Hôm nay,  

Vesak

03/05/202014:23:00(Xem: 3332)


 Bầu trời đen kịt, từng lằn chớp loé lên chằng chịt rạch nát không gian, những tia chớp xanh lè bén như lưỡi đao truỷ thủ mà laị nóng kinh hồn, hễ phóng đụng vật gì thì vật ấy cháy và nát ra. Sấm đì đùng động đến tận đường địa ngục, sấm bổ tan cả đá, đánh vỡ những gì cản đường của nó. Gió giật từng hồi, thổi tung tất cả những vật trên đường đi, cả đất trời như tận thế. Các vị thiên sợ sệt, khép thân không dám nói lời nào. Giọng Ma Hê Thủ La Thiên Vương rền vang át cả tiếng sấm:

 - Ta là chúa tể của vũ trụ, sức mạnh vô song, quyền lực vô biên, không có ai sánh bằng ta. Kẻ nào chống laị ta tất phải chết, ta thống trị vũ trụ này tám vạn đaị kiếp. 

 Y dứt lời thì từng bựng lửa lớn phừng phừng bốc lên, hỏa diệm sơn phun khói lửa ngất trời. Sóng từ bốn biển ầm ầm nổi, những cơn sóng thần cao vượt mọi thành trì có trên mặt đất. Đám ma quân rung rung kéo đến, hình thù quái dị, gớm ghiếc. Chúng nhe nanh, múa vuốt, nhảy múa reo hò ầm ĩ. Tên đầu đảng hét lên:’ 

 -  Này Cồ Đàm, tại sao cứ ngồi mãi ở đây? Hãy về với cung vàng điện ngọc, ở đấy ông có tất cả: địa vị cao quí, tiền của phong lưu, vợ đẹp con xinh, rượu ngon gái đẹp… và bao nhiêu thú vui tiêu khiển khác, tất cả cung phụng ông! cớ sao ông đến ngồi dưới gốc cây này để nhận lấy bao nhiêu khổ nhọc? 

 Thích Ca Mâu Ni vẫn lặng im bất động, ngài ngồi như thể núi non, vẻ mặt bình thản không một gợn ưu tư. Bọn ma quân thấy thế càng tức giận sục sôi, chúng phun lửa toan đốt ngài nhưng lửa không chạm được đến thân. Chúng laị dâng nước, hòng cuốn trôi ngài  nhưng nước bốc hơi. Chúng lại làm ra động đất, định chôn vùi ngài nhưng cơn chấn động loang đến gần ngài thì tự khắc tan. Dùng bao nhiêu phép thuật mà không làm gì được, hết cách chúng hậm hực bỏ đi. Bây giờ xuất hiện vô số ma nữ, mắt đẹp mày xinh, thân hình lõa lồ uốn éo, chúng múa may ca hát và dở trò mơn trớn, vuốt ve dụ khị:

 - Ngài còn trẻ, sức lực sung mãn, thân hình tráng kiện, tinh thần minh mẫn… sao không hưởng lạc thú của cuộc đời? cớ sao từ bỏ những lạc thú? cớ sao sống khắc khổ, hành xác  như thế? chúng em sẵn sàng hầu hạ ngài, đem laị cho ngài  những phút giây hoan lạc nhất của kiếp người. 

 Thích Ca Mâu Ni vẫn an nhiên bất động, gương mặt sáng như trăng rằm, an hoà từ tốn mà khí lực ngất trời. Giở đủ trò khêu gợi mà không lung lạc được Thích Ca, bọn chúng hết cách và tự tan biến như bóng đêm lúc bình minh lên. 

 Sao Mai lấp lánh trên bầu trời, đêm chuyển dần về sáng, một làn sóng an hoà, khoan khoái lan tỏa trong đất trời, quang minh bừng lên, mặt đất chấn động sáu cách. Ngài thoáng mỉm cười, nụ cười nhẹ như gió thoảng, như cánh hoa mạn thù sa, hoa mạn đà la bay trong hư không. Thế rồi ngài lên tiếng sau bốn mươi chín ngày thiền định dưới cội cây:

 - Hỡi gã thợ làm nhà kia, ta đã lang thang bao nhiêu kiếp để tìm ngươi, nay ta đã gặp. Từ đây bao nhiêu cột, kèo, rui, mè… gãy tan hết! Từ đây vĩnh viễn không còn luân hồi sanh tử nữa, đây là kiếp chót của ta.

