Hôm nay,  

Trộm Hương

10/05/202011:00:00(Xem: 4657)

 


 Ánh trăng bàng bạc nhuộm cả không gian này, xuyên qua những tán lá tàng cây. Ánh trăng rơi xuống khu vườn tạo nên những hình thù kỳ lạ cứ lấp loáng, mỗi khi có cơn gió thổi qua thì biến thành muôn hình vạn trạng sinh động lạ lùng. Dưới ánh vàng ngà ngà, khu vườn trở nên đẹp một cách huyền hoặc nhưng thanh bình đến vô cùng. Hoa trong vườn lặng lẽ tỏa hương, những đoá hồng kiêu sa thì đã ngậm vành, hàng ngàn nụ lài thanh khiết hương bay ngan ngát, đám dã yên, hoa bướm… thì rực rỡ sắc màu, góc vườn hoa xoan thơm bát ngát. Riêng những đoá quỳnh thì lặng lẽ như muôn đời nay, từng lớp cánh mỏng xếp lớp như những lần lụa là xiêm y. Hoa quỳnh là những lớp xiêm y hay xiêm y xếp laị tạo thành thì cũng chẳng ai dám đoan chắc cả! mùi hương cũng thanh tao, thoát tục lắm.

 Khu vườn đang tịch mịch bỗng nhiên có tiếng nói, tiếng cười văng vẳng:
 

 - Ồ, các bạn xem kià! những đoá quỳnh đang nở dưới trăng, nõn nà trinh bạch và thơm quá.

 Một bọn nữ liêu trai từ đâu kéo đến khu vườn, đứa thì nâng niu hoa hồng, đứa thì vờn quanh hoa bướm…Một lát thì cả bọn cùng xúm quanh mấy chậu quỳnh, ngắm nghía say sưa rồi bắt đầu múa hát véo von. Khu vườn dường như sáng lấp lánh dưới trăng, xiêm y của các nữ liêu trai rập rờn như những làn sóng quanh những đoá quỳnh…Người chị cả bảo: 

 - Này các em, đêm nay trăng đẹp và hoa quỳnh nở, đây là giây phút tuyệt nhất của bọn chúng mình. Vậy ai sẽ sáng tác và ngâm một đoản khúc mừng hoa đây? 

 Cả bọn nhao nhao:

 - Chỉ có Thanh Nguyệt Hoàng là thích hợp nhất, cô ấy thi tứ phong phú laị có giọng ca trong trẻo như pha lê. 

 Thanh Nguyệt Hoàng bẽn lẽn cười nhưng cũng bước ra và bắt đầu ngâm: 

                                     Xiêm y vũ khúc nghê thường

                                Tháng ngày chịu nỗi gió sương mà thành

                                     Đêm nay trời đất an lành

                                Bốn phương hội tụ một cành thiên hương 


 Tiếng hoan hô, tiếng vỗ tay rộn vang cả khu vườn! Bất chợt có tiếng hét:

 - Bọn nữ liêu trai to gan, dám vào vườm trộm hương! 

 Cả bọn giật mình kinh sợ, lấm lét nhìn quanh thì thấy một người cao to, ăn vận như võ quan. Cả bọn định thần laị thì ra là thần giữ vườn. Người chị cả lấy can đảm bước ra:

 - Thưa ngài, chúng em thấy vườn đẹp dưới trăng nên tụ laị hát ca mừng hoa nở chứ nào có ý trộm hương!

 Thần giữ vườn vẫn thị uy: 

 - Hoa nở hương tỏa là để cúng dường Thế Tôn, nào phải để cho các cô thưởng thức!

  - Dạ, chúng em cũng biết vậy nhưng chúng em chỉ múa ca, ngâm vịnh nào có ảnh hưởng gì đến hương. Cô chị nhỏ nhẹ thưa.
 

 Y vẫn hồ đồ đe nẹt:

 - Không cãi lôi thôi, các cô phải bị trừng phạt! 

 Lúc ấy có một người từ sau những lùm cây bước ra, trông có vẻ nho nhã nhưng phục sức thì giống tăng nhân, tướng người thanh cao và tiêu sái lắm. Người ấy có giọng nói khá thanh nhưng tiềm tàng nội lực rất thâm hậu: 

 - Thưa ngài, các cô ấy nào có ý trộm hương, xin đừng làm khó bọn họ.

 Thần giữ vườn vẫn khăng khăng:

 - Các cô ấy phải bị trừng phạt, tôi chỉ làm trách nhiệm của tôi. 

