Hôm nay,  

Vesak

03/05/202014:23:00(Xem: 3346)


 Bầu trời đen kịt, từng lằn chớp loé lên chằng chịt rạch nát không gian, những tia chớp xanh lè bén như lưỡi đao truỷ thủ mà laị nóng kinh hồn, hễ phóng đụng vật gì thì vật ấy cháy và nát ra. Sấm đì đùng động đến tận đường địa ngục, sấm bổ tan cả đá, đánh vỡ những gì cản đường của nó. Gió giật từng hồi, thổi tung tất cả những vật trên đường đi, cả đất trời như tận thế. Các vị thiên sợ sệt, khép thân không dám nói lời nào. Giọng Ma Hê Thủ La Thiên Vương rền vang át cả tiếng sấm:

 - Ta là chúa tể của vũ trụ, sức mạnh vô song, quyền lực vô biên, không có ai sánh bằng ta. Kẻ nào chống laị ta tất phải chết, ta thống trị vũ trụ này tám vạn đaị kiếp. 

 Y dứt lời thì từng bựng lửa lớn phừng phừng bốc lên, hỏa diệm sơn phun khói lửa ngất trời. Sóng từ bốn biển ầm ầm nổi, những cơn sóng thần cao vượt mọi thành trì có trên mặt đất. Đám ma quân rung rung kéo đến, hình thù quái dị, gớm ghiếc. Chúng nhe nanh, múa vuốt, nhảy múa reo hò ầm ĩ. Tên đầu đảng hét lên:’ 

 -  Này Cồ Đàm, tại sao cứ ngồi mãi ở đây? Hãy về với cung vàng điện ngọc, ở đấy ông có tất cả: địa vị cao quí, tiền của phong lưu, vợ đẹp con xinh, rượu ngon gái đẹp… và bao nhiêu thú vui tiêu khiển khác, tất cả cung phụng ông! cớ sao ông đến ngồi dưới gốc cây này để nhận lấy bao nhiêu khổ nhọc? 

 Thích Ca Mâu Ni vẫn lặng im bất động, ngài ngồi như thể núi non, vẻ mặt bình thản không một gợn ưu tư. Bọn ma quân thấy thế càng tức giận sục sôi, chúng phun lửa toan đốt ngài nhưng lửa không chạm được đến thân. Chúng laị dâng nước, hòng cuốn trôi ngài  nhưng nước bốc hơi. Chúng lại làm ra động đất, định chôn vùi ngài nhưng cơn chấn động loang đến gần ngài thì tự khắc tan. Dùng bao nhiêu phép thuật mà không làm gì được, hết cách chúng hậm hực bỏ đi. Bây giờ xuất hiện vô số ma nữ, mắt đẹp mày xinh, thân hình lõa lồ uốn éo, chúng múa may ca hát và dở trò mơn trớn, vuốt ve dụ khị:

 - Ngài còn trẻ, sức lực sung mãn, thân hình tráng kiện, tinh thần minh mẫn… sao không hưởng lạc thú của cuộc đời? cớ sao từ bỏ những lạc thú? cớ sao sống khắc khổ, hành xác  như thế? chúng em sẵn sàng hầu hạ ngài, đem laị cho ngài  những phút giây hoan lạc nhất của kiếp người. 

 Thích Ca Mâu Ni vẫn an nhiên bất động, gương mặt sáng như trăng rằm, an hoà từ tốn mà khí lực ngất trời. Giở đủ trò khêu gợi mà không lung lạc được Thích Ca, bọn chúng hết cách và tự tan biến như bóng đêm lúc bình minh lên. 

 Sao Mai lấp lánh trên bầu trời, đêm chuyển dần về sáng, một làn sóng an hoà, khoan khoái lan tỏa trong đất trời, quang minh bừng lên, mặt đất chấn động sáu cách. Ngài thoáng mỉm cười, nụ cười nhẹ như gió thoảng, như cánh hoa mạn thù sa, hoa mạn đà la bay trong hư không. Thế rồi ngài lên tiếng sau bốn mươi chín ngày thiền định dưới cội cây:

 - Hỡi gã thợ làm nhà kia, ta đã lang thang bao nhiêu kiếp để tìm ngươi, nay ta đã gặp. Từ đây bao nhiêu cột, kèo, rui, mè… gãy tan hết! Từ đây vĩnh viễn không còn luân hồi sanh tử nữa, đây là kiếp chót của ta.

