Hôm nay,  

Anh Thủy

25/04/202015:14:00(Xem: 5984)


 Dạo đó, đầu thập niên 70, dưới giàn hoa giấy, trong khoảng sân nhỏ nhà chúng tôi, thỉnh thoảng có những người lính thuộc mọi binh chủng của Quân lực VNCH. Họ ngồi hút thuốc, hay tay đàn miệng hát vì trong cư xá Đoàn Văn Cự ở Biên Hòa có khá nhiều chị  đang học lớp 12 rất đẹp. Nhà chúng tôi ở đầu cư xá nên các chị thường phải đi ngang nhà chúng tôi trước khi về nhà mình.


Anh Duy, nhà bên cạnh, là Thiếu úy của một đơn vị Bộ Binh của  Quân Đoàn 3. Anh hiền lành, ít nói, hay cười. Anh hy sinh vào ngày 30 tháng 4 năm 1975. Nghe nói, anh và cả tiểu đội của anh quây quần bên nhau thành một vòng tròn rồi rút chốt một trái lựu đạn vào buổi chiều ngày 30 tháng 4 khi hai mươi triệu người miền Nam vẫn tưởng mình đang sống trong một cơn ác mộng. Buồn thay đó là một cơn ác mộng có thật, kéo dài mãi đến hôm nay.


Cậu Quyền, em họ của Mẹ, là Trung úy Quân Cảnh.


Chú Hiển, em họ của Ba, là Thiếu úy Không Quân. Chú ngắn số nên tử trận rất sớm, ở tuổi 25, chưa kịp dẫn người yêu về ra mắt cha mẹ .


Anh Ân, cháu của một bác hàng xóm là lính Hải Quân, vẫn tay đàn, miệng hát bài "Hoa biển" rất hay.


Anh Thủy (cháu của bà Năm, vú nuôi đã giúp Mẹ tôi bồng bế chúng tôi từ lúc còn đỏ hỏn) là lính Thủy Quân Lục Chiến. Trên tay áo của anh có  đính một phù hiệu có chữ “Trâu Điên” và hình một con trâu với hai cái sừng to, đôi mắt đỏ ngầu đang đùng đùng nổi giận. Ấy vậy mà anh Thủy hiền khô. Sau mỗi lần hành quân, đơn vị được nghỉ dưỡng quân ở căn cứ Sóng Thần, anh được tự do vài ngày. Không đủ thời gian về thăm mẹ và các em ở Bồng Sơn, Quy Nhơn, anh Thủy về thăm dì Năm của anh, nghỉ tạm ở nhà chúng tôi.


Một vài ngày phép của người lính trận quý lắm, nhưng anh Thủy chỉ quanh quẩn trong nhà. Anh hỏi Mẹ chúng tôi:


- Cô có cần làm gì không, con làm cho


Mẹ nhẹ nhàng:


- Cô cảm ơn Thủy, việc nhà thì nhiều lắm, không bao giờ hết, nhưng con chỉ về phép có 3 ngày thì đi chơi cho biết phố phường.


Anh Thủy dạ dạ vâng vâng, rồi ra ngồi dưới giàn bông giấy bên hiên nhà tay đàn miệng hát, từ tân nhạc, qua cải lương.


Cái guitar thùng chúng tôi mượn được cho anh Thủy  từ nhà hàng xóm. Cái guitar đó là quà sinh nhật của bác Thịnh hàng xóm mua cho anh Duy khi anh lên lớp 12.


Cứ rảnh rỗi, sau giờ học, anh Duy lại đàn, bài tủ của anh là bài "Việt Nam quê hương ngạo nghễ" của Nhạc sĩ du ca Nguyễn Đức Quang. Anh là người hướng dẫn  anh chị em chúng tôi biết về phong trào du ca. Thi tú tài xong, anh Duy vào Thủ Đức, và biền biệt vì chiến trận. Anh để cây guitar lại nhà. Lâu lâu, chúng tôi lại chạy qua nhà hàng xóm mượn cây guitar về cho đủ các sắc lính "hải, lục, không quân" ghé nhà chúng tôi trong những kỳ phép ngắn ngủi, họ không thể về quê nhà ở miền Trung, hay trên cao nguyên đất đỏ "đi dăm ba bước đã về chốn cũ".


