Hôm nay,  

Phố Vắng

04/04/202010:59:00(Xem: 5397)

 PHO VANG


Trời ngả chiều nhưng mặt trời vẫn sáng rực rỡ.  Nắng vàng ấm và gió nhẹ khiến phố xá thêm êm đềm tươi mát, mà đường phố vắng tanh chỉ lác đác vài chiếc xe vài bóng người.  Đại dịch và chỉ thị giới hạn sinh hoạt đã trả cho thành phố cái thanh bình yên ắng. Ngà nhớ những bức ảnh Sài Gòn xưa đăng trên những trang facebook, cái thuở thái hòa những năm 1930’s, 40’, và 50’s, khi Sài Gòn chỉ nhiều nhất một vài triệu dân và mọi sinh hoạt dường như nhỏ nhẹ.  Ngà nhớ thành phố nơi này những năm 1980’s khi Ngà mới đặt chân lên đất Mỹ. Những buổi sáng chộn rộn trong lặng im và những ánh đèn vàng lúc đêm về là nỗi khốn khổ của Ngà trong suốt 10 năm đầu. Một đứa trẻ sinh ra và lớn lên ở hẻm nghèo chật chội luôn vang tiếng người với đèn nê ông trắng xóa giờ lọt vào một nơi rộng mênh mang với bóng đèn mờ tỏ võ vàng, một mình.  Đời lúc đó thê lương biết nhường bao…

Ngà rẽ vào nhà anh Kính.  Anh ở cùng thành phố chỉ cách Ngà độ mươi phút lái xe, nhưng nhà anh tiếp giáp với thành phố biển nên lối xóm không quá xô bồ như khu Ngà ở.

Căn nhà nhỏ xinh xắn với đất vườn rộng rãi, anh Kính ở một mình nên không mấy gọn ghẽ dù cũng không quá bừa bộn.  Anh hể hả cất tiếng chào đón Ngà nhưng vẫn không rời căn bếp nhỏ, lửa đang phừng phừng và một món gì đó đang xém cháy thơm lừng.

-Vô đây em, vô đây.  Anh làm cá bống trứng chiên dòn tụi mình nhâm nhi.

Anh Thăng ở đâu hiện ra nơi cửa.  Khác với anh Kính cao lớn và hỉ hả như Phật Di Lặc dù anh không mập như vậy, anh Thăng nhỏ con và gầy gò.  Anh nhỏ nhẹ và ít nói nên nhỏ con thấy càng thêm nhỏ! Anh lôi trong túi giấy ra một chai Martel để lên chiếc bàn ăn nhỏ kề bên bếp.

-Trời ơi, có đủ hết mà, mang tới chi anh Thăng, anh Kính đưa đĩa cá bống trứng nghi ngút khói ra bàn.

-Thì ai thích gì uống nấy, anh Thăng cười cười ngồi xuống.

Ngà cũng mở hộp tôm sốt hạt hồ đào đổ ra đĩa.  Nhà hàng đóng cửa, chỉ mua được món này ở quán cơm chỉ Panda Express thôi, mấy anh chịu khó ăn đỡ !

_Gì cũng được em à, miễn vui.  Uống là chính, ăn thì bao nhiêu.  Anh Kính mau mắn khui 2 chai Bud, rồi lấy ra 3 cái ly nhỏ vuông vuông.  Anh Thăng cũng loay hoay khui chai Martel rót cho mình một chung.

Cuộc nhậu chính thức mở màn.  Cụng một cái, 3 đứa con Ngọc Hoàng.

-Nè, cấm tụ tập mà tụi mình xé rào, coi chừng á.  Anh Thăng hăm he thăm dò

-Coi chừng ai, đâu có ai cấm gì đâu, chỉ là “ra nghị quyết” thôi mà, Ngà cãi

-Tụi mình đứa nào cũng khỏe mạnh, đâu có ai bịnh gì đâu mà lo.  Anh dẻo dai lắm, em không cần sợ.  Anh Kính hớn hở tu một hớp.

-Tui sợ, tui đang tuổi quân dịch!

-Anh vừa mới hưu, già chát còn quân dịch gì nữa?

-Thì cô Vi tuyển binh già, không tui thì ai vô đây!  Gặp đại dịch, dẫu không buông tay cũng đến lúc phủi tay rồi, rủi chết không có gì để khiếu nại.  Mà dóc chơi cho dzui, chớ tui độc thân, có bịnh thì cũng không lây được cho ai, chỉ sợ cô Ngà

-Dạ em cũng độc thân tại chỗ, không có ai để lây

-Thì dô, vạn tuế độc thân, anh Kính mau mắn.  Ba đứa con Ngọc Hoàng lại lanh canh chụm chai và ly.

