Hôm nay,  

Ký Ức Thuở Mộng Mơ

18/04/202014:52:00(Xem: 4604)
chandung_DML
Minh họa Đặng Mai Lan - Đinh Trường Chinh

 

Tôi tắt máy sau khi đọc lại một bức thư dài gửi cho một người bạn phương xa. Thật không ngờ  mình lại có thể ngồi gõ một khung thư lê thê,  tỉ mỉ bao nhiêu chuyện cho một người đằng đẵng nhiều thập niên chưa một lần gặp lại. Tệ hơn nữa, cái trí nhớ đã âm u mù mịt như sương cũng chẳng gợi lại một hình ảnh nào trong tháng ngày xa xưa có tôi và bạn. Một người bạn cũ nhưng lại đang rất mới.

    Tháng ba, dường như mùa đông chỉ mới bắt đầu sau một tháng thời tiết  ấm áp. Nấc đo màu đỏ của hàn thử biểu nằm trên dương độ và có khi vượt qua khỏi con số mười. Mọi người hân hoan cho rằng Paris năm nay không có mùa đông. Nhưng những cơn mưa ướt át, những luồng gió lạnh lẽo từ một cơn bão nào đó đã ào ạt thổi về trên phố từ mấy ngày nay.

    Con đường trước nhà lúc nào cũng vắng hay tôi chỉ nhìn thấy nó mỗi khi không còn ai. Thói quen trước khi vào giường ngủ và thức dậy khi đêm chuẩn bị tạ từ. Đèn vàng và sương mù, những ngôi nhà, cây cành đổ bóng ngoài khung cửa là nơi của quá khứ tôi, nơi hồi tưởng, dù vui dù buồn.

    Nhớ lại trong đêm nay… cả trăm điều muốn khóc1, một lời hát lấy từ một bài thơ của một nhà thơ quá cố mà tôi rất thích và tôi nghĩ đâu phải riêng tôi mới có cả trăm điều muốn khóc. Của chúng ta, bao người ly hương, làm gì lại chẳng có những đêm nhớ lại với trăm điều.

    Tôi đang nhớ tới những người bạn cũ. Những người bạn cách tôi bao nhiêu biển rộng nên đêm của họ là ngày của tôi.

    Thực ra chỉ cần nhấc điện thoại là nghe tiếng nói của nhau. Có thể bày tỏ một điều gì đó, chóng vánh. Nhưng chúng tôi chỉ trò chuyện bằng ngôn ngữ viết trên mặt phẳng. Thời đó, Viber và whatsApp chưa được thịnh hành. Nếu có, chắc hẳn chúng tôi cũng phải dùng đến những chương trình nhanh gọn này thôi. Bởi đời sống với những dòng chảy văn minh, con người cũng bị cuốn trôi theo, khó mà giậm chân tại chỗ hay ngược dòng khi đã trót lao mình trong dòng cuồng lưu hối hả.

    Email bây giờ hầu như chỉ dùng để gửi tài liệu, bài viết. Nhắn tin, thăm hỏi, trò chuyện dăm ba câu với bạn tôi thường dùng Viber. Người nhận chỉ cần nghe điện thoại rung lên một âm thanh rất nhẹ, mở màn hình ra là đọc tin nhắn ngay tức khắc. Bởi điện thoại di động bây giờ, hầu như gắn liền với con người như một phần thân thể. Đương nhiên chỉ là những câu ngắn ngủi, đôi khi là những emoji biểu lộ cảm xúc.

    Và có phải ngần ấy văn minh trên mạng lưới viễn thông đã khiến chúng ta hay riêng tôi bỗng trở thành cạn lời, mà ngôn ngữ chính là phương tiện bày tỏ tình cảm?

    Những người bạn xưa kẻ còn, người mất. Thời gian đã bào mòn, đã đẩy chúng tôi vào những hao hụt, chán chường, gần như lãng quên nhau. Cuộc vui chơi nào lại chẳng đến  hồi chấm dứt.