 Người kia bèn bảo: 

 - Các cô ấy múa hát làm cho khu vườn thêm đẹp. Hoa quỳnh có thêm các tỷ muội, xiêm y trên cành và xiêm y của các cô ấy cũng hoà vũ khúc dưới trăng…Một cảnh tượng như bồng lai tiên cảnh, lẽ nào ngài không thấy? Tôi có vật này xin bảo lãnh cho bọn họ.

 Nói xong, người ấy giơ cao một vật gì đó có vẻ như là thẻ bài ngà hay là cái pháp phái mà các vị trưởng lão thường đeo để hộ thân. Thần giữ vườn có vẻ xìu hẳn:

 - Nể lòng ngài tôi không bắt tội các cô ấy nhưng mỗi người phải để laị một giải lụa trên cành hoa quỳnh. 

 Các nữ liêu trai mừng rỡ cười và cảm ơn vị khách lạ kia: 

 - Xin cảm ơn ngài đã nói giúp cho, xin cho bọn em được biết qúy danh. 

 Người khách lạ bảo: 

 - Ta vốn là du sĩ Thanh Hoàng Tú, trước kia từng thọ giới với hoà thượng Thanh Đồng Nguyên trong hai mươi năm, công phu cũng khá, kiến văn cũng đủ  nhưng vì bản tánh trăng hoa không buông đặng nên phút cuối lúc lâm chung đọa, may nhờ dư phước nên làm khách sĩ ở Phù Dung trấn này, vậy còn các cô thì sao? 

 Người chị cả thưa: 

 - Bọn em vốn là ca nữ của thành Hạc Hoa, lúc sống lấy đêm làm ngày, dâng tiếng ca cho người mua vui, những trận cười thâu đêm, cuộc vui đầy tháng nơi cao lâu, trà đình, tửu điếm…Khi còn thanh sắc thì bọn công tử, đaị gia đua nhau đưa đón, khi tàn thì họ vứt như chiếc dép rách. Sau khi chết vẫn còn chút phước nên được ngụ ở đây, thức ăn dồi dào, áo quần không thiếu…Mỗi mùa trăng đều đến đây thưởng hoa, không hiểu sao đêm nay laị bị thần giữ vườn làm khó?  

 Vị khách sĩ nói: 

 - Các cô không biết đó thôi, ông ấy vốn là quan đốc trấn Phù Dung trong ba mươi năm, tuy thanh liêm nhưng vì quá yêu trấn này nên khi chết thần thức không chịu đi vẫn ở laị đây. Giờ ông ấy là thần giữ vườn vậy! 

 Bọn nữ liêu trai cùng ồ lên: 

 - Thảo nào bọn em thấy dáng và nghe giọng quen quen nhưng không biết là đã gặp ở đâu. 

 Vị khách sĩ hỏi: 

 - Các cô có thấy điều gì rất lạ thường trong đêm trăng ở khu vườn này không?

 Cả bọn nữ liêu trai ngơ ngác nhìn nhau, túm tụm bàn tán nhưng chẳng phát hiện ra điều gì khác thường cả. Bấy giờ vị khách sĩ cười nói: 



 - Hoa quỳnh vốn nở vào mùa thu, hôm nay là tháng tư cớ sao hoa quỳnh laị nở? 

Cả bọn ồ lên ngạc nhiên vỡ lẽ ra nhưng vẫn không sao hiểu vì sao hoa quỳnh nở vào đêm trăng trong tháng tư này. Vị khách sĩ thong thả kể: Ta với nữ thần chủ mệnh vụ mùa vốn là chỗ thâm tình. Tên nàng là Hợp Hoan Tụ Hỷ, có lần ta yêu cầu nàng xuống lệnh cho hoa quỳnh nở vào tháng tư. Nàng bảo với ta:” Em hoàn toàn có thể làm được nhưng em không làm vậy, vì làm vậy là cưỡng bức, là bắt ép nhau, là trái lý tự nhiên, nghịch lẽ đất trời. Hoa quỳnh vốn mong manh, thanh tân và tinh khiết đến dường nào. Hoa quỳnh nở giữa đêm không bị bướm ong trêu ghẹo, không bị mắt tục tò mò…Em không thể ép buộc hoa quỳnh. Nhưng em sẽ thỏa thuận với hoa quỳnh để một lần chìu theo ý chàng. Chàng hãy nhớ chỉ một lần này thôi nhé!”, đầy là lý do tại sao đêm trăng tháng tư hôm nay hoa quỳnh tưng bừng sắc hương như vậy!. Kể xong câu chuyện vị khách sĩ laị hỏi:

 - Các cô có nhớ hôm nay là ngày gì không? 