Ngà đặt chai xuống, bắt đầu tấn công cá bống trứng chiên dòn.  Ngà ăn ba con cá mới hớp một hớp bia, còn anh Kính đã xếp ba chai ra cạnh bàn mà chưa đụng đũa.  Anh Thăng cười rạng rỡ như thể hơi men đã làm anh nở bung như hoa hướng dương. Anh hết cái vẻ rụt rè ít nói, và anh gọi Ngà là em chứ không “cô, tui” như mọi khi nữa.

-Anh nói cho em hay, từn nào anh cũng nhậu.  

-Anh nhậu với ai?

-Thì dzới bạn cũ trường lựt.  

-Ủa, hồi xưa anh học luật?

-Chớ sao.  Mà goa đây gần 15 năm mới xong mảnh bằng cử nhân điện toán quản trị dữ liệu.

-À, ra là em có đồng minh, Ngà vỗ bàn cười, thanh toán thêm mớ tôm hồ đào cho “thơm râu!”

Anh Kính chợt đứng dậy, bước ra cửa vườn cách bàn ăn chỉ vài bước.  Bên ngoài trời đỏ sẫm, những cụm mây xám bỗng tím biếc rực rỡ. Anh bật lửa châm điếu thuốc.  Anh Thăng xoay ghế ngó ra vườn, tay vẫn cầm cái ly vuông vuông xinh xắn, nhẹ lắc cho rượu sóng sánh.  Ngà đã no, cũng cầm chai ra đứng kế, ngửa cổ tu một hớp.

Anh Kính chợt dúi điếu thuốc vào tay Ngà, làm một hơi đi em.  Con Ngọc hoàng giờ lên ngôi, Ngà vừa nghĩ vừa với tay cầm điếu thuốc hít một hơi.  Anh Thăng bật tiếng- trời đất, dữ à nghen?

-Chuyện nhỏ, nó làm bộ cho vui chứ thấy là biết không phải dân thở khói.

-Dzậy là sao, nó dzừa hút đó thôi?

-Coi nè, anh Kính rít một hơi thuốc thật sâu, lại đưa điếu thuốc qua tay Ngà, Ngà cũng hít một hơi khói bay mù mịt.

-Nó hít vô miệng rồi nhả ra chứ đâu có ếm vô như em đâu anh Thăng.

Anh Thăng bật cười, à, cái đó tui hổng biết.

-Nói dóc, sao biết được em có hít vào phổi hay không, Ngà cãi.

-Anh đi lính em còn con nít, hút cả ngàn điếu rồi, sao lại không biết.

-Mà sao lính hay hút thuốc?

-Cái thú dễ nhất tiện nhất và rẻ nhất.  Vậy mà nhiều khi cũng đói thuốc đó em.  Như có giọt sầu rơi xuống đáy giếng, anh Kính dập tàn trở vào bàn.  Thức ăn đã nguội, mùi gia vị giờ mới trùm lên đầu tóc. Anh Thăng nhìn Ngà loay hoay thu vén đĩa thức ăn chợt hỏi:

-Em tích trữ giấy vệ sinh chưa?

-Em có đủ.

-Không biết thiên hạ làm gì mà khùng dữ dzậy, chớ thuở xưa mình xài lá tre lá chuối cũng còn được mà, em nhớ hông?

-Không, thuở em là thuở xài giấy báo!  Mà anh có đi lính hông?

-Không cần phải đi lính mới khổ

-Nhưng không ai khổ bằng lính, anh Kính phản đối.

-Khổ sao ông nói tui nghe, anh Thăng cười cợt.

-Quên rồi.  Lúc đó vô quân trường là chấp hành bổn phận, ra mặt trận là phải hoàn tất nhiệm vụ, nhưng vào chỗ súng đạn rồi thì chỉ còn nhớ một điều là không được chết.  Không được chết, còn trẻ quá mà, chết sao được… Hết chiến tranh còn mắc ở tù, không thể chết. Ra tù phải kiếm cơm, phải vượt biên, không thể chết.  