    Cái thú của mỗi tối đi làm về hay mỗi sáng thức dậy, mở máy nhận những trang thư hiện trên màn ảnh máy điện toán tưởng không còn nữa. Thế mà như thuở mới biết dùng email. Tôi đang lặp lại những thói quen cũ của ngày xưa với một người mà ký ức không gợi lên một nét chấm phá nào để tôi mường tượng về bạn, ngoài cái hành lang trước cửa lớp. Sân trường với con đường xeo xéo bên hông, có khu chợ ồn ào tấp nập. Một nơi lý tưởng cho các nữ sinh thích lê la ăn quà vặt của ngôi trường đó.

    Qua một tấm màn quá khứ của nhiều thập niên, bạn trở lại như một kẻ đang chơi trò cút bắt với tôi. Bạn đứng đâu đó tôi không thấy. Nhưng bạn đã vén cái  bức màn sờn cũ ấy để tôi nhìn lại tôi xưa. Và thêm một tương quan giữa bạn với một người tôi cũng chưa hề gặp mặt, làm tôi nao lòng thao thiết nhớ về những ngày có thể nói với tôi là những ngày tươi đẹp nhất. Ngày biết mê đắm một tiếng nói, một câu văn.

 

Tiếng nói

 

Tôi đang nhớ lại những đêm Sài Gòn.

    Xóm  đêm, các ngôi nhà đã then gài cửa đóng trong bóng tối im thinh, nhưng vẫn còn đâu đó những ngọn đèn toả sáng dưới những mái nhà ngủ muộn. Thỉnh thoảng có tiếng cười của ai đó đi về trong con ngõ.   

    Căn gác luôn được mở rộng bởi một cửa sổ có cánh là một khung kẽm sợi dầy, đan kết thành những mắt lưới tròn. Cửa được đóng mở bằng cách nâng lên hạ xuống cái khung lưới ấy. Từ khoảng trống đó có thể nhìn thấy cả một khoảng trời bao la phía ngoài. Lý tưởng cho những đêm trăng sáng hay những đêm mùa hè khi mà khí hậu tột cùng oi bức. Nửa đêm thức giấc hay trằn trọc, chẳng cần bật đèn đêm cũng có thể nhìn thấy mọi thứ đồ đạc trong phòng.

    Nhưng những đêm thứ năm, cái khung lưới ấy luôn được xập xuống. Cả bức màn vải bên trong cũng được kéo kín để ngăn chắn luồng ánh sáng hắt vào từ phía ngoài. Như thể bóng tối cũng là một cánh cửa của mỗi người thao thức được khép kín riêng tư. Sự khép lại, đắm mình trong bóng tối của chủ nhân căn  gác nhỏ này như chỉ để gìn giữ riêng cho mình một điều gì đó đắm đuối mê say, như nó chỉ là của riêng mình, phải nâng niu cất giấu.

    Kỳ thực, điều ấy chỉ là một khoảnh khắc thời gian. Mà thời gian nào có phải của riêng ai. Chỉ là một giọng nói, là những âm thanh được phát đi từ một làn sóng điện lan toả trong đêm, trên khắp mọi miền đất nước.

    Những đêm thứ năm hò hẹn, những phút giây hò hẹn của những người yêu nhau. Của tình đầu, tình xa, tình nhớ. Những ai đã yêu, chưa yêu cũng cảm ra được một thứ tình yêu vào buổi ấy dù chỉ bằng những lời nói, câu ca.

    Dù Sài Gòn chỉ có hai mùa mưa nắng, nhưng giọng nói dịu dàng ấm áp như chuyên chở thời tiết của bốn mùa. Mùa bàng bạc trong những bản tình ca. Tiếng xào xạc của những chiếc lá thu rụng đầy trên phố. Những sợi  mưa rơi ẩm ướt những thềm nhà, long lanh trên cây lá. Sương mù, bóng tối và những con đường có ai đó, đang chia tay ai. Nghe qua một giọng nói mà tưởng như có thể ngửi thấy cả mùi hương hoa trên cây, mùi cỏ dại bên đường. Vị ấm nóng của ly cà phê hay hương thơm khói thuốc trong góc quán đêm về.

    Tiếng nói không chỉ làm đêm thành phố êm đềm thơ mộng hơn. Những bài hát đã xoa dịu  đêm quê hương đầy ánh hoả châu, ấm áp đêm tiền đồn heo hút.

    Có bao nhiêu người đã thả hồn trong âm thanh ấy vào những đêm thứ năm như thế? Những đêm khó quên.

 

Văn chương

 

Giờ ra chơi, hành lang trước lớp nhìn như là một trung tâm văn hoá.