 Ngài đã chứng tam minh, lục thông. Chư thiên từ các tầng trời hoan hỷ vây quanh rải hoa cúng dường Phật, bậc chánh đẳng chánh giác. Đất trời rạng rỡ trong năm sắc màu quang minh vô cùng kỳ diệu, muôn hoa khoe sắc, chim hót véo von… muôn thú cùng các loài vây quanh. Hào quang của Phật soi đến ba ngàn thế giới. Ánh sáng chiếu vào cung điện Ma Hê Thủ La Thiên Vương, y giật mình kinh sợ, không biết ánh sáng từ đâu mà rực rỡ như thế, hơn cả quang minh nhật nguyệt và tinh tú. Vũ trụ sáng lạn, ánh sáng nhu nhuyến, ôn hoà làm cho chúng thiên nhơn đều thấy tâm thần lắng dịu, khoan khoái. Y dùng thiên nhãn nhìn thì thấy Thích Ca Mâu Ni đã thành chánh đẳng chánh giác dưới cội cây bồ đề. Đây là lần thứ hai quang minh và chấn động làm rung rinh cung điện của y. Lần thứ nhất, cách đây hai mươi chín năm, khi bà Ma Gia phu nhân hạ sanh Tất Đạt Đa ở vườn Lâm Tỳ Ni. Năm ấy y đã kinh sợ và bất an, y biết rồi đây sẽ có người vượt hơn ngôi vị thiên chủ của y, sẽ có quyền lực lớn hơn y… càng nghĩ y càng lo lắng, y bèn tìm đến chỗ đức Phật đang thiền định

 - Này ông Cồ Đàm, ông có quyền năng lớn hơn tôi chăng? Tôi có thể biến thân to như núi Tu Di, vậy ông có thể làm như thế không?

 Thế Tôn từ tốn bảo y:

 - Ta không có quyền năng, ta không phải là thượng đế hay thánh thần, ta laị càng không dùng đến pháp thuật biến hoá. 

 - Vậy sao ông có thể tạo ra quang minh và chấn động cung điện của ta và cả ba ngàn thế giới?

 - Ta chẳng có ý làm thế, tự nhiên thế thôi.

 - Ông không thể tranh ngôi thiên chủ với ta được đâu!

 - Ta chẳng thèm cái ngôi thiên chủ ấy, chư thiên cũng không ngoài vòng sanh tử, bản thân ngươi dù có thọ tám vạn đaị kiếp rồi khi hết phước vẫn đọa như thường. Chắc ngươi cũng đã từng nhiều lần chứng kiến năm tướng suy hao của chư thiên khi hết phước?

 - Đúng thế, tôi đã vô số lần thấy năm tướng suy hao, vậy ông đã vượt qua sanh tử rồi chăng? 

- Không sai, đây là kiếp chót của ta! Ta đến thế gian này để dạy chư thiên, phi nhân và con người con đường vượt qua khổ đau, ra khỏi luân hồi sanh tử.

 - Tôi là Ma Ha Thủ La Thiên Vương, là chủ tể vũ trụ, không có ai lớn hơn tôi, không có ai mạnh hơn tôi, quyền lực của tôi vô biên, tôi sống tám vạn đaị kiếp. Còn ông, ông bảo không có pháp thuật quyền năng gì, vậy sao ông có thể thoát ra khỏi sanh tử luân hồi? 

 - Ta đã thực hiện thiền định, thanh lọc tâm ý. Ta đã buông xuống mọi ràng buộc của ngũ dục lục trần, cấu uế phiền não, lìa ly cấu, không còn dính mắc bụi trần, lậu hoặc đã đoạn, vô nhiễm ái dục… nên tự nhiên lià khỏi sanh tử luân hồi. Ta có nhiều pháp môn, tùy theo căn cơ của chúng sanh mà giáo hoá!