 Ngài đã chứng tam minh, lục thông. Chư thiên từ các tầng trời hoan hỷ vây quanh rải hoa cúng dường Phật, bậc chánh đẳng chánh giác. Đất trời rạng rỡ trong năm sắc màu quang minh vô cùng kỳ diệu, muôn hoa khoe sắc, chim hót véo von… muôn thú cùng các loài vây quanh. Hào quang của Phật soi đến ba ngàn thế giới. Ánh sáng chiếu vào cung điện Ma Hê Thủ La Thiên Vương, y giật mình kinh sợ, không biết ánh sáng từ đâu mà rực rỡ như thế, hơn cả quang minh nhật nguyệt và tinh tú. Vũ trụ sáng lạn, ánh sáng nhu nhuyến, ôn hoà làm cho chúng thiên nhơn đều thấy tâm thần lắng dịu, khoan khoái. Y dùng thiên nhãn nhìn thì thấy Thích Ca Mâu Ni đã thành chánh đẳng chánh giác dưới cội cây bồ đề. Đây là lần thứ hai quang minh và chấn động làm rung rinh cung điện của y. Lần thứ nhất, cách đây hai mươi chín năm, khi bà Ma Gia phu nhân hạ sanh Tất Đạt Đa ở vườn Lâm Tỳ Ni. Năm ấy y đã kinh sợ và bất an, y biết rồi đây sẽ có người vượt hơn ngôi vị thiên chủ của y, sẽ có quyền lực lớn hơn y… càng nghĩ y càng lo lắng, y bèn tìm đến chỗ đức Phật đang thiền định

 - Này ông Cồ Đàm, ông có quyền năng lớn hơn tôi chăng? Tôi có thể biến thân to như núi Tu Di, vậy ông có thể làm như thế không?

 Thế Tôn từ tốn bảo y:

 - Ta không có quyền năng, ta không phải là thượng đế hay thánh thần, ta laị càng không dùng đến pháp thuật biến hoá. 

 - Vậy sao ông có thể tạo ra quang minh và chấn động cung điện của ta và cả ba ngàn thế giới?

 - Ta chẳng có ý làm thế, tự nhiên thế thôi.

 - Ông không thể tranh ngôi thiên chủ với ta được đâu!

 - Ta chẳng thèm cái ngôi thiên chủ ấy, chư thiên cũng không ngoài vòng sanh tử, bản thân ngươi dù có thọ tám vạn đaị kiếp rồi khi hết phước vẫn đọa như thường. Chắc ngươi cũng đã từng nhiều lần chứng kiến năm tướng suy hao của chư thiên khi hết phước?

 - Đúng thế, tôi đã vô số lần thấy năm tướng suy hao, vậy ông đã vượt qua sanh tử rồi chăng? 

- Không sai, đây là kiếp chót của ta! Ta đến thế gian này để dạy chư thiên, phi nhân và con người con đường vượt qua khổ đau, ra khỏi luân hồi sanh tử.

 - Tôi là Ma Ha Thủ La Thiên Vương, là chủ tể vũ trụ, không có ai lớn hơn tôi, không có ai mạnh hơn tôi, quyền lực của tôi vô biên, tôi sống tám vạn đaị kiếp. Còn ông, ông bảo không có pháp thuật quyền năng gì, vậy sao ông có thể thoát ra khỏi sanh tử luân hồi? 

 - Ta đã thực hiện thiền định, thanh lọc tâm ý. Ta đã buông xuống mọi ràng buộc của ngũ dục lục trần, cấu uế phiền não, lìa ly cấu, không còn dính mắc bụi trần, lậu hoặc đã đoạn, vô nhiễm ái dục… nên tự nhiên lià khỏi sanh tử luân hồi. Ta có nhiều pháp môn, tùy theo căn cơ của chúng sanh mà giáo hoá!