-Thì bi giờ được chết rồi còn muốn gì, anh Thăng châm chọc

- Ừ, bây giờ ở đây yên lành, hết bổn phận hết trách nhiệm, không chết, nhưng sống để làm gì? Bây giờ chết cũng lố tuổi chết non rồi anh Thăng ơi.  Lỡ độ rồi! Dô một cái giải sầu nè!

Ba đứa lại ngửa cổ.  Không dưng Ngà nhớ bài Rượu Xuân:

Cao tay nâng chén rượu nồng

Mừng em, em sắp lấy chồng xuân nay

Uống đi em, uống cho say

Để trong mơ thấy những ngày Xuân qua

Thấy tình duyên của đôi ta

Đến đây là, đến đây là, là thôi

Em đi dệt mộng cùng người

Lẻ loi xuân một góc trời riêng anh 

Thật là lạc quẻ, không biết mình say hay vớ vẩn nữa!  Ngà nhìn anh Kính, anh ngó chừng cũng đã say nhưng vẫn chưa muốn thôi, anh Thăng thì hồng hào như tiên chứ không có vẻ gì sắp lật.  Bên ngoài đã tối hẳn, một ngày sắp qua, như 40 năm 12000 ngày đã qua, sáng trưa chiều tối. Ngà đưa anh Kính thêm một chai, anh vặn mở nắp chai rồi đưa lại cho Ngà.

-Hết chai này em về

-Lái được hông đó?

-Được, con gái Ngọc Hoàng không đến nỗi đâu.

Ba đứa con Ngọc hoàng chợt im lặng chẳng ai nói với ai câu nào.  Ngà nhìn chai bia trên mặt bàn. Hơi sương lúc mới lấy ra khỏi thùng đá giờ đọng thành giọt lăn dài xuống dọc thân chai như những giọt nước mắt nâu lạnh rớt vào lòng.  Bốn mươi năm thái bình trên đất chẳng chiến tranh, sống thì cũng bốn mươi năm lăn lóc khóc cười, bốn mươi năm nhăn nhó vật vã bươn chải, cũng bốn mươi năm yêu đương ngăn cách đắp xây phá bỏ.  Bụng dạ đã đầy mảnh chai, sống thêm cái gì nữa?

Ngà lái xe về, đường đêm vắng lặng.  Đại dịch tàn phá, cái hoang vu của thành phố hay của khắp nơi trên thế giới thì cũng chỉ như những chiếu vọng của từng cõi lòng đã rữa tan.  Đâu chỉ mình anh lỡ độ, anh Kính!