Lần này đến phiên anh Thủy gãy những nốt nhạc nhanh của bài hát quen thuộc trên chương trình "Tiếng nói Động viên" trên màn ảnh TV mỗi tối. Đây không phải là lần đầu anh Thủy đàn với cây guitar của nhà hàng xóm chúng tôi, nhưng chúng tôi vẫn theo thói quen  dặn dò anh: "Anh đàn, giữ cẩn thận nha, không thôi mai mốt anh Duy về phép, la tụi em, và không cho mượn đàn nữa."


Sau giờ học, anh cả của chúng tôi hay dẫn mấy anh bạn học, lớp 8, về nhà chơi. Một vài người trong số họ rất quý anh Thủy vì tuy anh mặc đồ lính Thủy Quân Lục Chiến rằn ri nhưng anh rất hiền, tương phản với vết xâm sóng biển và một cánh chim hải âu bay trên biển và bốn chữ "chim bay về biển" trên cánh tay bên trái của anh, trông rất "ngầu”..


Là con gái, tôi không tham gia chuyện "hỏi đáp thắc mắc về lính" của các anh lớp 8 với một người lính trẻ (rất là "hậu phương tiền tuyến đoàn kết một lòng") nhưng bàn học của chúng tôi nhìn ra hiên nhà dưới giàn bông giấy nên vẫn vô tình được "hóng chuyện":


- Anh Thủy ơi, đi lính cực lắm hả anh? Có gì vui không?


- Lính trận mà không cực thì đâu phải là lính nữa mấy em! Vui hả, có chứ nhưng vui thì chút chút thôi, mà buồn thì nhiều lắm.


- Anh kể chuyện tụi em nghe vài chuyện vui của lính .


- Giữa rừng sâu, hay trận mạc, mà có một điếu thuốc lá Capstan mà tụi anh  vẫn đùa là  "Cho anh phát súng tim anh nát" thì cũng vui như các em đi học mà được điểm 20 vậy. Hay như lúc một thằng bạn nhận được thư đào của nó, “vui quá hóa thành siêu nhân” xách ba lô giùm anh trong một cuộc hành quân giữa rừng phải leo lên một ngọn đồi nhỏ .

Nhưng vui nhất, vui cả tuần, là nhận được thư “đào” từ hậu phương. Nhiều khi cả tháng sau, tụi anh mới nhận được, khi nào có máy bay C130 mang đồ tiếp tế, mang theo thư của người nhà lên.


- Còn chuyện buồn thì sao hả anh?


Anh Thủy ngước mắt nhìn người hỏi, rồi hỏi ngược lại:


- Mấy giờ thì em phải về nhà? Để anh biết kể vài chuyện buồn thôi, chứ nếu kể hết chắc là tối nay em phải xin phép ba mẹ ở lại đây, và ngày mai phải xin phép nghỉ học.

Buồn da diết và buồn lâu nhất là phải sửa xác thằng bạn của mình ngay ngắn lại, thu xếp ba lô của nó để chờ trực thăng đưa về hậu cứ. Khi nào các em có cơ hội "bị" vuốt mắt một thằng bạn mới 22 tuổi của mình, thân thể vẫn còn nóng ấm, thì các em mới hiểu hết nỗi niềm của một người lính trận trong chiến tranh. Nhưng mà anh cầu mong lúc các em lớn lên thì nước mình hết chiến tranh, tụi em không bao giờ phải buồn như anh.


- Anh được về phép mà sao không đi chơi? Đi gặp “đào”?


- Con bồ của anh ở tuốt ngoài Bồng Sơn, Bình Định mà anh chỉ được có 72 tiếng phép, xin máy bay quân sự C130 thì đâu phải lúc nào cũng có, mà máy bay dân sự thì phải tốn tiền, mà anh đâu sẵn tiền. Tụi em không nghe câu "tiền lính tính liền" hả?


Một giọng khác vang lên trong đám bạn học của anh tôi, ngây thơ như tuổi của một học sinh lớp 8:


- Vậy chứ tiền lương của anh đâu?


Anh Thủy quay lại xoa đầu người vừa hỏi:


- Anh gởi về cho má của anh ở quê, chỉ giữ lại một chút đủ đi xe đò, và hút thuốc. 