 Bọn nữ liêu trai laị ngớ người ra giây lát rồi mắt sáng lên: 

 - Ô, Trăng tròn tháng tư, ngày đản sinh của đức Thế Tôn. 

 Vị khách sĩ dẫn cả bọn đi đến bên cây mộc lan, dưới gốc cây có pho tượng Bổn Sư ngồi an nhiên trầm mặc. Pho tượng nho nhỏ xinh xinh nhưng dường như làn sóng an lạc tỏa ra khắp đất trời, thỉnh thoảng gió xao động làm cho ánh trăng xuyên qua tàng lá ngời trên thân tượng, cảnh vật bình yên đẹp đến nao lòng. Cả bọn thấy lòng thư thái và hoan hỷ quá nên đồng loạt sụp lạy đê đầu sát đất. Sau khi đảnh lễ ba lần, bọn nữ liêu trai cùng vị khách sĩ ngồi tĩnh tọa quanh pho tượng; chừng một canh giờ sau thì vị khách sĩ bảo: 

 - Để mừng ngày đản sanh của Thế Tôn, trong các cô ai là người ứng tác giỏi thì hãy soạn khúc ngâm dâng lên cúng dường? 

 Cả bọn còn ngẫm nghĩ lựa lời thì Thanh Tú Hoa thỏ thẻ: 

 - Em xin dâng cúng dường khúc ca mừng ngày đản sanh đức từ phụ.

 Nói xong cô đứng dậy chỉnh xiêm y, đảnh lễ Thế Tôn xong thì bắt đầu múa và cất tiếng ca:  
                             

                                     Như vầng dương sáng soi đường 

                               Như trăng vằng vặc tình thương không cùng

                                     Từ trong đêm tối mịt mùng

                               Bao nhiêu hung hiểm muôn trùng bủa vây

                                     Ngài về thị hiện nơi đây

                               Vạch đường giải thoát chỉ bày chúng sanh

                                     Này đây là cả tâm thành 

                               Dốc lòng thâm tạ ơn lành Thế Tôn

                                     ….

 Tiếng ca thánh thót với chất gịong trong vắt đến lạ lùng, bình thường Thanh Tú Hoa vẫn có tiếng là người có chất giọng được ví trong như nước suối giữa rừng, nước ở đầu non nhưng đêm nay cô ca xuất thần và giọng ca trong trẻo vô ngần. Tiếng ca của Thanh Tú Hoa làm xôn xao hoa lá trong vườn, hương tỏa ngào ngạt,  sóng âm bay lên không gian dường như làm lay động cả trăng rằm. Vầng trăng tỏa hào quang, muôn triệu vì sao cứ nhấp nháy  cháy rực lên màu sáng xanh biếc. Từng đàn bạch hạc bay qua dưới ánh trăng. Các thiên thần từ đâu bay về quanh cây mộc lan cung kính chắp tay đảnh lễ Thế Tôn. Một cảnh tượng vô cùng vi diệu mà vị khách sĩ và bọn nữ liêu trai chưa từng thấy bao giờ. 

 Sáng sớm hôm sau chủ vườn ra thăm thì y trố mắt ngạc nhiên: 

 - Ồ lạ quá! Hoa quỳnh vốn tàn héo sau một đêm, cớ sao đợt hoa này vẫn còn tươi và thoảng hương dù trời đã sáng? 

 Y laị xem xét kỹ càng hơn từng bông một và lẩm bẩm: 

 - Dường như hoa có thêm mấy lần lụa mỏng trắng muốt quanh nhụy hoa!  

 Y đi quanh quẩn trong vườn, xem xét và có vẻ nghi ngờ:

 - Hình như có ai vào vườn hoa trong đêm qua? đâu đây còn phảng phất mùi hương lạ lắm, ta chưa ngửi thấy bao giờ. 

 Không biết y nghĩ gì sau một hồi đi loanh quanh vườn, vẻ mặt nhiều nỗi ngạc nhiên băn khoăn. Khi đến dưới cội mộc lan, nơi có tôn tượng đức bổn sư thì y vỡ lẽ ra, vỗ trán thầm thốt lên:

 - Kỳ lạ thật! xưa nay chưa từng thấy bao giờ, cớ sao hoa quỳnh laị nở vào rằm tháng tư?


