Hôm nay,  

Phố Vắng

04/04/202010:59:00(Xem: 5414)

 PHO VANG


Trời ngả chiều nhưng mặt trời vẫn sáng rực rỡ.  Nắng vàng ấm và gió nhẹ khiến phố xá thêm êm đềm tươi mát, mà đường phố vắng tanh chỉ lác đác vài chiếc xe vài bóng người.  Đại dịch và chỉ thị giới hạn sinh hoạt đã trả cho thành phố cái thanh bình yên ắng. Ngà nhớ những bức ảnh Sài Gòn xưa đăng trên những trang facebook, cái thuở thái hòa những năm 1930’s, 40’, và 50’s, khi Sài Gòn chỉ nhiều nhất một vài triệu dân và mọi sinh hoạt dường như nhỏ nhẹ.  Ngà nhớ thành phố nơi này những năm 1980’s khi Ngà mới đặt chân lên đất Mỹ. Những buổi sáng chộn rộn trong lặng im và những ánh đèn vàng lúc đêm về là nỗi khốn khổ của Ngà trong suốt 10 năm đầu. Một đứa trẻ sinh ra và lớn lên ở hẻm nghèo chật chội luôn vang tiếng người với đèn nê ông trắng xóa giờ lọt vào một nơi rộng mênh mang với bóng đèn mờ tỏ võ vàng, một mình.  Đời lúc đó thê lương biết nhường bao…

Ngà rẽ vào nhà anh Kính.  Anh ở cùng thành phố chỉ cách Ngà độ mươi phút lái xe, nhưng nhà anh tiếp giáp với thành phố biển nên lối xóm không quá xô bồ như khu Ngà ở.

Căn nhà nhỏ xinh xắn với đất vườn rộng rãi, anh Kính ở một mình nên không mấy gọn ghẽ dù cũng không quá bừa bộn.  Anh hể hả cất tiếng chào đón Ngà nhưng vẫn không rời căn bếp nhỏ, lửa đang phừng phừng và một món gì đó đang xém cháy thơm lừng.

-Vô đây em, vô đây.  Anh làm cá bống trứng chiên dòn tụi mình nhâm nhi.

Anh Thăng ở đâu hiện ra nơi cửa.  Khác với anh Kính cao lớn và hỉ hả như Phật Di Lặc dù anh không mập như vậy, anh Thăng nhỏ con và gầy gò.  Anh nhỏ nhẹ và ít nói nên nhỏ con thấy càng thêm nhỏ! Anh lôi trong túi giấy ra một chai Martel để lên chiếc bàn ăn nhỏ kề bên bếp.

-Trời ơi, có đủ hết mà, mang tới chi anh Thăng, anh Kính đưa đĩa cá bống trứng nghi ngút khói ra bàn.

-Thì ai thích gì uống nấy, anh Thăng cười cười ngồi xuống.

Ngà cũng mở hộp tôm sốt hạt hồ đào đổ ra đĩa.  Nhà hàng đóng cửa, chỉ mua được món này ở quán cơm chỉ Panda Express thôi, mấy anh chịu khó ăn đỡ !

_Gì cũng được em à, miễn vui.  Uống là chính, ăn thì bao nhiêu.  Anh Kính mau mắn khui 2 chai Bud, rồi lấy ra 3 cái ly nhỏ vuông vuông.  Anh Thăng cũng loay hoay khui chai Martel rót cho mình một chung.

Cuộc nhậu chính thức mở màn.  Cụng một cái, 3 đứa con Ngọc Hoàng.

-Nè, cấm tụ tập mà tụi mình xé rào, coi chừng á.  Anh Thăng hăm he thăm dò

-Coi chừng ai, đâu có ai cấm gì đâu, chỉ là “ra nghị quyết” thôi mà, Ngà cãi

-Tụi mình đứa nào cũng khỏe mạnh, đâu có ai bịnh gì đâu mà lo.  Anh dẻo dai lắm, em không cần sợ.  Anh Kính hớn hở tu một hớp.

-Tui sợ, tui đang tuổi quân dịch!