Một câu hỏi khác vang lên, còn ngây thơ hơn:


- Ủa, ở trong rừng cũng có cách gởi lương về quê cho má của anh?


- Không, trong rừng chỉ có lá, có cây, có đất, có đồng đội, có kẻ thù VC. Nhiều khi cứ nghĩ là lính tráng tụi anh sinh ra để bắn nhau, bắn chậm là chết, quyết định sai lầm là "từ chết đến bị thương", quyết định đúng thì thắng, bởi vậy mới có câu ra trận là "một xanh cỏ, hai đỏ ngực", không có nhiều lựa chọn. 

Khi vô lính, anh có ký giấy yêu cầu mỗi tháng đến kỳ lương, đơn vị hậu cần gởi lương về cho má anh 90%, chuyển ra mặt trận cho anh chỉ 10% thôi. Vậy mà nhiều khi anh cũng khá "giàu có" vì có khi vài tháng không ra khỏi rừng, không rời trận mạc thì đâu có gì phải tiêu xài.


- Nếu được quay trở lại thời đi học như tụi em, anh có đi lính TQLC không?


- Nếu được như vậy, anh sẽ học giỏi hơn để ít nhất cũng vô được trường Thủ Đức hay Đà Lạt ra sĩ quan đỡ cực hơn, lương cao hơn. Nhưng anh cũng sẽ chọn đi binh chủng Thủy Quân Lục Chiến, tên anh là Thủy mà.


- Em tên Quân, nhưng mai mốt lớn lên em sẽ không đi Quân Cảnh, mà em sẽ đi Thủy Quân Lục Chiến giống anh vì em thích bộ quân phục rằn ri, và vì em muốn Việt Cộng không còn để khỏi có cảnh Mậu Thân 1968.


- Vậy thì ráng học giỏi để vô Đà Lạt hay Thủ Đức, lúc đó nếu anh vẫn còn sống sót, lành lặn, và nếu đất nước mình vẫn còn chiến tranh, thì biết đâu lúc đó anh sẽ là Chuẩn úy già làm cần vụ cho em. 

Mà anh em mình cùng cầu Trời khấn Phật cho sớm hết chiến tranh .


...


Những câu chuyện không đầu, không đuôi như vậy, được hỏi với cái ngây thơ của những nam sinh lớp 8, 13 hay 14 tuổi, (bạn học của anh cả chúng tôi), được trả lời với sự chân thật của một người lính trận thuộc binh chủng Thủy Quân Lục Chiến, bằng một cách nào đó theo tôi mãi đến bây giờ.


Dạo đó, tôi đã kể lại những điều mắt thấy tai nghe với Ba Mẹ trong bữa cơm tối. Còn nhớ đó là một buổi tối hiếm hoi Ba được về nhà trong những ngày cuối cuộc chiến.


Chúng tôi khờ khạo không hiểu là vì túi cạn tiền nên anh Thủy chỉ quanh quẩn trong nhà trong 3 ngày phép quý hiếm của một người lính trận. Nhưng Ba Mẹ thì thấy được lý do. Sáng hôm sau, ngày phép thứ hai của anh Thủy, Mẹ tôi bỏ ra  một ít tiền đủ để anh Thủy tiêu xài thoải mái trong hai ngày phép còn lại, và kín đáo nhờ bà Năm trao lại cho anh.


Không biết bà Năm đã khéo léo ra sao mà ngày phép thứ hai, anh Thủy rời nhà rất sớm, về  lúc tối mịt, và mang theo một số quà cáp.  Anh thì thầm với bà Năm trong một góc sân, rồi mang lên biếu Ba Mẹ tôi một hộp bánh kẹp “Bảo hiên rồng vàng”. Ban đầu Mẹ tôi không nhận , muốn anh gởi hộp bánh về cho Má của anh ở Bồng Sơn.


Đẩy qua đẩy lại, cuối cùng anh giao hộp bánh cho anh em chúng tôi. Bọn con nít chúng tôi thì không hề khách sáo, vòng tay cảm ơn, nhận liền. Gì chứ bánh hiệu "Bảo hiên rồng vàng" thì thuộc quà bánh ngon nhất nhì của tuổi thơ chúng tôi lúc đó.


...