Lưu Na

03292020

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Ba chục năm trước, Bê đã bắt đầu sự nghiệp thể thao của Bê. Số là, Ba vừa học xong lớp chuyển nghiệp. Thời gian chuẩn bị thi cử, Ba dạy kèm cho một người bạn cùng lớp. Thi đậu, người bạn tạ ơn Ba một cặp vé Musik Konzert. Lúc đó, Bê ở trong bụng Mẹ đã hơn sáu tháng. Mẹ kể, Mẹ đang năm đầu ở đại học. Trời mùa đông, Mẹ đi học, mặc áo khoác dày cui. Bởi vậy, bạn học không ai biết Mẹ sắp sửa có em bé, chỉ ngỡ Mẹ hơi lên cân, zugenommen. Bác bạn của Ba có lẽ không dè vợ của bạn là bà bầu nên mới mời đi Rock Pop Konzert của ca sĩ Jennifer Rush.
Năm đó, 1999, miền Trung Việt Nam nhất là ở Huế đang chịu trận thiên tai bão lụt lịch sử lớn nhât từ trước cho đến thời điểm bấy giò. Trong hội chợ tết, người Việt ở đây San Jose vui Xuân nhưng không quên đồng bào ở quê nhà. Từng đoàn Hướng Đạo Sinh Việt Nam được phân phối nhiệm vụ cầm những thùng lạc quyên để quyên tiền cứu trợ. Đang lang thang trong hội chợ, hai em bé trong đồng phục Hướng Đạo chận tôi lại. Một trai một gái. Bé gái cao hơn bé trai non nữa cái đầu, chửng chạc nói “Chú ơi, ủng hộ đồng bào bảo lụt đi chú”. Trọn một câu tiếng Việt, tuy phát âm không trọn vẹn, nhưng khá rõ ràng. Tôi nhìn hai em, nhất là bé gái đang thắt cái nơ trên đầu cái nơ mầu đỏ! Tôi bỗng thấy lòng bâng khuâng man mác.
Qua sự giới thiệu của phụ huynh học sinh, chiều nay tôi có thêm học trò mới. Tuy tin tưởng vào người giới thiệu, nhưng tôi cũng có sự dè dặt thường lệ. Đây không phải là lớp dạy thêm bình thường, mà là lớp dạy kèm “Anh văn chui” tại nhà. Nếu bị bắt “tại trận”, tôi có thể bị đuổi việc (nhẹ) hoặc cả vào trại tù "miệt thứ" dài hạn như chơi. Tuy rất nguy hiểm, nhưng được sự “bảo mật” của học trò lẫn phụ huynh và nhất là khoản tiền thù lao rất hậu. Lương giáo viên cấp 3 lúc đó (1978-1979) mỗi tháng $70 đồng cộng nhu yếu phẩm, thì mỗi học sinh "dạy thêm" tôi nhận được $80/ tháng. Chỉ cần ba học trò là mỗi tháng tôi có thêm đến $240 đồng. Đối với giáo viên lúc đó không phải nhỏ! Cà phê cà pháo, cơm hàng cháo chợ cuối tháng vẫn dư tiền bỏ ống. Phần nữa, học trò lớp “Anh văn chui” của tôi thông thường chỉ vài ba tháng là “ra đi”, nên cũng thường xuyên thay đổi.
Vừa đi vừa ngắm lá vàng vừa suy nghĩ chuyện cũ mà đến nhà Sarah hồi nào hổng hay. Sarah mở cửa với nụ cười thật tươi, Lệ thấy ngay phòng khách những giỏ táo đầy ắp, Sarah giải thích: - Hễ cuối hè đầu thu là nhà tớ hái toàn bộ các trái táo ngoài vườn sau, một phần để sên mứt, phần sấy khô, và phần làm bánh táo nướng.
Nhà thơ Trần Mộng Tú gửi tới tôi bài “Mùa Hạ Đom Đóm và Dế Mèng” khi tôi muốn cùng các ông bạn đồng lứa tuổi trở về những ngày xưa thật xưa. Chị Tú hình như cũng cùng tâm trạng với các bạn không còn trẻ của tôi: “Tháng sáu, tôi đến chơi với anh tôi ở Virginia. Cái nóng rịn mồ hôi trên thái dương, và khó ngủ lắm, buổi tối, tôi với anh ra ngồi ở bực thềm, nói chuyện. Tôi bỗng thấy thỉnh thoảng có những chớp nho nhỏ như lân tinh sáng lóe lên rồi lại biến mất trong bụi cây thấp trước mặt, hỏi anh tôi, cái gì thế? “Đom Đóm” Tôi lặng người đi một lúc như nghe thấy ai nhắc tên một người bạn thân cũ, nó làm tôi xúc động. Xúc động một cách rất mơ hồ, chẳng có nguyên nhân gì cả, chỉ là cái tên của một loại côn trùng bé tí được gọi lên. Cái tên nhắc nhở một quê hương xa lắc, một dĩ vãng nằm dưới tấm chăn phủ dầy lớp bụi thời gian. Trong bóng tối, tôi ngắm những cái chấm lửa nhỏ nhoi, lóe lên rồi tắt ngóm với trái tim nôn nao trong ngực. Có đến cả hơn bốn mươi năm tôi không được nhìn thấy những đố