 Nói xong, Thế Tôn đứng dậy đi đến vườn Lộc Uyển. Năm anh em Kiều Trần Như vừa thoáng thấy Thế Tôn, họ  định bỏ đi, tâm ý các vị ấy cho là Thế Tôn không còn chịu nổi khổ cực để tu hành nên có ý coi thường. Họ định bỏ đi nhưng không sao đi được. Sắc tướng của Thế Tôn quá tuyệt hảo, bọn họ chăm chăm nhìn, lòng đầy ngờ vực. Thế Tôn vào giữa vườn, bọn họ tự nhiên sụp lạy đảnh lễ mà không hiểu vì sao. Thế Tôn ân cần nói pháp cho bọn họ, lần thứ nhất ngài nói:” Đây là khổ tính bức bách, đây là tập tính chiêu cảm, đây là đạo tính có thể tu, đây là diệt tính có thể chứng”. Lần thứ hai ngài bảo:” Đây là khổ ta đã biết, đây là tập ta đã đoạn, đây là đạo ta đã tu, đây là diệt ta đã chứng”. Lần thứ ba ngài dạy:” Đây là khổ các ông nên biết, đây là tập các ông nên đoạn, đây là đạo các ông nên tu, đây là diệt các ông nên chứng”. Chuyển pháp ba lần rồi ngài gọi:

 - Này các ông, các ông bị khách trần quấy nhiễu nên không thể chứng đắc! 

 Kiều Trần Như nghe đến đây lập tức khai ngộ, sau đó chứng đắc trở nên giải không đệ nhất. Bấy giờ chư thiên khắp các tầng trời rải hoa cúng dường, Càn Thát Bà tấu nhạc, vô số hương chiên đàn và các loại hương khác xông lên. Ma Hê Thủ La Thiên Vương thấy thế thì bao nhiêu kiêu hãnh tan biến, tâm ý y như căn phòng tối được ánh dương chiếu soi. Y sụp lạy đảnh lễ Thế Tôn. Y cầu xin sám hối và phát nguyện sẽ đời đời hộ trì chánh pháp. 

 Thế rồi chánh pháp của Như Lai như ngọn hải đăng soi rọi thế gian này, người người quay về nương tựa, hàng trời người đều được lợi ích lớn lao. Một số vượt thoát sanh tử luân hồi, vô số khác thì sống trong tỉnh thức, thúc liễm thân tâm, tinh thần an lạc, buông bỏ mọi phiền não, ràng buộc… Ma Vương Ba Tuần cảm thấy quyền lực của y bị lung lay nghiêm trọng. Con người trên thế gian và bao chúng sanh khác đều do y cái quản xưa nay, nay họ tu theo chánh pháp nên lần lượt thoát sanh tử, vượt qua sự cương toả của y. Lòng y bất an và giận dữ. Y tìm đến chỗ Như Lai gây nhiễu sự:

 - Bao nhiêu chúng sanh do tôi cai quản, nay bọn họ tu theo chánh pháp của ông, bọn họ vượt thoát sanh tử, những kẻ còn laị cũng sống an lạc, không còn chịu sự khống chế của tôi, quyền lực của tôi bị ông phá hủy. Tôi sẽ phá chánh pháp của ông! 

 Thích Ca Mâu Ni điềm nhiên bảo:

 - Tà không thể thắng chánh, ngươi không thể nào phá được chánh pháp của Như Lai! 

 Ma Vương Ba Tuần cười nham hiểm:

 - Được rồi, tôi sẽ chờ đến thời mạt pháp. Tôi sẽ cho con cháu của tôi khoác cà sa. 

 Nghe thế, đức Thế Tôn trầm ngâm không nói một lời nào nữa. Ngài biết y nói đúng và y sẽ làm thế, trí huệ của Như Lai biết chuyện vốn sẽ là như thế, không thể nào khác đuợc, cũng không thể làm gì hơn. 