Sáng hôm sau, anh Thủy đeo ba lô về căn cứ Sóng Thần trả phép, chuẩn bị cho một cuộc hành quân mới, với lời nhắn nhủ riêng cho anh tôi:


- Cho anh gởi lời tạm biệt các bạn của em. Lần sau, về phép, anh kể cho tụi em nghe nhiều chuyện hay hơn, vui hơn.


Nhưng mãi mãi chẳng có lần sau, vì lúc đó chỉ còn hơn một tháng là đến Tết Ất Mão 1975. Sau Tết con mèo năm đó, tình hình chiến sự xấu đi cho miền Nam trong cuộc chiến tranh ý thức hệ bảo vệ tự do. 


Chúng tôi không còn có dịp gặp lại anh Thủy, anh đã đi mãi không về, không về với Má và các em của anh ở Bồng Sơn, không về với cô người yêu từ lúc anh 19 tuổi, và không về được với lòng đất mẹ.


Cuộc rút quân theo lệnh của thượng cấp từ cuối tháng 3, sau Tết Ất Mão 1975 khoảng hơn một tháng, các đơn vị tổng trừ bị thiện chiến của Việt Nam Cộng Hòa, trong đó có cả Tiểu Đoàn 2 Trâu Điên một thời lẫm liệt của binh chủng Thủy Quân Lục Chiến phải lần lượt buông súng, rút quân lùi dần về Sài Gòn. 


Bà Năm, dì của anh Thủy, về quê ăn Tết từ tháng chạp, và không trở lại.

Chúng tôi, những đứa con nít của năm 1975, cũng bị cuốn theo cơn bão dữ của vận nước, cũng chịu cảnh nước mất nhà tan.


...


Tháng 5 năm 1983, trên đường theo Mẹ đi lên trại cải tạo Gia Lai Kontum thăm Ba lần cuối trước khi "vượt biển một mình", chúng tôi ghé ngang Quy Nhơn như là một nơi trung chuyển. Trên đường về, chúng tôi có ghé Bồng Sơn tìm thăm bà Năm. Bà đã qua đời. Chúng tôi có gặp Mẹ của anh Thủy và được biết anh Thủy cũng mãi mãi không về.



Mãi về sau, sau này, ở Mỹ, có cơ duyên được biết một số cựu Sĩ quan TQLC, chúng tôi dò hỏi, và tìm đọc các tài liệu quân sử một thời do những người lính năm xưa viết lại, và tưởng tượng được những ngày cuối cùng của anh Thủy.



Như kỷ luật tuyệt đối của quân đội, "làm trước khiếu nại sau", tháng 3 năm 1975, những người lính mũ xanh của lực lượng tổng trừ bị đang trấn thủ ở miền Trung bỗng dưng được lệnh rút quân. Họ tập trung ở bãi biển Non Nước, Đà Nẵng, để chờ tàu Hải Quân đến đón.


Tàu Hải Quân không thể cập sát bờ vì mực nước biển sáng hôm đó khá cạn. Những người lính TQLC lần lượt lội nước ra tàu. Vì có đến  hai Lữ Đoàn Thủy Quân Lục Chiến ở đó nên quân số lên đến cả mười ngàn người. 


Con tàu neo ở chỗ gần nhất có thể, từ sáng, để chờ những người lính mũ xanh. Không may, từ sáng đến chiều tối, thủy triều từ từ dâng lên, những người lính trẻ gần một ngày không được ăn uống, sức cùng lực tận, bị sóng biển cuốn trôi trước khi chạm được cửa tàu. Tất cả phao trên tàu được liệng xuống để tiếp sức cho những người lính đang nhấp nhô trên sóng biển, đánh vật với thủy triều đang lên, nhưng vẫn không thắng được định mệnh đen tối của họ, và của cả miền Nam 


Cái ngày cuối tháng 3 rất buồn năm đó, chỉ có khoảng sáu đến bảy ngàn người lên được tàu Hải Quân. Trên dưới một ngàn người còn ở lại trên bãi biển Non Nước. Nghĩa là hơn hai ngàn người đã mãi mãi nằm lại lòng đại dương, trong đó có anh Thủy.


Sau chiến tranh, chờ mãi không thấy anh về, Mẹ và các em của anh Thủy đi hỏi thăm đồng đội của anh và được kể lại nguồn cơn. Anh Thủy -đúng như tên anh, và như vết xâm định mệnh trên cánh tay anh "chim bay về biển"- đã ở lại ngàn đời với đại dương.