 Nói xong, Thế Tôn đứng dậy đi đến vườn Lộc Uyển. Năm anh em Kiều Trần Như vừa thoáng thấy Thế Tôn, họ  định bỏ đi, tâm ý các vị ấy cho là Thế Tôn không còn chịu nổi khổ cực để tu hành nên có ý coi thường. Họ định bỏ đi nhưng không sao đi được. Sắc tướng của Thế Tôn quá tuyệt hảo, bọn họ chăm chăm nhìn, lòng đầy ngờ vực. Thế Tôn vào giữa vườn, bọn họ tự nhiên sụp lạy đảnh lễ mà không hiểu vì sao. Thế Tôn ân cần nói pháp cho bọn họ, lần thứ nhất ngài nói:” Đây là khổ tính bức bách, đây là tập tính chiêu cảm, đây là đạo tính có thể tu, đây là diệt tính có thể chứng”. Lần thứ hai ngài bảo:” Đây là khổ ta đã biết, đây là tập ta đã đoạn, đây là đạo ta đã tu, đây là diệt ta đã chứng”. Lần thứ ba ngài dạy:” Đây là khổ các ông nên biết, đây là tập các ông nên đoạn, đây là đạo các ông nên tu, đây là diệt các ông nên chứng”. Chuyển pháp ba lần rồi ngài gọi:

 - Này các ông, các ông bị khách trần quấy nhiễu nên không thể chứng đắc! 

 Kiều Trần Như nghe đến đây lập tức khai ngộ, sau đó chứng đắc trở nên giải không đệ nhất. Bấy giờ chư thiên khắp các tầng trời rải hoa cúng dường, Càn Thát Bà tấu nhạc, vô số hương chiên đàn và các loại hương khác xông lên. Ma Hê Thủ La Thiên Vương thấy thế thì bao nhiêu kiêu hãnh tan biến, tâm ý y như căn phòng tối được ánh dương chiếu soi. Y sụp lạy đảnh lễ Thế Tôn. Y cầu xin sám hối và phát nguyện sẽ đời đời hộ trì chánh pháp. 

 Thế rồi chánh pháp của Như Lai như ngọn hải đăng soi rọi thế gian này, người người quay về nương tựa, hàng trời người đều được lợi ích lớn lao. Một số vượt thoát sanh tử luân hồi, vô số khác thì sống trong tỉnh thức, thúc liễm thân tâm, tinh thần an lạc, buông bỏ mọi phiền não, ràng buộc… Ma Vương Ba Tuần cảm thấy quyền lực của y bị lung lay nghiêm trọng. Con người trên thế gian và bao chúng sanh khác đều do y cái quản xưa nay, nay họ tu theo chánh pháp nên lần lượt thoát sanh tử, vượt qua sự cương toả của y. Lòng y bất an và giận dữ. Y tìm đến chỗ Như Lai gây nhiễu sự:

 - Bao nhiêu chúng sanh do tôi cai quản, nay bọn họ tu theo chánh pháp của ông, bọn họ vượt thoát sanh tử, những kẻ còn laị cũng sống an lạc, không còn chịu sự khống chế của tôi, quyền lực của tôi bị ông phá hủy. Tôi sẽ phá chánh pháp của ông! 

 Thích Ca Mâu Ni điềm nhiên bảo:

 - Tà không thể thắng chánh, ngươi không thể nào phá được chánh pháp của Như Lai! 

 Ma Vương Ba Tuần cười nham hiểm:

 - Được rồi, tôi sẽ chờ đến thời mạt pháp. Tôi sẽ cho con cháu của tôi khoác cà sa. 

 Nghe thế, đức Thế Tôn trầm ngâm không nói một lời nào nữa. Ngài biết y nói đúng và y sẽ làm thế, trí huệ của Như Lai biết chuyện vốn sẽ là như thế, không thể nào khác đuợc, cũng không thể làm gì hơn. 

 Dòng đời biến thiên thịnh suy liên lỉ, dòng thời gian trôi không ngừng, chẳng mấy chốc đã đến lúc Thế Tôn nhập niết bàn. Ngài nằm giữa hai hàng cây Sa La. Hàng tứ chúng vây quanh buồn bã, rơi lệ. Chư thiên hội tụ về, sầu đau hiện rõ trên gương mặt. Ma Hê Thủ La Thiên Vương qùy tâu:

 - Bạch đức Thế Tôn, ngài vào niết bàn vô dư, chúng con bơ vơ không nơi nương tựa biết làm sao đây?

 Đức Phật dạy:

 - Như Lai vì một đaị sự nhân duyên mà ra đời, chỉ dạy chúng sanh nhập tri kiến Phật. Nay Như Lai vào niết bàn nhưng chánh pháp còn đó cho đến khi có một vị Phật khác ra đời. Các ông cứ y theo chánh pháp mà hành thì cũng như Như Lai còn taị thế! 