Tọa lạc trong vùng ngoại ô Saint Maur, kề bên là bờ sông Marne hàng hiên ngang cửa nhà chú, chú đổ đầy đất đen đất vụn phải đi mua từng bao ở siêu thị bán cây trồng đất mua chú đổ vào lưng một cái bac ciment rộng lớn chạy ngang hàng hiên nhà. Trong bac chú trồng đầy hoa vàng, hoa nở thì lớn bằng đồng 50 xu, có năm cánh y hệt mai vàng ở Việt Nam, lá xanh non to bằng bàn tay con nít 5, 3 tuổi. Lá cũng rất thưa, hoa rất đẹp, vàng trong như mai ngày tết. Khi nắng gắt, mầu vàng có đậm thêm tí chút, sáng hé nở, trưa ấm nở rộ. Chiều chiều hoa cúp lại ngủ, ngày mai sáng sớm lại mãn khai, thân cây hoa chỉ cao lắm là đến đầu em bé 5, 6 tuổi. Nên hoa và cây không che vướng tầm nhìn từ trong nhà ra ngoài trời. Chú Phương yêu quý những cây hoa đó lắm. Vun tưới thường xuyên. Hỏi tên hoa đó là hoa gì? Chú trả lời ngon ơ: Đó là hoa vông vang của Đỗ Tốn, Chúng tôi không nhớ và cũng không biết ông Đỗ Tốn là ai
Trong sự bồi hồi xúc động, tay bắt mặt mừng, họ được gặp lại để trò chuyện với những người họ hàng thân yêu, những bạn bè xa gần thân thiết, nhìn thấy tận mắt những làng xưa chốn cũ, nhớ lại những kỷ niệm êm đẹp từ thuở thơ ấu cho đến ngày tạm thời phải rời bỏ những nơi này ra đi, ôi biết bao nhiêu nỗi xúc động trộn lẫn niềm sung sướng vô biên, nói làm sao cho hết được.
Những yếu tố lôi cuốn du khách đi du lịch đến một đất nước bao gồm cảnh đẹp thiên nhiên, văn hóa, thành phố lớn với những lối kiến trúc độc đáo, cuộc sống sôi động, ẩm thực, hoạt động phiêu lưu, kỳ thú ngoài trời, những buổi hòa nhạc, thể thao, nghệ thuật, hay lễ hội, địa điểm hành hương tôn giáo, phương tiện giao thông, vấn đề an ninh và bình yên; trong văn hóa, yếu tố con người chiếm một phần rất lớn khiến du khách khi rời xa, vẫn lưu luyến muốn trở lại lần nữa.
Nếu quý vị độc giả nào đã đọc câu chuyện tình cảm éo le, oan trái tràn đầy nước mắt: "Thằng Cu Tí và Thằng Cu Tèo" và nếu quy vị nào chưa đọc, thì xin hãy mở Google.com sẽ thấy đế tài này thuật lại 2 vị cao niên về thăm VN để hưởng tuần lễ trăng thanh gió mát quê nhà, sau nhiều năm phải rời bỏ quê hương để sống tha hương ngàn trùng xa cách nơi đất khách quê người đi tìm sự tự do. Nay mới có dịp được quay trở về thăm quê cha đất tổ, đồng thời còn được thưởng thức những món ăn đặc sản quê hương
Tôi lắng nghe, ngạc nhiên nhiều hơn thương cảm. Một người như Tầm mà bị lường gạt về lãnh vực 'xương máu' của mình. Tôi có thể hiểu và cảm thông an ủi trong mọi hoàn cảnh đau buồn, thất vọng của người thân chung quanh. Nhưng tôi lại rất vụng về khi phải đề cập đến mọi giao cảm đối với những con số. Tôi không có duyên phận và chung đường với nó. Nên tôi chỉ biết yên lặng, chờ đợi.
Lúc xưa thật xưa, người Việt Nam ta có tục lệ bầy cỗ Trung Thu vào dịp tết trăng tròn tháng 8 âm lịch. Cỗ này thường để dành cho trẻ con, vừa vui Trung Thu, vừa ăn bánh vừa ngắm trăng tròn, sáng tỏ. Thường cỗ này gồm phần lớn là bánh Trung Thu, bánh dẻo bánh nướng và rất nhiều thứ trái cây, trái cây chánh là bưởi, bưởi hồng đào ngọt và tròn xoay như một vầng trăng. Ăn bưởi xong, có thể sâu hột trái bưởi, phơi khô đi sem sém, và có thể đốt hạt bưởi từng sâu như đốt nến, đèn cầy.
Tường Vi sinh ra lớn lên từ miền “quê hương em nghèo lắm ai ơi, mùa đông thiếu áo hè thời thiếu cơm”. Trước 1975, ba Vi có chức vụ lớn trong quân đội, làm việc tại Đà Nẵng cuối tuần mới ra Huế. Gia đình Vi ở bên kia bờ Sông Hương nằm trên đường Nguyễn Công Trứ, khu nhà vườn rộng mênh mông có bến sông sau, trước ngõ trồng hàng loạt hoa Tường Vi. Mẹ rất thích loại hoa này, nên đặt tên Vi giống loài hoa. Vi có bốn chị em gồm hai em trai (Vinh, Lộc) và gái út (Tường Như), Vi là chị đầu đàng. Năm 13 tuổi vì thi rớt nên phải học trường tư thục Bồ Đề đến năm lớp tám, ba Vi từ Đà Nẵng dẫn theo người thanh niên về Huế giới thiệu tên Sơn, ra Huế học đại học luật khoa, sẽ dạy kèm chị em, làm gia sư ăn ở trong nhà luôn. Vì tò mò hỏi mạ


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.