    Đông-Tây gặp gỡ với những cuộc họp mà hội viên tham dự đông lắm chỉ chừng năm sáu người. Các cô trường Tây hỏng tú tài Tây, đổi qua trường Việt học ban C, hòng lấy nhiều điểm về sinh ngữ để bù đắp lại các môn yếu kém thì chuyền tay nhau những tạp chí như Salut Les Copains, Elle...

    Các anh, các chị lớn thì nào Bách Khoa, Khởi Hành, Thời Tập…

    Đề tài hội họp là những cuốn phim vừa được trình chiếu ở trời Tây. Là những cuốn sách vừa được giải Nobel. Những cuốn sách mới phát hành, được dịch ra từ tác phẩm của những đại văn hào, triết gia nào đó, ở những nơi xa xăm ngàn dặm.

    Những cô cậu học trò thanh xuân phơi phới, đang đặt những bước chân non nớt vào cõi chữ nghĩa Hàn Lâm này hầu như đã quên mất những bài văn chương chữ Nôm, quên mất Lê Thánh Tông, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Cao Bá Quát..., quên mất Phạm Quỳnh, Nhất Linh của Nam Phong Tạp Chí, Tự Lực Văn Đoàn  trong những bài Cổ Kim, hay những bài nghị luận văn chương mà có thể họ đã chăm chú lắng nghe thầy giảng trước đó không lâu.

 

    Nhưng ngoài những những âm thanh cuồng nộ2, những xao xuyến của một thời để yêu và một thời đã chết3 hay là cái giờ thứ hai mươi lăm4 bi thảm một đời người, với ngàn cánh hạc5,  thì ở một góc khuất trong một lớp học có dăm ba mái tóc dài kề cận, chuyện trò. Các cô gái cũng  đang trao gửi cho nhau từng câu văn của một cuốn sách. Họ bị cuốn hút, đắm mình vào không khí, thổ ngơi của truyện, vào thứ chữ nghĩa đầy thơ mộng, linh động. Họ tưởng như mình đang sống thở ở nơi chốn ấy, một Đà Lạt rất thật, rất gần. Ngay cả thấy mình trong tâm tư, tình cảm của nhân vật. Bởi nhân vật là tôi, là một cô gái.

    Những thiếu nữ đang khám phá từng cái đẹp trong ngôn ngữ, tiếng nói của quê hương.

Faulkner, Erich Maria Remarque, Gheorghiu hay Kawabata và những chân trời xa lạ, đối với họ chẳng là gì hết.

 

Khuya, tôi trở dậy xuống vườn sau nhà ngồi. Chiếc ghế gỗ ẩm sương và cây lựu trên đầu quệt những chiếc lá ướt vào mặt. Có lẽ mẹ tôi cũng không ngủ được, nên nghe tiếng chân tôi xuống vườn, một lát sau tôi thấy bà ra theo. Tôi hỏi, mẹ không ngủ à ? Bà ngồi xuống sát bên tôi bảo, mẹ nghe tiếng chân con ra đây. Trời lạnh làm tôi nhớ tới bà bạn trên Đà Lạt. Tôi kể chuyện bà bạn với mẹ tôi. Tôi nói và cầm lấy bàn tay bà. Bà quàng tay ôm lấy vai tôi. Những ngón tay bà quả đã bắt đầu khô, nhăn. Hơi ấm của người bà truyền sang tôi cùng với cái mùi vị đặc biệt, cái mùi của mẹ, tôi đã không được ngửi thấy từ bao nhiêu năm. Ngày còn bé, khi mẹ tôi mới bỏ đi, nhiều đêm tôi đã khóc vì nhớ cái mùi đó, cái mùi đã cho tôi những giấc ngủ êm đềm. Từ khi tôi không còn ngửi thấy nó, tôi cũng mất luôn những giấc ngủ ngọt ngào, buổi sáng thức dậy luôn thấy sợ hãi, cho đến ngày tôi đủ trí khôn thì tôi biết, nó là cái mùi của mẹ tôi, tôi thiếu cái mùi ấy chứ không phải là thiếu ngủ.