Hàng năm gia đình của anh vẫn mang lễ vật ra bãi biển Non Nước (Đà Nẵng) vào cuối tháng 3 dương lịch để nhớ đến anh, nhớ đến những người lính mũ xanh đã bỏ mình vào những ngày cuối cuộc chiến.


Xin được ghi lại chuyện  này như một nén hương lòng thành kính tưởng nhớ đến anh Thủy, đến đồng đội của anh, và tất cả những người lính Việt Nam Cộng Hòa đã "vị quốc vong thân"


Nguyễn Trần Diệu Hương

Tháng tư đen 2020

(Kính cảm ơn chú Mai Văn Tấn đã hướng dẫn "kiến thức TQLC" cho bài này)

 

Ý kiến bạn đọc
11/05/202015:18:21
Khách
Xin cảm ơn bài viết của cô Diệu Hương. Xin được phép chia sẻ trên mạng truyền thông xã hội.
26/04/202000:44:12
Khách
Cám ơn bài viết của Diệu Huơng khi ngay 30 tháng 4 sắp đến. Viết hay quá và hết sức cảm động làm ứa nước mắt.
Thuơng các anh chiến đấu quá giang khổ trong thiếu thốn cùng cực. Vận nước không may. Than ôi!

Vậy nên không thể lấy thắng bại để luận ANH HÙNG.
Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Chị nhớ lại, vào một buổi sáng ngày cuối tháng 1 năm 1973, khi Chị đi lấy bản tin ở bên Macv về cho AP, chị thấy sao hôm nay văn phòng đông thế. Ký giả của AP và cả của NBC News bên cạnh cũng chạy qua chạy lại, Chị nghe ông chánh văn phòng nói: Viêt Nam sắp ngưng bắn rồi, sắp hòa bình rồi…” Văn phòng Associated Press xôn xao, từ ông chánh văn phòng đến các ký giả, nhân viên của AP đều hứng khởi với cái tin “Nóng bỏng” này. Chị thấy các phóng viên của các hãng thông tấn, hãng truyền hình ngoại quốc chạy hối hả sang nhau và chạy qua cả đài phát thanh Quân Đội Việt Nam để cập nhật tin tức viết bài…
Chị đi bằng xe hàng. Là dân Đà Lạt gốc Huế nên chị gọi xe đò là “xe hàng”. Đi xe hàng, tức là xe đò, là xe chở người và cả hàng chứ không chở riêng hàng. Tiếng Việt hay như vậy đó! Đến Gò Công rồi đi xe lam vào Đồng Nguơn. Ấp Đồng Nguơn. Không phải đây là lần đầu tiên chị được thấy cảnh đồng quê. Đồng quê miền nam hầu như đâu đâu cũng giống nhau. Nhưng có đi nhiều mới thấy mỗi nơi có một chút khác. Phải thế không? Hay chính là cảm giác của chị mỗi lần một khác?
Tôi ước mơ có một ngày nào đó, khi thanh bình thật sự trở về trên nước VN, khi chính thể CS hoàn toàn tan rã, khi con người công chính trở lại làm nền tảng trong xã hội mới, chúng ta sẽ trở về, những ngưới bạn từ thời xa xưa, cùng nhau làm lại một bữa tiệc Tất Niên, mời vong linh các thầy, các bạn, các anh em đồng đội đã chết trong khói lửa chinh chiến, trong các biến cố tang thương của đất nước, trong các trại tù, trên biển…cùng nhập tiệc. Kẻ đang sống cùng người thiên cổ bên cạnh nhau hoài niệm đến một miền thùy dương ngọt ngào nhân tính, một ngôi trường thân yêu giàu truyền thống giáo dục và y đức, một thành phố mến yêu thơ mộng. Để nghe những người quá cố tâm sự về cái chết oan khiên của mình. Được như vậy, hương hồn các vị đó sẽ sớm được siêu thoát và vĩnh viễn an nghỉ chốn nghìn thu. Và chúng ta đây giảm khắc khoải đau thương…