TIỂU LỤC THẦN PHONG

Ất Lăng thành, 4/2019 

p/s. Viết xong tháng 4/ 2019; chỉnh sửa và viết hoàn chỉnh 4/ 2020 

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi là người viết báo nghiệp dư. Từ khi khởi viết vào năm 1959, tay cầm viết luôn là nghề tay trái. Tôi sống bằng nghề tay phải khác. Cho tới nay, nghề chính của tôi là…hưu trí, viết vẫn là nghề tay trái. Tôi phân biệt viết báo và làm báo. Làm báo là lăn lộn nơi tòa soạn toàn thời gian hoặc bán thời gian để góp công góp sức hoàn thành một tờ báo. Họ có thể là chủ nhiệm, chủ bút, tổng thư ký, thư ký tòa soạn hay chỉ là ký giả, phóng viên. Nhưng tôi nghĩ người quan trọng nhất trong tòa soạn một tờ báo là ông “thầy cò”. Thầy cò ở đây không có súng ống hay cò bóp chi mà là biến thể của danh từ tiếng Pháp corrector, người sửa morasse. Morasse là bản vỗ một bài báo cần sửa trước khi in.
Sáu tuần. Nàng đã đi ra khỏi mụ mị từ trong mối tình hiện tại của mình. Cô bạn gái hỏi "Tỉnh chưa?". Tỉnh rồi, nhưng tỉnh không có nghĩa không yêu anh ấy nữa, chỉ là không còn mụ mị mê muội nữa thôi...
Trong bóng tối dày đặc, dọ dẫm từng bước một, hai tay vừa rờ vào hai bên vách hang động, vừa quơ qua quơ lại trước mặt, dù cố mở mắt lớn, chỉ thấy lờ mờ, nhiều ảo ảnh hơn là cảnh thật. Cảm giác bực bội vì đã trợt té làm văng mất ba lô, mất tất cả các dụng cụ, thực phẩm và nước uống cần thiết. Bối rối hơn nữa, đã rớt chiếc đèn bin cầm tay, mất luôn chiếc đèn bin lớn mang bên lưng và máy liên lạc vệ tinh có dự phòng sóng AM. Giờ đây, chỉ còn ít vật dụng tùy thân cất trong mấy túi quần, túi áo khoát và hoàn toàn mất phương hướng. Chỉ nhớ lời chỉ dẫn, hang động sẽ phải đi lên rồi mới trở xuống. Trang nghĩ, mình có thể thoát ra từ lối biển. Là một tay bơi có hạng, nàng không sợ.
Cô người Nha Trang, lớn lên và đi học ở đó. Cô sinh trưởng trong một gia đình gia giáo, mẹ cô đi dậy học, ông thân cô cũng là hiệu trưởng một trường trung học lớn ở Phú Yên. Năm 22 tuổi, cô học năm cuối đại học văn khoa Huế thì gặp gỡ chú Hiếu trong một dịp hội thảo sinh viên do các biến động thời cuộc miền Trung bắt đầu nhen nhúm. Chú Hiếu lúc đó đang theo cao học luật. Họ thành đôi bạn tâm giao tuổi trẻ, sau thành đôi uyên ương. Ba năm sau khi Trang vừa 25 tuổi, Hiếu đã nhậm chức chánh án tòa thượng thẩm.
Nhà trẻ kế bên bệnh xá. Trong góc một trại giam. Nhà trẻ có sáu đứa con nít. Bệnh xá có mấy bệnh nhân già. Coi bệnh xá là một tù nam nguyên là y tá ngoài đời. Coi nhà trẻ là một tù nữ án chung thân. Coi cả hai nơi ấy là một công an mà mọi người vẫn gọi là bác sĩ! Sáu đứa con nít đều là con hoang. Mẹ chúng nó là nữ tù bên khu B, đừng hỏi cha chúng đâu vì chúng sẽ không biết trả lời thế nào. Cũng đừng bao giờ hỏi mẹ chúng nó về chuyện ấy vì rằng đó là chuyện riêng và cũng là những chuyện rất khó trả lời. Thảng hoặc có ai đó được nghe kể thì lại là những chuyện rất tình tiết ly kỳ lâm ly bi đát… chuyện nào cũng lạ, chuyện nào cũng hay