 

Người con gái cầm cuốn sách, giở từng trang dò kiếm và đọc lại cái đoạn mà có lẽ cô vừa mới đọc đêm qua. Giọng miền Nam nhưng khi cô đọc, đôi mắt miên man lướt theo từng câu từng chữ. Ngừng lặng đúng lúc như đang diễn tả một bài nhạc của một người am hiểu về nhạc lý, làm chơi vơi tâm tưởng những người bạn quanh cô.

    Đó chẳng phải là một cuốn sách duy nhất đã được đọc trong những giờ ra chơi. Nhưng những cô học trò hiện diện vào những buổi ra chơi của bao ngày tháng đó, chắc chắn sẽ chẳng bao giờ quên được cuốn sách và nhân vật nữ không tên, người con gái có một vết nám trên mặt. Cuộc sống của nhân vật nữ này có thể như là một hình mẫu, một giấc mộng tương lai, mà họ, những cô học trò ngoan hiền như chim non còn nằm trong tổ đã từng mơ được bay bổng, được sống những ngày đời như thế. Một đời sống tư lập, tự do đầy quyến rũ, không nằm trong lệ ước của đời thường.

    Một trong những thiếu nữ năm ấy chính là tôi.

    Chỉ là một đoạn văn, nhưng tôi đã cảm nhận thêm một thứ mùi hương khác. Khác với cái mùi của không gian-cảnh vật, của tình cảm yêu đương mà tôi hằng nghe diễn tả từ một tiếng nói trên đài phát thanh vào những đêm thứ năm. Cái mùi mẫu tử này ai lại chẳng từng hít thở, nâng niu bằng một cách nào đó trong đời sống. Cái mùi thiêng liêng, nồng nàn và ấm áp.

chandung_NDT

     Tôi biết đến nhà văn Nguyễn Đình Toàn qua tiếng nói, rồi đến văn chương. Dù cái  biết về  văn chương       thuở ấy chỉ là một “con đường” không dài, không ngắn mà đi qua là mãi hoài lưu luyến.

     Mãi mãi, cho đến tận bây giờ…

     Có những đêm mất ngủ, tôi vẫn tìm thấy lại mình của những đêm thứ năm xưa. Những đêm nằm cong        mình, đắm chìm theo tiếng nói, trong bóng tối của căn gác nhỏ.

     Chỉ là hồi tưởng, vậy mà tôi cũng tìm lại được cái cảm giác khi nằm nghe những bản tình ca, cùng với        âm thanh của gió, mưa, của tiếng lá khô rơi trên đường… Dù thứ cảm giác thuở ấy chỉ là sự mường tượng,    dù thực tại bên ngoài ngập đầy băng tuyết của mùa đông.

     Vẫn nhớ chiếc radio xinh xắn như một hộp bánh biscuit hình chữ nhật bằng nhựa cứng màu hồng pha        trắng, mà  trên mặt có khắc một hàng chữ: Chính phủ quốc gia Nhật Bản kính tặng những chiến sĩ của          quân lực Việt Nam Cộng Hoà.

     Chiếc radio thời chiến chẳng phải chỉ dành cho những chiến sĩ nơi tiền đồn heo hút, mà cả người nhà          chiến sĩ là tôi  cũng may mắn được sở hữu.

     Vẫn nhớ đến hình vẽ trên một bìa nhạc mà tôi đã dùng để bọc cuốn nhật ký viết cho một người đã chết.

     Ngày thần tiên em bước lên ngôi, đã nghe son vàng tả tơi6 Chẳng có lời hát nào hay hơn mà tôi nghe      được năm tôi mười bảy tuổi.

     Bây giờ thì tiếng nói đã thành tiếng hát. Bàn tay ngồi viết từng trang sách giờ lướt trên những cung đàn.    Và văn chương làm rung động bao tâm hồn thiếu nữ thành những khúc bi ca, tiếng nói của kiếp người trên một quê hương khốn khổ.

 

Đêm quê hương, đêm treo trên một cành ngang

Chôn nhau xong làm dấu nhớ chỗ ai nằm

Cơn mưa giông, đêm qua đông trời lạnh lắm

Gió khắp bốn bề, cây rừng núi run hình bóng

Mai rạng đông đến lượt ai đem chôn

Cố thắp cho em một ngọn đèn

Bằng nhọc nhằn cay đắng

Của hình hài rã trong trại giam7

 

Tôi đã lắng nghe tiếng hát và bùi ngùi với những câu ca, trong những bản nhạc như thế. Cũng với bóng đêm, cũng là những khoảnh khắc một mình, hay những đêm trở giấc.