Tôi đã có bốn cái Tết trong trại Panatnikhom và Sikiew, Thailand. Tết đầu tiên thật nhiều kỷ niệm và bất ngờ, vì lúc đó chúng tôi vừa nhập trại trong khi còn hơn một tuần nữa là Tết. Tôi và ba cô bạn đi chung chưa kịp gửi thư cho thân nhân ở nước ngoài để ca bài ca “xin tiền”. Ai lo bận bịu đón Tết thì lo, còn chúng tôi thì lo đi mượn tiền để mua vài vật dụng cần thiết như tấm trải nhựa, tre nứa, dây nilon để làm “nhà” (phải “an cư” mới “lập nghiệp” tỵ nạn được chớ).Khoảng một tuần trước Tết, có một nhóm mấy thanh niên đến thăm vì nghe nói chúng tôi là dân Gò Vấp, nên muốn nhận “đồng hương đồng khói”. Họ là những người trẻ như chúng tôi, nên câu chuyện mau chóng trở nên thân mật và rôm rả
Hỏi thăm ông Hai bán hoa lay-ơn gốc Bình Kiến, nhiều người ngơ ngác hỏi nhau. Tôi lại rảo qua thêm mấy vòng chợ hoa, cũng vừa đi tìm ông Hai, cũng vừa ngắm hoa và ngắm những chậu bonsai bày bán cuối năm, cũng tìm lại mình của gần 20 năm trước, năm nào cũng cứ vào những ngày này, tôi theo ba tôi hóng gió đón sương không hề chợp mắt cùng gian hàng cây kiểng rất bề thế của ba ở đây.
Có lẽ những rộn ràng, hân hoan nhất trong năm không phải là "ba ngày tết", mà là những ngày cận tết. Bắt đầu vào ngày 23 tháng chạp, tối đưa ông Táo về trời. Tất cả mọi sinh hoạt đều hướng về việc chuẩn bị để đón một mùa xuân mới, chào đón nguyên đán và mấy ngày xuân trước mặt. Lúc nhỏ là mùi vải thơm của bộ đồ mới, mùi gạo nếp ngâm cho nồi bánh và hương thơm ngào ngạt cho sàng phơi mứt dừa, mứt bí, mứt gừng ngoài sân. Những đêm ngủ gà ngủ gật ngồi canh bên nồi bánh tét cùng với má, với gia đình xúm quanh. Mùi bếp lửa, mùi khói hương, mùi áo mới lan tỏa của tuổi thơ ngan ngát những ngày xa...
Người ta được nuôi lớn không chỉ bằng thức ăn, mà còn ở lời ru, tiếng hát, và những câu chuyện kể. Chú bé cháu của bà thích được bà ôm vác, gối đầu lên vai bà. Có khi bà mở nhạc từ chiếc nôi cho chú nghe thay cho lời hát, chiếc nôi chú bé đã nằm khi mới lọt lòng mẹ. Có khi bà hát. Bà không ru à ơi, nhưng âm điệu dân gian len vào trong từng lời hát. Chú bé mãi rồi ghiền nghe giọng hát của bà.
Lóng rày tôi hay tẩn mẩn viết về những hồi tưởng tuổi thơ, nhất là những côn trùng ngày xa xưa đó như chuồn chuồn, bươm bướm, ve sầu, dế mèn…Nhiều lúc ngồi nghĩ lẩn thẩn: tại sao vậy? Chắc đó là tâm trạng của người tuổi sắp hết đếm số, tiếc nuối những khi còn cắp sách tới trường. Cắp sách tới trường không phải là chuyện vui nhưng tuổi học trò thì vui thật. Lúc nào, khi nào, chỗ nào cũng toàn thấy chuyện vui chơi. Bạn chơi là người nhưng nhiều lúc là những côn trùng quanh quẩn bên người. Một ông bạn mới gặp nhướng mắt hỏi tôi viết về những bạn chơi nhiều hơn hai chân nhưng chưa thấy nhắc tới bạn của ông ấy. Đó là bọ ngựa. Ông này thuộc loại rắn mắt. Tôi không chung tuổi thơ với ông nhưng chắc ông cũng thuộc loại phá làng phá xóm. Ông kể chuyện ăn me chua trước mấy ông lính thổi kèn trong hàng ngũ khiến mấy ông thợ kèn này chảy nước miếng thổi không được. Tôi thuộc loại hiền nên không có bạn không hiền như bọ ngựa. Ông ta thì khoái bọ ngựa.