-Anh vừa mới hưu, già chát còn quân dịch gì nữa?

-Thì cô Vi tuyển binh già, không tui thì ai vô đây!  Gặp đại dịch, dẫu không buông tay cũng đến lúc phủi tay rồi, rủi chết không có gì để khiếu nại.  Mà dóc chơi cho dzui, chớ tui độc thân, có bịnh thì cũng không lây được cho ai, chỉ sợ cô Ngà

-Dạ em cũng độc thân tại chỗ, không có ai để lây

-Thì dô, vạn tuế độc thân, anh Kính mau mắn.  Ba đứa con Ngọc Hoàng lại lanh canh chụm chai và ly.

Ngà đặt chai xuống, bắt đầu tấn công cá bống trứng chiên dòn.  Ngà ăn ba con cá mới hớp một hớp bia, còn anh Kính đã xếp ba chai ra cạnh bàn mà chưa đụng đũa.  Anh Thăng cười rạng rỡ như thể hơi men đã làm anh nở bung như hoa hướng dương. Anh hết cái vẻ rụt rè ít nói, và anh gọi Ngà là em chứ không “cô, tui” như mọi khi nữa.

-Anh nói cho em hay, từn nào anh cũng nhậu.  

-Anh nhậu với ai?

-Thì dzới bạn cũ trường lựt.  

-Ủa, hồi xưa anh học luật?

-Chớ sao.  Mà goa đây gần 15 năm mới xong mảnh bằng cử nhân điện toán quản trị dữ liệu.

-À, ra là em có đồng minh, Ngà vỗ bàn cười, thanh toán thêm mớ tôm hồ đào cho “thơm râu!”

Anh Kính chợt đứng dậy, bước ra cửa vườn cách bàn ăn chỉ vài bước.  Bên ngoài trời đỏ sẫm, những cụm mây xám bỗng tím biếc rực rỡ. Anh bật lửa châm điếu thuốc.  Anh Thăng xoay ghế ngó ra vườn, tay vẫn cầm cái ly vuông vuông xinh xắn, nhẹ lắc cho rượu sóng sánh.  Ngà đã no, cũng cầm chai ra đứng kế, ngửa cổ tu một hớp.

Anh Kính chợt dúi điếu thuốc vào tay Ngà, làm một hơi đi em.  Con Ngọc hoàng giờ lên ngôi, Ngà vừa nghĩ vừa với tay cầm điếu thuốc hít một hơi.  Anh Thăng bật tiếng- trời đất, dữ à nghen?

-Chuyện nhỏ, nó làm bộ cho vui chứ thấy là biết không phải dân thở khói.

-Dzậy là sao, nó dzừa hút đó thôi?

-Coi nè, anh Kính rít một hơi thuốc thật sâu, lại đưa điếu thuốc qua tay Ngà, Ngà cũng hít một hơi khói bay mù mịt.

-Nó hít vô miệng rồi nhả ra chứ đâu có ếm vô như em đâu anh Thăng.

Anh Thăng bật cười, à, cái đó tui hổng biết.

-Nói dóc, sao biết được em có hít vào phổi hay không, Ngà cãi.

-Anh đi lính em còn con nít, hút cả ngàn điếu rồi, sao lại không biết.

-Mà sao lính hay hút thuốc?

-Cái thú dễ nhất tiện nhất và rẻ nhất.  Vậy mà nhiều khi cũng đói thuốc đó em.  Như có giọt sầu rơi xuống đáy giếng, anh Kính dập tàn trở vào bàn.  Thức ăn đã nguội, mùi gia vị giờ mới trùm lên đầu tóc. Anh Thăng nhìn Ngà loay hoay thu vén đĩa thức ăn chợt hỏi:

-Em tích trữ giấy vệ sinh chưa?

-Em có đủ.

-Không biết thiên hạ làm gì mà khùng dữ dzậy, chớ thuở xưa mình xài lá tre lá chuối cũng còn được mà, em nhớ hông?

-Không, thuở em là thuở xài giấy báo!  Mà anh có đi lính hông?