 Ma Hê Thủ La Thiên Vương laị tâu:

 - Bạch đức Thế Tôn, chúng con xin vâng lời, xin nguyện hộ trì chánh pháp của Như Lai, hộ trì tất cả những ai hành đúng chánh pháp của Như Lai. 

 Ngài A Nan quỳ bên Thế Tôn, buồn rầu thưa:

 - Bạch đức Thế Tôn, Thế Tôn vào niết bàn rồi thì ai làm thầy chỉ dạy chúng con? 

 Đức Phật ân cần:

 - Hãy lấy giáo giới làm thầy, các ông tự thắp đuốc lên mà đi! 

 Thế Tôn vào niết bàn, chánh pháp được các đồ đệ mang đi giáo hoá bốn phương trời, hoằng hoá độ vô số chúng sanh, tuy nhiên càng về sau thì có nhiều hiện tướng suy hao, hư hoại và thêm bớt những cái vốn không có của thời chánh pháp và tượng pháp. Lời nguyền năm xưa của Ma Vương Ba Tuần đã ứng nghiệm, nhiều kẻ khoác cà sa nhưng làm việc ma, tuy hình tướng sa môn nhưng thực chất là con cháu của Ma Vương Ba Tuần. Chúng ngày đêm phá hoại pháp, lũng đoạn tăng đúng như lời huyền ký của Thế Tôn:” Sư tử trùng phàm thực sư tử nhục”. Tuy có phá hoại nhưng pháp của Như Lai vẫn tồn tại vững mạnh, vẫn là con đường duy nhất thoát khổ đau, thoát sanh tử luân hồi. Pháp của Như Lai chỉ mất đi khi nào có một vị Phật khác ra đời. 

 Thời gian như nước chảy hoa rơi, như vó câu qua cữa sổ, mới đó mà đã trải qua hai ngàn năm trăm sáu mươi tư năm, kể từ khi Thế Tôn thị hiện đản sanh ở quốc độ này. Vườn Lâm Tỳ Ni năm xưa vẫn còn những di chỉ của thế Tôn. Ngày nay tại cõi Nam Thiệm bộ châu có một xứ sở vô cùng giàu có, trù phú, cuộc sống phong lưu, dân tứ xứ kéo về. Hàng đệ tử của Thế Tôn cũng tìm đến lập đạo tràng giáo hoá chúng sanh. Hàng Thích tử đem giáo pháp của Thế Tôn dạy chúng. Có nhiều sắc dân xưa nay chưa hề biết đến Phật pháp, nhờ thế mà được lợi lạc lớn. Các xứ trong quốc độ ấy liên kết nhau, tạo nên một hội quốc liên nhằm đoàn kết hỗ trợ cho nhau, giúp nhau trong các vấn đề thế sự. Hàng năm, hội đồng của liên hiệp các quốc gia ấy cử hành trọng thể lễ kỷ niệm ngày đản sanh của Thế Tôn. Hàng Thích tử toàn thế giới họp laị chọn ngày rằm tháng tư làm ngày Vesak, kỷ niệm ba sự kiện lớn trong đời của Thích Ca Mâu Ni Phật, đó là ngày đản sanh, ngày thành đạo và ngày Phật nhập niết bàn. Phật thị hiện đản sanh và nhập niết bàn ấy là hoá thân, pháp thân Phật thì nào có sanh diệt, vẫn thường trụ khắp mười phương và hiện hữu cả quá khứ, hiện tại và vị lai. 

 New York, năm một ngàn chín trăm chín mươi chín, taị phiên họp thừ năm mươi tư đã đồng thuận chọn ngày rằm tháng tư âm lịch để kỷ niệm ba sự kiện quan trọng trong cuộc đời đức Phật Thích Ca, đồng thời tôn vinh những đóng góp cho hoà bình, văn hoá của Phật giáo. Một tôn giáo lâu đời luôn đề cao phẩm giá con người, tôn trọng sự thật, tràn đầy trí tuệ và tình thương.  

