con lộ. Nhìn lại, đó là những chiếc xe nhà binh mà các bộ đội giải phóng lấy tại căn cứ Đồng Tâm và Bộ Tham Mưu Sư đòan 7. Có người lính giải phóng đội nón tai bèo, đứng trên xe jeep la lớn bằng giọng Bắc Kỳ: “Đó là qui luật của chiến tranh”, và anh ta chĩa súng AK lên trời bắn đùng đùng. Tôi thấy buồn lắm. Buồn lắm các anh em…Mới hôm qua cả Quân Đòan 4 đều nắm vững tay súng, chủ động trên khắp chiến trường, làm chủ trong mọi tình thế. Đêm qua Tướng Nguyễn Khoa Nam tuẫn tiết tại Cần Thơ, cả Quân Đòan 4 sụp đổ. cộng sản chiếm cả Vùng 4 không tốn một viên đạn. Tôi cảm thấy mất mát quá nhiều. Tôi vô cùng xấu hổ khi thấy mình cải trang trong bộ đồ dân sự, chân mang dép. Tôi thấy thương mình vô hạn. Tôi còn trẻ. Tôi mới 32 tuổi, Tiểu Đoàn Trưởng! Cuộc đời binh nghiệp của tôi chấm dứt sớm và thê thảm như vậy sao? Tôi nghĩ đến Tú, vợ tôi. Tôi yêu Tú vô hạn. Tôi nhớ các con tôi. Có lẽ giờ này tất cả mẹ con đang ngóng mong tôi tại Sa Đéc. Cầm lòng không được, nước mắt dâng tràn…

     Không muốn để tâm tình xúc động của các anh em kéo dài, tôi bèn lên tiếng yêu cấu Thiếu tá Nhân tiếp tục câu chuyện từ ngã ba Trung Lương về Sa Đéc.

        Thiếu tá Nhân bậm môi, cố gắng lấy hết can đảm mới đủ bình tĩnh tiếp nối câu chuyện của mình:

- Như các anh biết, lúc đó xe chạy rất ít. Tôi có ý sợ không có xe về sớm để kịp giờ trình diện.  May quá lúc đó một chiếc xe nhà binh GMC cũng đang chạy trờ tới. Trên xe có mấy anh em bộ đội giải phóng đội nón cối, cũng có những người đàn ông đàn bà mặc đồ dân sự. Tôi liền đưa tay đón chiếc xe lại. Khi đến gần, họ ngừng xe lại, tôi thấy người tài xế lại là chú lính Việt Nam Cộng hòa. Tôi mạnh dạn hỏi lớn:

- Cho quá giang về phà Mỹ Thuận có được không?

Một anh bộ đội giải phóng, nói giọng Bắc la lớn:

- Nào! Lên đi nào. Khẩn trương lên. Trưa cả rồi.

Một cánh tay đưa xuống kéo tay tôi lên.  Khi bàn tay tôi chạm phải bàn tay anh, tôi thấy tay áo anh làm bằng vải kaki xanh Nam Định. Tim tôi se lại. Dưới màu kaki xanh Nam Định này, tôi đã nhiều lần nhìn thấy trên chiến trường những xác chết trẻ trung dưới hai mươi tuổi, trên ngực họ, trên tay họ hay trên lưng họ có xâm hàng chữ “Sanh Bắc, Tử Nam”.

      Xe chạy…chạy xa ngã ba Trung Lương. Mọi người ngồi trong xe đều im lặng. Hình như mỗi người đang theo đuổi những ý nghĩ riêng tư của mình. Ai cũng có vẻ ngỡ ngàng khi chạm phải mắt nhau. Xe chạy qua những thôn xóm quen thuộc tôi đã từng qua lại nhiều lần từ thuở thiếu thời, cắp sách đến trường gặp thầy, gặp bạn. Hôm nay nay trông quạnh vắng lạ thường. Trường học đóng cửa không một bóng dáng học trò, chợ búa tiêu điều không ai nhóm, nền gạch trơ, phất phơ mấy miếng lá chuối khô bay. Có lúc trên xe im phăng phắc. Hình như ai cũng đang chờ đợi cái gì. Sau những năm chiến đấu ồn ào với súng đạn, bây giờ tôi mới hiểu im lặng là cái đáng sợ. Nhất là cái im lặng sau cuôc chiến, cái im lặng chứa đầy tử khí, ngạo nghễ và phản kháng. Các anh bộ đội miền Bắc, có lúc cố gắng pha trò để đỡ buồn đỡ căng thẳng. Có anh nhái giọng Nam bộ, hỏi người trên xe: “Mần sao? Bà con làm một chuyến du lịch từ Rạch Miễu đến phà Mỹ thuận trên chuyến xe đò Cách mạng kỳ này chắc ‘dzui’ lắm hả”?