 Dòng đời biến thiên thịnh suy liên lỉ, dòng thời gian trôi không ngừng, chẳng mấy chốc đã đến lúc Thế Tôn nhập niết bàn. Ngài nằm giữa hai hàng cây Sa La. Hàng tứ chúng vây quanh buồn bã, rơi lệ. Chư thiên hội tụ về, sầu đau hiện rõ trên gương mặt. Ma Hê Thủ La Thiên Vương qùy tâu:

 - Bạch đức Thế Tôn, ngài vào niết bàn vô dư, chúng con bơ vơ không nơi nương tựa biết làm sao đây?

 Đức Phật dạy:

 - Như Lai vì một đaị sự nhân duyên mà ra đời, chỉ dạy chúng sanh nhập tri kiến Phật. Nay Như Lai vào niết bàn nhưng chánh pháp còn đó cho đến khi có một vị Phật khác ra đời. Các ông cứ y theo chánh pháp mà hành thì cũng như Như Lai còn taị thế! 

 Ma Hê Thủ La Thiên Vương laị tâu:

 - Bạch đức Thế Tôn, chúng con xin vâng lời, xin nguyện hộ trì chánh pháp của Như Lai, hộ trì tất cả những ai hành đúng chánh pháp của Như Lai. 

 Ngài A Nan quỳ bên Thế Tôn, buồn rầu thưa:

 - Bạch đức Thế Tôn, Thế Tôn vào niết bàn rồi thì ai làm thầy chỉ dạy chúng con? 

 Đức Phật ân cần:

 - Hãy lấy giáo giới làm thầy, các ông tự thắp đuốc lên mà đi! 

 Thế Tôn vào niết bàn, chánh pháp được các đồ đệ mang đi giáo hoá bốn phương trời, hoằng hoá độ vô số chúng sanh, tuy nhiên càng về sau thì có nhiều hiện tướng suy hao, hư hoại và thêm bớt những cái vốn không có của thời chánh pháp và tượng pháp. Lời nguyền năm xưa của Ma Vương Ba Tuần đã ứng nghiệm, nhiều kẻ khoác cà sa nhưng làm việc ma, tuy hình tướng sa môn nhưng thực chất là con cháu của Ma Vương Ba Tuần. Chúng ngày đêm phá hoại pháp, lũng đoạn tăng đúng như lời huyền ký của Thế Tôn:” Sư tử trùng phàm thực sư tử nhục”. Tuy có phá hoại nhưng pháp của Như Lai vẫn tồn tại vững mạnh, vẫn là con đường duy nhất thoát khổ đau, thoát sanh tử luân hồi. Pháp của Như Lai chỉ mất đi khi nào có một vị Phật khác ra đời. 

 Thời gian như nước chảy hoa rơi, như vó câu qua cữa sổ, mới đó mà đã trải qua hai ngàn năm trăm sáu mươi tư năm, kể từ khi Thế Tôn thị hiện đản sanh ở quốc độ này. Vườn Lâm Tỳ Ni năm xưa vẫn còn những di chỉ của thế Tôn. Ngày nay tại cõi Nam Thiệm bộ châu có một xứ sở vô cùng giàu có, trù phú, cuộc sống phong lưu, dân tứ xứ kéo về. Hàng đệ tử của Thế Tôn cũng tìm đến lập đạo tràng giáo hoá chúng sanh. Hàng Thích tử đem giáo pháp của Thế Tôn dạy chúng. Có nhiều sắc dân xưa nay chưa hề biết đến Phật pháp, nhờ thế mà được lợi lạc lớn. Các xứ trong quốc độ ấy liên kết nhau, tạo nên một hội quốc liên nhằm đoàn kết hỗ trợ cho nhau, giúp nhau trong các vấn đề thế sự. Hàng năm, hội đồng của liên hiệp các quốc gia ấy cử hành trọng thể lễ kỷ niệm ngày đản sanh của Thế Tôn. Hàng Thích tử toàn thế giới họp laị chọn ngày rằm tháng tư làm ngày Vesak, kỷ niệm ba sự kiện lớn trong đời của Thích Ca Mâu Ni Phật, đó là ngày đản sanh, ngày thành đạo và ngày Phật nhập niết bàn. Phật thị hiện đản sanh và nhập niết bàn ấy là hoá thân, pháp thân Phật thì nào có sanh diệt, vẫn thường trụ khắp mười phương và hiện hữu cả quá khứ, hiện tại và vị lai. 