“Mày có vợ hồi nào vậy?” chưa kịp chào, mẹ đã ném ra câu hỏi bất ngờ. Tôi lặng thinh. Cục nghẹn trong cổ họng. Tiếng mẹ đã khàn nhưng nghe vẫn quen, vẫn gần gũi, nhưng đặm chút ngạc nhiên và thấp thoáng chút phiền muộn. Hệt như lần hỏi tôi mười mấy năm trước rằng Sao con trốn học. Đường dây điện thoại chợt kêu ù ù, như thể có máy bay hay xe vận tải cơ giới hạng nặng chạy qua chỗ mẹ đứng. Cũng có thể tại tai tôi ù. Tôi cũng không chắc lắm. Giọng nói mẹ chìm vào khối tạp âm hỗn độn. Mẹ lặp lại câu hỏi trong tiếng động cơ rì rầm. Rồi tất cả im vắng bất ngờ. “Hở con?” Mẹ nói.
Bê, con trai của Mẹ, đã theo Mẹ đến giảng đường từ thuở còn trong bụng Mẹ. Suốt thời gian đại học của Mẹ, Bê có nhiều đóng góp khác nhau theo từng thời kỳ. Khi Mẹ làm bài kiểm tra môn Đầu Tư và Tài Chính trong lục cá nguyệt đầu tiên, Bê mới ba tháng tuổi. Mẹ nhẩm tính, bài thi một tiếng rưỡi, đi về từ nhà đến trường thêm một tiếng rưỡi. Như vậy, Bê phải xa Mẹ ít nhất ba tiếng đồng hồ. Mẹ biết tính Bê, mỗi hai tiếng đồng hồ Bê oe oe đòi bú sữa Mẹ. Bê xấu đói lắm, đòi mà không được, Bê nhăn nhó um sùm. Ngày hôm đó, dì Thành đến giữ Bê. Dì Thành rất hồi hộp. Dì chưa có em bé, chẳng biết phải làm sao cho đúng ý Bê. Mẹ thi xong, phóng ra xe về nhà. Mẹ bắt đầu sốt ruột. Mẹ xa Bê đã hơn ba tiếng đồng hồ. Giờ này Bê chắc Bê đã thức giấc. Hy vọng Bê chịu khó nhâm nhi món trà thảo dược cho trẻ sơ sinh trong khi chờ Mẹ về. Thời đó chưa có điện thoại di động. Bởi vậy, có lo cũng để bụng, chứ Mẹ chẳng biết làm sao. Mẹ ba chân bốn cẳng chạy ba tầng lầu. Vừa đến cửa đã nghe tiếng Bê khóc ngằn ngặt.
Khi chơi những bản nhạc hay, Khang khóc theo giai điệu. Mước mắt chảy, tay kéo tình xuống lên, thân hình diệu dẻo theo cảm hứng. gần như mê cuồng, không biết mình là ai. Tôi cảm nhận được cái hay xuất thần nhưng không hiểu. Khang nói: -- “Cậu Út biết không, cái hay của âm nhạc làm cho lòng sung sướng nhưng cái đẹp của âm nhạc làm cho hồn cảm động. Khi món quà quá lớn, quá sức yêu, không thể cười, chỉ có thể khóc.” Tôi nghĩ, những lúc như vậy, Khang không chơi đàn, mà múa với hồn oan.
Tôi làm việc giữ xe cho một casino ở ngoại ô Toronto, gọi là parking attendant. Đó là nghề mà thanh niên ít chịu làm, phần vì lương thấp, mức tối thiểu, hồi đó 5 đồng một giờ, nhưng lý do chính là vì nó buồn. Bãi đậu xe nằm dưới hầm tối, không nhìn thấy người qua lại, nếu ở ngoài trời cũng sau lưng nhà cao tầng. Không ai làm chỗ đậu xe ở khung cảnh xinh đẹp, nơi ấy dành cho hàng quán. Đi học ban ngày, tôi làm thêm ban đêm là việc thích hợp, có thể thỉnh thoảng ngồi học bài. Nhân viên trong phiên gác trước tôi là cô gái bằng tuổi hoặc cùng lắm lớn hơn một hai tuổi, nhưng không hiểu sao cô vẫn có thói quen gọi tôi là em và xưng chị.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.