-Không cần phải đi lính mới khổ

-Nhưng không ai khổ bằng lính, anh Kính phản đối.

-Khổ sao ông nói tui nghe, anh Thăng cười cợt.

-Quên rồi.  Lúc đó vô quân trường là chấp hành bổn phận, ra mặt trận là phải hoàn tất nhiệm vụ, nhưng vào chỗ súng đạn rồi thì chỉ còn nhớ một điều là không được chết.  Không được chết, còn trẻ quá mà, chết sao được… Hết chiến tranh còn mắc ở tù, không thể chết. Ra tù phải kiếm cơm, phải vượt biên, không thể chết.  

-Thì bi giờ được chết rồi còn muốn gì, anh Thăng châm chọc

- Ừ, bây giờ ở đây yên lành, hết bổn phận hết trách nhiệm, không chết, nhưng sống để làm gì? Bây giờ chết cũng lố tuổi chết non rồi anh Thăng ơi.  Lỡ độ rồi! Dô một cái giải sầu nè!

Ba đứa lại ngửa cổ.  Không dưng Ngà nhớ bài Rượu Xuân:

Cao tay nâng chén rượu nồng

Mừng em, em sắp lấy chồng xuân nay

Uống đi em, uống cho say

Để trong mơ thấy những ngày Xuân qua

Thấy tình duyên của đôi ta

Đến đây là, đến đây là, là thôi

Em đi dệt mộng cùng người

Lẻ loi xuân một góc trời riêng anh 

Thật là lạc quẻ, không biết mình say hay vớ vẩn nữa!  Ngà nhìn anh Kính, anh ngó chừng cũng đã say nhưng vẫn chưa muốn thôi, anh Thăng thì hồng hào như tiên chứ không có vẻ gì sắp lật.  Bên ngoài đã tối hẳn, một ngày sắp qua, như 40 năm 12000 ngày đã qua, sáng trưa chiều tối. Ngà đưa anh Kính thêm một chai, anh vặn mở nắp chai rồi đưa lại cho Ngà.

-Hết chai này em về

-Lái được hông đó?

-Được, con gái Ngọc Hoàng không đến nỗi đâu.

Ba đứa con Ngọc hoàng chợt im lặng chẳng ai nói với ai câu nào.  Ngà nhìn chai bia trên mặt bàn. Hơi sương lúc mới lấy ra khỏi thùng đá giờ đọng thành giọt lăn dài xuống dọc thân chai như những giọt nước mắt nâu lạnh rớt vào lòng.  Bốn mươi năm thái bình trên đất chẳng chiến tranh, sống thì cũng bốn mươi năm lăn lóc khóc cười, bốn mươi năm nhăn nhó vật vã bươn chải, cũng bốn mươi năm yêu đương ngăn cách đắp xây phá bỏ.  Bụng dạ đã đầy mảnh chai, sống thêm cái gì nữa?

Ngà lái xe về, đường đêm vắng lặng.  Đại dịch tàn phá, cái hoang vu của thành phố hay của khắp nơi trên thế giới thì cũng chỉ như những chiếu vọng của từng cõi lòng đã rữa tan.  Đâu chỉ mình anh lỡ độ, anh Kính!