 New York, năm một ngàn chín trăm chín mươi chín, taị phiên họp thừ năm mươi tư đã đồng thuận chọn ngày rằm tháng tư âm lịch để kỷ niệm ba sự kiện quan trọng trong cuộc đời đức Phật Thích Ca, đồng thời tôn vinh những đóng góp cho hoà bình, văn hoá của Phật giáo. Một tôn giáo lâu đời luôn đề cao phẩm giá con người, tôn trọng sự thật, tràn đầy trí tuệ và tình thương.  

 

TIỂU LỤC THẦN PHONG

Ất lăng thành, 052020

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Mấy người khác đều thay nhau thử bồng nhưng đứa trẻ nhất quyết không chịu và cứ một mực đòi sư Khánh Vân. Sư Khánh Vân gọi chú tiểu Công Sơn lại bế thử thì người ta lại ngạc nhiên thấy đứa nhỏ nín khóc chịu cho bồng. Mọi người đều cười...
Năm tôi lên mười, O Xưa đã trên ba mươi. Ở con đường Nam Giao, thành phố Huế, từ đầu dốc tới cuối dốc, O Xưa đi lên đi xuống hằng ngày giống như một cái bóng, vì hình như O không sống với người. O Xưa sống với ma, người chồng ma của O vô hình, ở đâu đó, trên cây, trong cỏ, trên lá, trong vòm trời, trong bóng mây, O kể lể vậy. Có thể nhìn thấy O Xưa vào buổi sáng, vào giờ công chức đi làm, học sinh đi học và các bà nội trợ Huế ngồi xúm xít bên gánh bún bò ngon nổi tiếng của mụ Dục, bên gánh cơm Hến của mụ Khế, gánh bánh canh từ Nam Phổ của mụ Cau. Buổi trưa, lúc O Xưa đi từ trên con dốc xuống, đầu đội nón thì mấy bà nội trợ đang ngồi lê đôi mách với nhau ở cái quán tre đầu một con hẻm.
Với tôi, tháng Hai là tháng mùa đông tàn phai, chuẩn bị tâm hồn phơi phới cho những ngày sắp tới. Các bạn tôi giãy nảy lên, xúm vào bảo tôi “nói thách” sớm quá, vì tháng Hai vẫn là mùa đông, nhiệt độ vẫn ở độ âm dưới zero, tuyết vẫn rơi bao la, vậy tàn đông cái nỗi gì!
Hôm thứ Ba vừa rồi, vợ chồng tôi đến ga NTG đón hai mẹ con người bạn vào chơi trên chuyến tàu Bắc-Nam SE7 dự kiến sẽ đến ga lúc 9h15 AM, Chúng tôi ngồi ở phòng đợi cùng với những hành khách đón tàu xuôi các ga phía Nam...
Tôi đạp xe về nhà với cõi lòng lâng lâng. Chẳng biết từ lúc nào tôi đã thương mến thầm anh Phượng hàng xóm, anh hơn tôi chừng 7, 8 tuổi, hát hay đàn giỏi, thỉnh thoảng buổi tối anh ngồi trước cửa nhà đàn hát, tiếng hát ngọt ngào của anh đã rót vào trái tim 16 tuổi trăng tròn của tôi những tình cảm bâng khuâng. Anh đi lính, xóm vắng anh, vắng cả những đêm khuya tiếng hát tiếng đàn...
Ở vùng quê người ta vẫn dùng một vài thứ lá như lá vối, lá "ngấy" (không phải lá ngái), lá bò bò, dây lá nhãn lồng (có nơi gọi lá mắm nêm) kiếm từ rừng rẫy về xắt ra, phơi khô trữ từng bao để nấu uống dần thay lá chè (trà). Nước các thứ lá ấy ai cũng dùng được, cả nhà sẽ uống suốt ngày...