 

TIỂU LỤC THẦN PHONG

Ất lăng thành, 052020

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
"Dù sao, mọi ý kiến đối chọi, bàn thảo trái chiều, nếu giữ được phần nào lịch sự với nhau, đều có thể là điều tích cực nếu được coi là dịp để kiểm lại mức hiểu biết của mình và học cách suy luận dựa trên dữ kiện vững chắc. Quan trọng là người Việt ở hải ngoại đừng xa rời cuộc sống thực tế của người dân trong nước, nếu nói rằng còn muốn góp phần xây dựng tự do, no ấm cho Việt Nam". -- Cãi nhau ỏm tỏi vì một cái bánh chưng? Tác giả Thục Quyên nhân đó nói về pháp phục của Phật giáo, vì chuyện này cũng từng bị đem ra tranh biện một cách rất vô bổ... Việt Báo mời đọc.
Từ một bài Ký, tác giả Trangđài Glassey Trầnguyễn (chị cũng là nhà văn/ nhà thơ/ nhà giáo dục) mở ra nhiều không gian nghệ thuật, văn chương khác, trong đó chị chia sẻ không ít những trăn trở, cảm nghĩ của chị. Việt Báo trân trọng mời đọc.
Những bí ẩn về cuộc đời tình ái của Cựu Hoàng Bảo Đại được tác giả Nguyễn thị Cỏ May thuật lại trong bài viết lý thú sau. Một trong những điều lý thú ấy là: Hoàng tử Bảo Ân không phải là con út của Cựu Hoàng như đa số chúng ta đều biết, mà là một người tên Patrick-Edouard. Người con trai này là kết quả của mối tình giữa Bảo Đại và một thiếu phụ Pháp rất đẹp... Và nhiều chi tiết thú vị không kém khác, Việt Báo mời đọc.
"Rhodes, (tiếng Hy Lạp: Ρόδος, Ródos) bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp cổ, có nghĩa là hoa hồng. Thật ra, ngày đó người ta muốn diễn tả một loài hoa khác: bông bụt -- hay bông cẩn (Hibiscus), còn gọi là dâm/ râm bụt , phù dung -- mọc nhiều trên đảo này. Hy Lạp có rất nhiều đảo. Đảo Rhodes ở Địa Trung Hải, hai bờ đông tây khác biệt nhau. Bờ tây, xanh tươi hoa lá. Bờ đông trơ trụi các con đường dọc bờ biển..." -- Nhà văn Hoàng Quân, trong một chuyến du lịch viếng thăm hòn đảo danh tiếng này của quốc gia Hy Lạp, đã ghi chép lại những cảm xúc của chị và gửi đến bạn đọc qua bài Ký sau. Việt Báo hân hạnh giới thiệu.
Người thông dịch mù. Cô thích vậy. Không phải tâm địa cô xấu xa. Có trời biết lòng cô trắng trong. Bằng chứng là hắn đã đối xử với cô rất là tồi tệ, mà cô không một lời rủa xả.
Tôi là một cô gái tuổi Dần. Suốt thời niên thiếu sống trong nước, tôi lớn lên trong bâng khuâng và thắc mắc về những thành kiến của xã hội với cái tuổi Dần mình mang. Do có… “máu Cọp” trong người nên tôi rất dễ nhận ra các “chị em Cọp” của mình… Nhiều người thật giỏi, thật thành công, nhưng cũng không ít trong số họ cũng thật truân chuyên, nhất là trong đường tình duyên. Tôi đã chứng kiến kha khá chuyện tình… Nhiều bà mẹ chồng tương lai đã rất mực yêu thương cô gái ấy và thầm mừng cho con trai sẽ có được một người vợ tốt như vậy, nhưng khi điều tra và “khám phá” cô gái ấy tuổi Cọp thì bà thay đổi ngay lập trường và hăm, "Có nó thì không còn mẹ!" - Ôi, thật bất công cho các nữ tuổi Dần.
Mỗi dịp tết đến xuân về, trên bàn thờ tổ tiên cùa các gia đình VN hay trên bàn phòng ăn đều không thể thiếu một khay hay một mâm hoa quả. Người ta thường nói đến “mâm ngũ quả”. Mâm ngũ quả đặt trên bàn thờ bày tỏ lòng thành kính với tổ tiên, ước muốn những điều tốt đẹp, tươi tắn, đầy hương thơm đem lại bình an cho gia đình. Người ta chọn những quả ngon, quí, đặc biệt trong địa phương hay trong mùa, đặt cho nó nhiều ý nghĩa, và đem chưng trên bàn thờ cách nào cho đẹp, không cứ chỉ giới hạn có 5 thứ quả mà thôi