Câu pha trò của anh rơi vào khỏang không. Tôi gượng gạo, nhìn bâng quơ ra ngoài. Làng mạc ruộng vườn bao la một màu xanh rờn vắng bóng người nông phu, chỉ có những cánh cò bay lặng lẽ.

Chợt anh tài xế la lớn;

- Đến bến phà rồi bà con.

Tôi vội vàng cám ơn mọi người và nhảy xuống xe trước nhất. Một cánh tay cầm khẩu AK của anh bộ đội giăng ra chận tôi lại. Tôi hốt hoảng không biết xử trí như thế nào; nhưng với phản xạ

tự nhiên của người lính, bàn tay phải của tôi đã sẵn trong túi quần, lúc ấy ngón tay cái của tôi đã nằm sẵn trên khóa an toàn, và ngón tay trỏ của tôi lúc đó cũng đã sẵn sàng nằm trên cò của khẩu Colt 12 mà tôi lận rất kỹ trong người và nó sẵn sàng nổ!

Anh chàng bộ đội, nhấm ghiền đôi mắt lại, ngước cổ cao lên và la lớn:

- Ối giời! Chúng tôi đèo anh từ ngã ba Trung Lương đến tận đây, thì anh phải trả tiền chứ, sao lại cám ơn ‘không’ đâu có được?

Nói thật, lúc đó tôi mới lấy lại bình tĩnh. Tôi từ từ rút bàn tay phải ra khỏi túi quần có dính theo tờ giấy bạc 500 đồng đưa cho anh bộ đội và nói cám ơn anh ấy.

Trên đường tôi ngồi tiếp xe lôi về nhà, tôi nhớ lại câu nói của anh bộ đội:“Tôi đèo anh”, tôi cười một mình. Mãi sau này đi tù cải tạo tại miền Bắc tôi mới hiểu được nghĩa của chữ đèo. Chiến thắng Miền Nam, đối với các anh nhanh quá. Các anh ngỡ ngàng như còn trong mơ. Các anh chở chúng tôi trên chiếc xe hơi nhà binh GMC mà các cứ tưởng là các anh đang đèo chúng tôi trên chiếc trên chiếc xe đạp thồ trên con đường quê nào đó tại miền-Bắc-xã- hội-chủ-nghĩa.

 

Về đến Sa Đéc, trước khi đến nhà, đi ngang qua một công đất bỏ hoang, cây cối um tùm, có con lạch nhỏ, nước sâu đến gối và nhiều bùn. Tôi dừng lại, suy nghĩ một hồi…Tôi bước xuống đứng dưới con lạch. Bỏ tay vào túi quần, tôi từ từ tháo gỡ cây súng, kiểm soát khóa an toàn, cho nó rơi xuống trong ống quần, rơi thật sâu xuống con lạch nước. Tôi nghe cây súng rơi xuống đến mắt cá chân. Tôi dí bàn chân sâu vào trong bùn và rút lên từ từ. Cây súng, ngang mắt cá chân tôi rơi theo đúng vào lỗ bùn sâu. Bước lên khỏi con lạch, mang lại đôi dép, tôi đi hướng về nhà không ngoãnh mặt lại…

     Có một chút gì ân hận chua xót trong tôi. Hình như tôi vừa từ giã ai? Một người bạn? Một chiến hữu? Một khẩu súng?..Một thoáng buâng khuâng mơ hồ, tôi vừa bước qua ngưỡng cửa cuối cùng của cuộc đời binh nghiệp../.

 