Tôi sắp kể một chuyện thật ghê sợ, kể một cách không màu mè. Tôi chẳng mong đợi ai tin chuyện tôi kể cả. Quả vậy, có điên mới mong như vậy, vì chính những giác quan thật của tôi cũng phủ nhận sự hiển nhiên này. Phải.Tôi không điên và chắc chắn là tôi không nằm mơ. Nhưng ngày mai tôi không còn sống, và hôm nay tôi phải cất đi gánh nặng này trong tâm hồn. Mục đích trước mắt của tôi là trình bày một chuỗi các sự việc một cách rõ ràng, ngắn gọn, không bình luận. Bởi hậu quả của nó, những sự việc này đã làm tôi hoảng sợ, đã hành hạ tôi, đã hủy hoại tôi. Sau này có thể ai đó điềm tĩnh hơn, có đầu óc lập luận hơn tôi và không dễ bị kích động như tôi, sẽ hiểu được trường hợp của tôi không có gì khác hơn là luật nhân quả thông thường và rất tự nhiên.
Tuổi học trò là tuổi mang nhiều kỷ niệm khôn nguôi. Chúng ta nghĩ về thuở xa xưa đó như nghĩ về sân đá banh, suối Đốc Học, suối Mu-ri (Maury), thác Nhà Đèn, hồ Piscine, hồ Trung Tâm hay cột đèn ba ngọn, kể cả con chim, con dế, một thứ keo dính chặt trong trí nhớ học trò...
Trực thăng vừa đáp, cánh quạt thổi cát bụi tung mịt trời, cỏ tranh bên dưới ngã rạp, thân dập dềnh như sóng. Thăng nhảy xuống trước tiên, đảo mắt quan sát chung quanh rồi quay người lại giơ tay cho Chinh bám lấy để bước xuống. Cũng chiếc máy truyền tin cũ đeo sau lưng, nhưng hôm nay có vẻ nặng hơn vì gương mặt Chinh đanh lại chứ không nhìn Thăng cười và khẽ gật đầu như những lần đổ bộ trực thăng trước. Chinh mang máy cho Thăng đã ba năm, đeo hạ sĩ gần một năm. Thầy trò đã kề cận, cùng vào sinh ra tử không biết bao nhiêu lần, chưa bao giờ Chinh biểu lộ sợ hãi kể cả những lúc nguy khốn nhất, bị địch vây hãm phải mở đường máu để triệt thoái...
Chiều hôm ấy, một buổi chiều cuối mùa Hè năm 1956, trước cổng trường Võ Tánh Nha Trang, Trọng nhìn theo mái tóc dài thả sau hai bờ vai và tà áo dài trắng, và gọi lớn tên nàng nhưng Thu Nguyệt vẫn lặng lẽ tiếp tục đạp xe đạp, không đáp lại lời kêu gọi của Trọng, ngay cả ngoái đầu nhìn lại nhau lần cuối...
Sau khi đưa được gia quyến sang Tàu, Trần Ích Tắc đã được Nguyên chủ Hốt Tất Liệt cấp một dinh thự tại Ngạc Châu để ở. Nguyên chủ cũng ban cho ông nhiều bổng lộc nên gia đình ông vẫn có một cuộc sống sung túc...
Chị Bông gởi tâm sự cho chị Ngân Bình phụ trách mục “Tình Chàng Ý Thiếp” của một tuần báo. Chị than thở chuyện tình cảm hai vợ chồng già nhà chị lúc nào cũng xung khắc cãi nhau. Ông ấy lát gạch vườn sau chỗ cao chỗ thấp làm chị Bông vấp ngã mấy lần đã không biết điều xin lỗi còn mắng vợ xớn xác. Chị Bông tiết kiệm ngân quỹ gia đình, ở nhà chuyên mặc đồ thừa của con gái thì ông ấy nói quần áo ngắn cũn cỡn, váy màu mè xanh đỏ như bà đồng bóng...


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.