    Tôi vui mừng khi biết tiểu thuyết của nhà văn Nguyễn Đình Toàn được tái bản. Ngoài hai chữ “vui mừng” đơn giản nói lên cái cảm xúc của mình, không biết phải dùng từ nào khác cho đúng nghĩa.

    Hai cuốn sách dầy cả bảy trăm trang gồm sáu truyện dài. Có những truyện tôi chưa hề đọc, hay có đọc chỉ loáng thoáng đâu đó một vài chương.

    Có thể có những dòng chữ lôi cuốn hơn những gì tôi đã đọc ngày xưa. Nhưng khi cầm  hai cuốn sách đặt mua từ Amazon, cái trang đầu tiên tôi giở ra là tìm đến “con đường”, tìm đến đoạn văn tả về một đêm chia tay của hai mẹ con, của  người con gái có vết chàm trên mặt.

Tìm, như tìm lại đời mình những ngày tháng cũ tươi hồng.

    Nghĩ lại, tôi đã đến miền nam Cali rất nhiều lần, gặp bao nhiêu người trong giới văn nghệ sĩ. Sao chưa bao giờ tôi gặp được ông, nghe được cái tiếng nói mà không qua một âm thanh sàng lọc nào của máy móc.

    Bạn thân mến, tôi sẽ gửi cho bạn một điện thư để nói với bạn rằng, bạn hãy đi gặp ông ấy. Hãy nói với ông rằng, từ Sài Gòn tới Paris, gần cả nửa thế kỷ dài, có một người đã lắng nghe tiếng nói của ông và vẫn nghe mãi cho đến bây giờ. Mong ông nhiều sức khoẻ.

 

Đặng Mai Lan

 

 