Đào Như

Oak park, Illinois, USA

4-2001

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi lái xe về nhà, trong lòng nặng trĩu nỗi buồn, thương cho Vi và giận chồng của Vi quá, tôi đâm xe thẳng vào garage và xồng xộc đi vào nhà, chồng tôi có lẽ vẫn đang lúi húi trong bếp nên không thấy tôi. Thay quần áo, nằm lăn trên giường, tôi nghĩ đến những lời Thu nói, nếu như tôi lấy phải một người chồng như của Vi?
Đêm đầu tiên về Saigon vì trái giờ nên khoảng 3 giờ sáng tôi đã thức giấc. Háo hức muốn tìm hiểu cuộc sống ban đêm ở Sài Gòn hoa lệ. Tôi trang bị nhẹ với máy ảnh đi lang thang một mình trên đường phố vắng. Ban đầu hơi ái ngại, tôi chỉ định rảo bộ quanh khách sạn ở Q1 cho an toàn. Ra ngoài khách sạn khoảng trăm thước, tôi thấy mấy chị đạp xe chở hàng có lẽ để bán lẻ ở đâu đó trong thành phố...
Trong tận thâm tâm tôi, thầy là một vì sao sáng, một hiền nhân vô cùng tôn kính giữa nhân gian này. Tôi chưa từng diện kiến hay bái sư nhưng toàn tâm ý của tôi thì thầy là thầy tôi từ quá khứ xa xưa chứ chẳng phải chỉ mỗi kiếp này...
Nằm trên giường tôi vươn vai duỗi chân thật thoải mái làm sao ấy, nhìn lên đồng hồ trên bàn đã 9 giờ sáng, bên ngoài trời Montreal tuyết nhè nhẹ bay trắng xóa thật đẹp. Hôm nay thứ hai đầu tuần, mọi người hàng xóm xung quanh đi làm hết, cả khu nhà yên ắng đến lạ thường, tôi mỉm cười thỏa mãn “mình về hưu rồi mà, phải tự sướng chứ!”
Sau dịp lễ Noel là không khí tháng chạp lấp ló đầu ngõ rồi! Thời tiết mùa đông lạnh lẽo đã dần nhường chỗ cho gió xuân về mơ màng trong sương sớm. Khoảng mùng 5 tháng chạp là mọi người đi tảo mộ đông vui. Đươc gặp bà con, họ hàng nội ngoại chào nhau tíu tít sau một năm tất bật là thấy tết đã sắp sửa cận kề. Tết không chỉ là niềm trông đợi của trẻ thơ mà còn là niềm vui của người lớn. Xưa chừ người ta thường nói vui như tết mà!
Con tàu rú lên tràng còi thất thanh. Âm thanh chuyển từ trầm đục sang cao chói. Chuyện gì vậy. Mọi người hỏi nhau. Sao bỗng dưng còi tàu gầm thét như con thú bị thương vậy. Tàu bỗng dưng chạy chậm hẳn lại. Và tiếng rít của bánh sắt trên đường rầy như mũi khoan nhọn xoáy vào lỗ tai. Người soát vé tất tả chạy trên lối nhỏ giữa hai hàng ghế. Chuyện gì thế ông ơi. Những câu hỏi nhao nhao. Something wrong, very wrong. Mọi người vui lòng ngồi yên tại chỗ. Người soát vé nói vội trước khi mất hút sau khung cửa nối sang toa kế tiếp. Khủng bố hay cầu đường xe lửa bị sập. Mưa lũ đã mấy hôm rồi. Người ta xớn xác hỏi nhau. Tin tức truyền miệng lan nhanh như đám cháy rừng. Không ai biết chắc chuyện gì. Chỉ biết tàu không thể tiếp tục chạy. Nhìn qua cửa sổ, chỉ thấy rừng cây đang vùn vụt dạt về phía sau bỗng chậm dần.
Đọc thơ “nhớ nhà” của Nguyễn Thị Vinh càng thêm nhớ! Ai cũng bảo rằng mùa xuân làm ấm lòng người, nhưng chưa chắc gì. Mùa xuân đó là mùa xuân ở bên ấy, bên Việt Nam họa chăng có ấm lòng, chứ mùa xuân rơi vào tiết mùa đông lạnh lẽo bên trời tây này lạnh vô cùng...
Bà Hai Kỹ lơ mơ ngái ngủ thò chân xuống giường, chợt giật nảy cả người, nước đâu mà linh láng ngập đến tận ống quyển vậy trời. Bà tỉnh ngủ hẳn, hoảng hốt la to: – Dậy, dậy mau, nước vô ngập nhà rồi!
Anh muốn về thăm Việt Nam, chị cũng vậy. Anh nói với chị: Em à, cũng hai năm rồi, tụi mình chưa về thăm Việt Nam. Anh thấy nhớ quá, nhớ hàng cây dâm bụt, gốc ổi, cây dâu đất ngoài quê anh. Nhất là ngôi nhà có bức tường thành và cái cổng bằng xi măng. Anh đã đem theo hình ảnh đó suốt mấy mươi năm rồi, nhưng lúc nào cũng nhớ nó. Mình đi về thăm một chuyến em hè...
Lần này, 2023, tôi chọn đi xem Tuy Hòa (Phú Yên) và Qui Nhơn (Bình Định) hai thành phố nhỏ, không mấy nổi tiếng với hy vọng nhìn thấy, cuộc sống tỉnh lẽ vẫn còn đằm thắm hiền hòa, chưa huyên náo chật chội như Hội An, nơi mỗi ngày có cả chục chuyến xe buýt thả nườm nượp khách du lịch xuống bến...
Những ngày cận tết trời Sài Gòn se se lạnh. Cái lạnh mang theo chút nắng hanh làm đẹp hơn bao chiếc áo len buổi sáng những con đường. Khóa học cuối năm chấm dứt bằng đêm văn nghệ toàn trường của đại học sư phạm...
Ngày Tết ai ai cũng nhớ đến bánh chưng, bánh dầy. Bánh chưng là biểu hiệu của đất trời, là tất cả của vũ trụ và của lòng hiếu thảo, có tự truyện từ lâu đời, từ đời vua Hùng Vương xa xưa. Người trong Nam còn gọi là bánh tét, có lẽ là do chữ tiết hay Tết, ý là bánh của ngày Tết...


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.