Chả là ông bà có ba người con, cô gái đầu lòng rồi đến hai cậu con trai. Cô con gái lập gia đình theo chồng qua Texas làm việc từ mấy năm nay. Hai thằng con trai còn đang học Đại Học ở xa, thằng anh hết năm nay là ra trường còn thằng út mới lên năm thứ hai. Mùng Một Tết vào ngày thường nên bà đã tưởng là Tết năm nay lại chỉ có hai ông bà già nên đã buồn héo cả người.
Ở Đào bang, hoa đào bạt ngàn, trái đào nhiều không đếm xuể. Hoa đào có nhiều loại: Đào thắm, đào phai, đào bạch, đào đơn, đào kép, đào nhiều màu… Mùa xuân hoa đào nở rực hồng cả một góc trời của Hoàng Hoa trang nói riêng của Đào bang nói chung, cảnh tượng đẹp như cõi thiên thai. Trái đào cũng có rất nhiều loại: Đào vàng, đào trắng, đào tiểu, đào đại, đào lông, đào láng, đào vườn, đào rừng… Trái đào đủ độ già ăn giòn, chua chua ngọt ngọt ngon hơn là đào chín. Mùa xuân hoa đào nở, mùa hạ trái đào rụng, những nhà vườn chuyên môn thì hái bán, những người trồng tài tử thì… trái rụng đầy đất. Nếu mùa xuân hoa đào tạo ra cảnh quan thiên thai thì mùa hạ đào rụng, chín nhũng ra, côn trùng kéo đến trông bầy nhầy như “ Địa ngục”. Thế mới biết thiên đường với địa ngục không hai, cũng từ một tâm niệm mà ra.
Thận Nhiên là một trong những nhà văn thành danh ở hải ngoại vào cuối thiên niên kỷ trước. Cuốn tiểu thuyết “Những ghi chép ở tầng thứ 14” được Văn Đoàn Độc Lập trao giải Sách Hay bộ môn Văn, năm 2018. Gần đây, từ lối viết hiện thực anh chuyển sang siêu hư cấu, mà hai truyện “rất ngắn” đăng trên Việt Báo Xuân Nhâm Dần vừa qua là điển hình. Nhà văn Thận Nhiên đến với Việt Báo lần này với một truyện “chớp”, trong đó cảm xúc như một tia chớp, nhoáng lên rồi tắt ngúm, nhưng để lại dư ảnh đậm đà trong tâm tư người đọc. Việt Báo trân trọng giới thiệu.
"Chiều nay, Khang ngồi bờ đá lắng nghe sóng vỗ lần cuối vì ngày mai anh sẽ ra đi đến nước thứ ba. Khang đang nghe tiếng vọng bao kỷ niệm từ ngày bước vào mê lộ lịch sử, mang tuổi trẻ đi mải miết mà không tìm thấy lối ra trên chính quê hương mình. Khang nhớ ánh nắng chiều thoi thóp quê nhà luôn cho anh ý niệm dở dang, muộn màng số phận cho đến ngày gặp Lĩnh cùng hai đứa học trò trên chiếc sân nhà. Nơi ấy một thời chứa chấp một con người mà linh hồn đã chết nhưng cố bám víu trần gian, tận tụy mãi võ để kéo dài sự sống cho dù mỗi ngày xiêu vẹo, nghiêng ngả trên chính bước đi của mình." -- Một truyện ngắn mang nặng tâm sự hoài niệm một thời trai trẻ nơi quê nhà, của nhà văn Lê Lạc Giao, Việt Báo trân trọng giới thiệu.
Có xa quê hương đất nước nhiều năm, mỗi khi Tết đến Xuân về, người ta mới cảm nhận không khí chung quanh mình như thiếu thiếu một cái gì rất quan trọng? Không phải vì đất lạ, người không quen biết, không cùng chủng tộc. Cũng không phải vì những đồ ăn, thức uống khi mua về thiếu đi cái hương vị đất nước của quê hương bản quán mà có lẻ chỉ vì... cái không khí chung quanh mình nó khác biệt và cả cái mùi vị của mùa xuân cũng nhiều lạ lẫm.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.