1   Nhớ lại trong đêm nay (Nhạc Trần Duy Đức, phổ thơ Du Tử Lê).

2  The sound & the fury (Faulkner).

3  A time to love and a time to die (Erich Maria Remarque).

4  La vingt-cinquième heure (Constantin Virgil Gheorghiu).

5 Thousand Cranes (Yasunari Kawabata).

6 Tình khúc thứ nhất (Thơ Nguyễn Đình Toàn, nhạc Vũ Thành An).

7 Hãy thắp cho nhau một ngọn đèn (Nhạc và lời của Nguyễn Đình Toàn).

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Nhạc sĩ Hùng Lân mất vào ngày 17/9/1986 tại Sài Gòn. Hôm nay, ngày 17/9/2025 tôi nhớ tới ông. Tính ra đã 39 năm. Ba năm trước, tại nhà thờ Phanxicô Dakao đã có một lễ giỗ 36 năm ngày mất của ông. Linh mục Đỗ Xuân Quế, chủ tế lễ giỗ, đã nói trong thánh lễ: “‘Hôm nay là lễ giỗ thứ 36 của ông Phêrô Hoàng Văn Hương tức là nhạc sĩ Hùng Lân. Ông là người đáng cho chúng ta trân trọng và quý nhớ. Vậy chúng ta hãy cùng nhau cầu nguyện cho ông được vào nước Thiên Chúa. Nếu ông đã được vào rồi thì xin nhớ đến chúng ta là những người đang tiếp tục cuộc hành trình nơi dương thế đang hướng về Nước Trời.” Sau thánh lễ là chương trình tưởng niệm trong đó có tiết mục trình diễn nhạc của Hùng Lân, cả nhạc đạo lẫn nhạc đời. Người dẫn chương trình cho tiết mục này là nhạc sĩ Cao Huy Hoàng, đến từ Phan Thiết. Ông chia sẻ: “Nếu ngày ấy, thầy Hùng Lân qua đời, Chúa hỏi ‘nén bạc của ta đâu?’, thầy có lẽ không trả lời hoặc chưa trả lời kịp thì hôm nay, chúng ta có thể nhìn lại và thấy được rằng nén bạc của thầ
« Chưa gặp em tôi đã nghĩ rằng, có người con gái đẹp như trăng… khi gặp em rõ thấy một bà chằng! » … Chằng tinh, hay chằn tinh là một loài người hay cũng coi là một loài quỷ hung ác. Tùy vào hoàn cảnh, tùy vào người ta gặp, ta đối diện. Nay thế giới có nhiều loại chằn tinh, chằn ở trong mọi lãnh vực, chính trị, văn hoá, kinh tế, giáo dục và cả trong xã hội v.v…Do đấy, ta muốn tìm hiểu nguyên do chằn ở đâu ra. Hẳn là trong văn hóa Nam Bộ Việt Nam - Ấn Độ - Khmer…? Theo tác giả Huỳnh Thanh Bình, chằn là một loại sinh vật truyền kỳ, làm hộ pháp, canh giữ chùa, tháp, chánh điện phật giáo nam truyền và chiếm vị trí quan trọng trong văn hóa và tâm linh của người Khmer nam bộ, phổ biến trong kho tàng truyện kể dân gian và tuồng tích sân khấu của đa phần người Đông Nam Á.
Cả ông ta và tôi cùng cười xòa. Ui, mình đúng là đãng trí thứ thiệt. Phần Lan đã gia nhập Eurozone từ 1999 và dùng Euro ngay từ buổi đầu như những quốc gia thành viên khác. Ngày trước, nhắc đến những thủ đô bắc Âu, người ta thường nghĩ đến Oslo giàu có của Na Uy, Copenhagen trẻ trung của Đan Mạch. Giờ đây, Helsinki dần dà từng bước góp mặt vào danh sách những thủ đô được du khách ưa chuộng. Sức thu hút của thành phố ngày càng tăng. Từ 15 năm nay, Helsinki là một trong những thành phố tân tiến nhất Âu châu.
Bà xỏ chân vào đôi dép, lê lẹp xẹp vào buồng. Bà lấy ra một bịch nhựa trong đó đựng trăm thứ lặt vặt không ra hình thù gì. Bà nhìn trước, ngó sau như người ăn trộm. Chị mua ve chai đứng ở ngoài cửa bếp. Như một việc đã quá quen thuộc, chị đón lấy cái túi, móc vào cái cân xách. Trước kia chị phân loại giấy ra giấy, nhựa ra nhựa, nay thì hai bên đã thỏa thuận với nhau là có một cái giá trung bình cho toàn thể. Bà thì nhìn đăm đăm vào mớ hàng lặt vặt ấy như nhìn một thứ gì quý giá lắm. Mà không quý sao được, vì đó là kết quả của nhiều tuần bà lượm lặt và cất giữ.
Cho tới bây giờ, thỉnh thoảng trong giấc ngủ tôi vẫn nằm mơ tới chuyện thi Tú tài và giật mình tỉnh dậy, mừng húm mà mồ hôi vẫn đổ ra. Trong lần thi Tú Tài I, tôi đã thức đêm thức hôm học đến bị yếu phổi. Chữ “Tú Tài” nặng nhọc với tôi như vậy tuy nghĩa của nó là “đẹp đẽ, có khả năng, tài giỏi”.Ông Tú Xương có lẽ cay đắng với chữ “Tú Tài” không kém gì tôi. Ông vác lều chõng đi thi tất cả 8 lần, từ khoa Bính Tuất (1886) tới khoa Bính Ngọ (1906). Ba lần đầu ông đạp vỏ chuối, tới lần thứ tư, năm Giáp Ngọ (1894), ông mới vớ được cái Tú Tài nhưng là Tú Tài đậu vớt, chữ ngày đó gọi là “Tú Tài Thiên Thủ”. Ông chết với cái danh Tú Tài, chẳng bao giờ kiếm được cái “Cử Nhân” mặc dù vẫn cặm cụi đi thi.