Thăm nuôi năm thứ mười: trại Z30D Hàm Tân, dưới chân núi Mây Tào, Bình Tuy. Cuối năm 1985, mấy trăm người tù chính trị, trong đó có cánh nhà văn nhà báo, được chuyển từ trại Gia Trung về đây. Hồi mới chuyển về, lần thăm nuôi đầu, còn ở bên K1, đường sá dễ đi hơn. Cảnh trí quanh trại tù nặng phần trình diễn, thiết trí kiểu cung đình, có nhà lục giác, bát giác, hồ sen, giả sơn... Để có được cảnh trí này, hàng ngàn người tù đã phải ngâm mình dưới nước, chôn cây, đẽo đá suốt ngày đêm không nghỉ. Đổi vào K2, tấm màn hoa hòe được lật sang mặt trái: những dãy nhà tranh dột nát, xiêu vẹo. Chuyến xe chở người đi thăm nuôi rẽ vào một con đường ngoằn nghoèo, lầy lội, dừng lại ở một trạm kiểm soát phía ngoài, làm thủ tục giấy tờ. Xong, còn phải tự mang xách đồ đạc, theo đường mòn vào sâu giữa rừng, khoảng trên hai cây số.
Ông Hải đứng trước của nhà khá lâu. Phân vân không biết nên mở cửa vào hay tiếp tục đi. Tâm trạng nhục nhã đã ngui ngoai từ lúc nghe tiếng chim lạ hót, giờ đây, tràn ngập trở lại. Ông không biết phải làm gì, đối phó ra sao với bà vợ béo phì và nóng nảy không kiểm soát được những hành động thô bạo.
Vuốt lại tấm khăn trải giường cho thẳng. Xoay chiếc gối cho ngay ngắn. Xong xuôi, hắn đứng thẳng người, nhìn chiếc giường kê sát vách tường. Có cái gì đó thật mảnh, như sợi chỉ, xuyên qua trái tim. Hắn vuốt nhẹ bàn tay lên mặt nệm. Cảm giác tê tê bám lên những đầu ngón tay. Nệm giường thẳng thớm, nhưng vết trũng chỗ nằm của một thân thể mềm mại vẫn hiện rõ trong trí. Hắn nuốt nước bọt, nhìn qua cái bàn nhỏ phía đầu giường. Một cuốn sách nằm ngay ngắn trên mặt bàn. Một tờ giấy cài phía trong đánh dấu chỗ đang đọc. Hắn xoay cuốn sách xem cái tựa. Tác phẩm dịch sang tiếng Việt của một nhà văn Pháp. Cái va li màu hồng nằm sát vách tường, phía chân giường. Hắn hít không khí căn phòng vào đầy lồng ngực. Thoáng hương lạ dịu dàng lan man khứu giác. Mùi hương rất quen, như mùi hương của tóc.
Biết bao nhiêu bài viết về Mẹ, công ơn sinh thành, hy sinh của người Mẹ vào ngày lễ Mẹ, nhưng hôm nay là ngày Father’s Day, ngày của CHA, tôi tìm mãi chỉ được một vài bài đếm trên đầu ngón tay thôi. Tại sao vậy?
Hôm nay giống như một ngày tựu trường. Đơn giản, vắng một thời gian không ngồi ở lớp học, nay trở lại, thế là tựu trường. Ngày còn bé, mỗi lần nghỉ hè xong, lên lớp mới, trong lòng vừa hồi hộp vừa vui sướng. Có bao nhiêu chuyện để dành chờ gặp bạn là kể tíu tít. Nhưng bên cạnh đó là nỗi lo khi sắp gặp các thầy cô mới… Mỗi năm đều có ngày tựu trường như vậy, nói chung là khá giống nhau, trong đời học sinh. Nhưng cái ngày tựu trường này thật quá khác. Người ta nhìn nhau không dám cười, không dám chào hỏi. Sự e dè này, dường như mỗi người đã được tập luyện qua một năm. Một năm “học chính trị” trong cái gọi là hội trường mà tiền thân là cái rạp hát.
Cái tên Michelin không xa lạ gì với chúng ta. Vỏ lốp chiếc xe tôi đang dùng cũng mang tên Michelin. Sao hai thứ chẳng có liên quan chi lại trùng tên. Nếu tôi nói chúng tuy hai mà một chắc mọi người sẽ ngây người tưởng tôi… phiếm.
Phi là một người bạn đạt được những điều trong đời mà biết bao người không có. Là một tấm gương sống sao cho ra sống để chết đi không có gì hối tiếc. Là một niềm hy vọng cho sự tử tế vốn ngày càng trở nên xa xỉ ở nước Mỹ mà tôi đang tiếp tục sống.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.