Lưu Na

03292020

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Ba tôi là một sĩ quan truyền tin của quân đội VNCH. Gia đình tôi sống trong Bộ Tổng Tham Mưu, gần sát phi trường Tân Sơn Nhất. Vì sống trong trung tâm của Bộ Tổng Tham mưu nên ba tôi nói rất nguy hiểm và ba đã xây một cái hầm cho mẹ con tôi trốn đạn. Mẹ nói ba làm rất cực để giữ an toàn cho gia đình. Ba vì công việc nên đi hoài, mẹ ở nhà mỗi khi nghe đạn pháo nổ dắt chúng tôi chạy xuống hầm trốn đạn. Và ngày ấy đạn pháo bay như mưa, tôi còn nhớ cứ lâu lâu nghe tiếng súng bắn và nghe người ta la "chết rồi, máy bay cháy", hoặc "chết rồi, nổ rồi, cháy ..cháy" và trên radio thì cứ nghe bài hát "một cánh tay đưa lên, hàng ngàn cánh tay đưa lên quyết đấu tranh…. ".
Bài viết “Đánh Trận Là Một Nghệ Thuật” đã được đăng trên “The Journal of Military History” số 68 vào năm 2004. Đây là một quyển báo rất có uy tín của quân đội Hoa Kỳ từ năm 1937, chuyên đăng những bài nghiên cứu có giá trị về lịch sử quân đội của mọi nơi trên thế giới. Dù đã ra đời mười sáu năm, bài viết này có một giá trị lịch sử đặc biệt vì người viết đã tham khảo rất công phu nhiều tài liệu của cả Việt Nam Cộng Hòa, Hoa Kỳ và Bắc Việt. Bài viết này đã được Cố Thiếu Tướng Lê Minh Đảo, Cựu Tư Lệnh Sư Đoàn 18 Bộ Binh Việt Nam Cộng Hòa nhận định là chính xác đến 95%.
Máu đã đổ suốt từ thời chiến tranh cho tới lúc hòa bình 45 năm nay, những giọt máu của người dân trong nước khao khát nền Tự Do Dân Chủ vẫn còn chảy trong nhà tù với những bản án khắc nghiệt dành cho họ và những người đã chết đều có thật. Rất thật.
Vào sáng ngày 1 tháng 5-1975 Trung tá bác sĩ Hoàng Như Tùng, nguyên chỉ huy trưởng Quân Y viện Phan Thanh Giản - Cần Thơ, mặc đồ dân sự, trong tư thế quân phong, đưa tay lên chào vĩnh biêt Tướng Nguyễn Khoa Nam, Tư lênh Quân Đoàn IV, Quân Khu IV, Vùng 4 Chiến Thuật, trước sự kinh ngạc của một nhóm sĩ quan cấp cao của bộ đội cộng sản vì sự dũng cảm của bác sĩ Trung Tá Hoàng Như Tùng. Một sĩ quan của bộ đội cộng sản mang quân hàm thiếu tá tiến đến và yêu cầu bác sĩ Hoàng Như Tùng nhận diện Tướng Nguyễn Khoa Nam.
Dù tôi đã sống trên đất Mỹ nhiều năm rồi, nhưng thỉnh thoảng, trong giấc ngủ hằng đêm, tôi vẫn gặp ác mộng về những lần trốn chạy kinh hoàng của một người bị săn đuổi. Choàng tỉnh dậy giữa đêm, tôi nhớ lại rất rõ nét những giấc mơ vừa trải qua, mồ hôi toát ra như tắm vì tôi như vẫn còn nghe văn vẳng đâu đây tiếng kẻng báo thức rõ mồn một, tiếng kẻng của các trại giam cộng sản Việt Nam được làm bằng những cái niềng (rim) xe hơi và dùng 1 thanh sắt gõ vào tạo thành 1 âm thanh vang rất xa. Ai từng ở tù hay bị đày ra những trại cưỡng bức lao động, hoặc trại tập trung cải tạo của cộng sản Việt Nam thì không bao giờ quên được tiếng kẻng này.
46 năm sau biến cố cưỡng chiếm Hoàng Sa 1974, và 32 năm sau vụ thảm sát Gạc Ma nơi quần đảo Trường Sa 1988, cả hai đều do bàn tay vấy máu của Trung Cộng. Không chỉ bằng vũ lực, Bắc Kinh nay còn viện dẫn Công hàm 1958 của Phạm Văn Đồng ký như bằng chứng pháp lý gây khó khăn cho Việt Nam trong tranh chấp chủ quyền hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa
Kim lái chiếc xe Honda đi biếu cái bánh chưng cuối cùng vào lúc 7 giờ sáng ngày 30 Tết năm 1975. Tuy có bao nhiêu lần thức khuya học bài, nhưng đây là lần đầu tiên Kim thức trắng đến sáng, cái đầu nhức như búa bỗ, óc trống rỗng, người lâng lâng như muốn bay lên mây...
Mở đầu nhật ký tuần này xin được góp phần tưởng nhớ các nhân viên y tế, đặc biệt là các y tá (những thành viên trong đội ngũ thiên thần áo trắng ở tuyến đầu chống dịch bệnh Vũ Hán) ở khắp nơi trên thế giới đã "sinh nghề tử nghiệp". Tính đến đầu tháng 4 năm 2020, đã có hơn 100 "thiên thần áo trắng" qua đời vì bị lây nhiễm Coronavirus từ bệnh nhân, hơn một nửa là nhân viên y tế ở Ý.
Những dòng ký sự và nhận định sau đây, tường thuật lại những biến cố xảy ra tại Trường Y Sàigòn từ năm 1967-1971 và sau đó...do sự can thiệp của phái bộ Hội Đoàn Bác sĩ Mỹ -American Medical Association tại Saigòn (AMA-SAIGON) vào nội bộ Trường Y Saigon. Những sử liệu của bài nhận định này đều dựa trên những điều tường thuật của quyển sách thời danh SAIGON MEDICAL SCHOOL do 3 người viết: CH William Ruhe MD, Norman Hoover MD và Ira Singer PhD, tất cả ba vị này đều là nhũng người lãnh đạo và cố vấn cho cuộc can thiệp của phái bộ AMA vàoTrường Y Saigon từ năm 1967. Tập sách SAIGON MEDICAL SCHOOL do chính cơ quan AMA, xuất bản tại Mỹ năm 1988.
Dạo đó, đầu thập niên 70, dưới giàn hoa giấy, trong khoảng sân nhỏ nhà chúng tôi, thỉnh thoảng có những người lính thuộc mọi binh chủng của Quân lực VNCH. Họ ngồi hút thuốc, hay tay đàn miệng hát vì trong cư xá Đoàn Văn Cự ở Biên Hòa có khá nhiều chị đang học lớp 12 rất đẹp. Nhà chúng tôi ở đầu cư xá nên các chị thường phải đi ngang nhà chúng tôi trước khi về nhà mình.
Mẹ tôi bán thuốc tây để dành được một ít tiền cho chị em tôi đi vượt biên. Chuyến đầu mẹ cho ba chị em tôi đi nhưng bị đổ bể, đợt hai mẹ cho chị tôi đi với gia đình dì, và được Cap Anamur Đức vớt, đưa đến Đức vào năm 80. Một năm sau mẹ gửi hai anh em tôi cho cô chủ tàu ở Cần Thơ và chúng tôi được đưa lên tàu đánh cá nhỏ có 89 người.Thuyền rời bến, ngày đầu chúng tôi được phát nước uống, qua ngày thứ hai thì không còn giọt nước nào. Lúc đó vào tháng năm, nắng nóng, thuyền lại không có mui che nên ai cũng mệt lả, thuyền đông người lại quá chật hẹp không cựa quậy gì được, tôi chỉ cần nhút nhích một chút là bị người ta nhéo. Lúc đó tôi chỉ thấy chung quanh là biển rộng mênh mông, tôi nhớ nhà và cầu mong sao cho bị bắt để được về nhà lại.Trên thuyền bắt đầu có một chị bị sảng vì thiếu nước uống, rồi thì không biết ai đó lấy lon Guigoz truyền nước uống cho nhau nhưng ai hớp vô rồi cũng phun ra vì đó là nước biển, mặn quá, tôi cũng không ngoại lệ.
Trời Chicago cuối tháng Tư vẫn còn lạnh. Tuy thế anh em đi dự buổi họp điều-trị-tâp-thể đông hơn thường lệ. Nhiều anh em sĩ quan ở các nhóm khác, không phải họp hôm nay, họ cũng đến. Phòng họp dành cho buổi điều-trị-tập-thể của các anh em sĩ quan H.O. tại Asian Human Services -Chicago rộng rãi và tươm tất, được trang hoàng trang nhã với những bức tranh ấn tượng của Claude Monet, màu sắc hàì hòa gợi nhớ về một thuở thanh bình.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.