*SONG THAO Tôi chừ chỉ chơi thể thao trên ghế sa-lông, ngồi coi người ta chơi. Thứ tôi coi người ta chơi là hockey, tennis và đôi khi bóng tròn. Mình không còn khả năng thì coi người ta chạy nhảy cũng là một cách chơi. Cách chơi biết mình biết ta. Các ông bạn tôi cũng chơi như tôi. Có điều mỗi người chơi theo ý thích riêng của mình. Ông Hoàng Xuân Sơn, ông Luân Hoán cũng na ná như tôi. Nhưng ông Luân Hoán hơi ngả về bóng tròn. Ông Hồ Đình Nghiêm máu mê hơn. Ông sa đà vào bóng tròn. Thời gian vừa qua, ông coi giò coi cẳng các nữ nhân tranh giải bóng tròn thế giới FIFA một cách mê mệt. Ngày ngày ông bá cáo bà con trên Facebook tường tận về từng cặp chân vàng mà trắng, cô nào đá hay, cô nào chụp banh giỏi, ông rành như có họ hàng thân thiết.
Bạn có thể xem bài này như truyện ngắn. Có thể gọi là nhiều truyện ngắn trong một truyện ngắn, hay là ghép từ nhiều mẩu truyện. Bạn cũng có thể đọc như tùy bút, hay bản tin, hay là vân vân... nghĩa là bất cứ những gì có chữ, có thể đọc lên, có thể nghe được như âm thanh. Đó là những gì tự nhiên hiện lên trong trí nhớ của tôi, những gì tôi bất chợt nghe bên tai khi ngồi bên sông, ven biển, góc rừng, hay khi nửa đêm nhìn ra hàng hiên.
Chẳng hiểu vì sao, vào lúc bắt đầu cảm thấy già, tôi lại lẩm cẩm đi tìm lại định nghĩa về chữ “bạn”. Bạn tôi là ai? Tại sao tôi lại kết bạn với họ? Lúc trẻ đã từng có một thời suýt bị vợ bỏ vì “lo cho bạn nhiều hơn cho gia đình”; nhưng khi đến độ tuổi “lục thập nhi nhĩ thuận” tôi lại đâm ra làm biếng gặp hầu hết những nhóm bạn từng một thời thân thiết.
Hôm đó, cô nhất định phải giết cây dạ quỳnh. Khi đêm tối bao phủ, cô sẽ ra tay. Lấy một con dao bén để xắt cành lá nó ra từng mảnh nhỏ. Lấy chai thuốc Draino loại hủy hoại rễ cây để ngâm hết các rễ của nó. Nó phải chết một cách tiệt tích, không còn một chút cơ hội nào sống sót. Nó phải bị phơi khô trên cao vì Quỳnh đụng đất sẽ có thể mọc lại. Cô biết, giết Quỳnh là mất đi tiếng nói vo ve chị em tâm sự. Cô đơn khi có Quỳnh sẽ thay vào cô đơn không có Quỳnh. Cô sẽ bắt đầu một cô đơn khác.
Càng lớn tuổi chừng nào, thì người ta lại thường hay nhớ tới những kỷ niệm trong dĩ vãng của mình nhiều bấy nhiêu. Nhất là những người cao niên đã về hưu, không còn bị ràng buộc bởi những công việc làm thường ngày của mình như trước kia, nên có nhiều thì giờ rảnh rỗi ngồi ở nhà một mình, để hồi tưởng lại những kỷ niệm buồn vui khó quên trong cuộc đời mình, rồi để có những lúc tâm sự cho nhau nghe lại những kỷ niệm khó quên này, trong những dịp tiệc tùng họp mặt bạn bè.
Lộc đã chết! Tích ngỡ ngàng khi nghe tin đó. Chàng không tin vào tai mình. Làm sao Lộc có thể chết được? Mình mới gặp anh ấy có tuần trước thôi mà! Trông anh còn khỏe mạnh, tự tin, tràn đầy sức sống. Vậy mà bây giờ anh đã không còn nữa. Cái chết của anh có cái gì đó không thật. Và có lẽ đó là lần đầu tiên Tích đứng trước nhận thức trực tiếp và thâm sâu về tính chất phi lý của một sự kiện quá bình thường trên đất nước chiến tranh này.
Từ giữa tháng Tám, trước ngày Lễ Labour Day, các trung tâm shopping đã rầm rộ quảng cáo “On Sale” cho mùa “Back To School”. Các con tôi đã lớn, qua rồi cái thuở đi sắm backpacks, tập vở, giấy bút, lunch bags, áo quần, nhưng lòng tôi vẫn nao nao bâng khuâng nhớ về những kỷ niệm ấy. Cũng có lúc tôi lại nh ... chính tôi, ngày xưa là cô giáo trẻ khi còn ở Việt Nam, và nhất là những tháng ngày ở trại tỵ nạn Thailand, làm cô giáo “đặc biệt” có những học trò cũng rất “đặc biệt”.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.