Hôm nay,  

Còn Đâu Với “Tiếng Dân Chài”!

14/05/202010:17:00(Xem: 4856)

Hằng năm vào dịp Hè, trời yên biển lặng, ngư dân Việt Nam có cơ hội đánh bắt cá trên Biển Đông từ xưa đến nay. Đó là sự sống còn của hàng triệu ngư dân và ngành hải sản của Việt Nam. Nhưng hơn một thập niên qua, Trung Cộng đã lộng hành ngăn cấm hoạt động đánh bắt cá trong hải phận quốc tế mà cả lãnh hải của Việt Nam. Điều đáng nói không thuần túy ở lãnh vực nầy mà Trung Cộng thể hiện chủ quyền của họ trên Biển Đông.

blank


Kể từ khi Tập Cận Bình thực hiện
“Nhất Đới Nhất Lộ” năm 2013 thì nhất lộ với con đường biển bắt nguồn từ Phúc Châu chạy dài từ Nam Thái Bình dương sang Ấn Độ Dương… nên Trung Cộng âm mưu dốc toàn lực thôn tính Biển Đông.

Nằm trong tầm ngắm trên lộ trình nầy, Trung Cộng coi Việt Nam như là chư hầu nên lần lượt lộng quyền chiếm đảo, xây dựng căn cứ, trấn áp nghề đánh bắt hải sản của ngư dân Việt Nam.

Ngày 18 tháng 4 năm 2020, Bắc Kinh thông báo về việc hai quần đảo Hoàng Sa và Trương Sa của Việt Nam trở thành huyện Nam Sa (Nansha dictrict) và huyện Tây Sa (Xisha dictrict), trực thuộc thành phố Tam Sa, tỉnh Hải Nam.

Hành động tuyên bố đơn phương của Bắc Kinh đã dấy lên sự phẫn nộ của người Việt trong nước và hải ngoại. Hà Nội đã lên tiếng phản đối nhưng nặng phần trình diễn của ngành ngoại giao, không áp dụng mạnh biện pháp theo pháp lý với Liên Hiệp Quốc.

Được “đằng chân lân đằng đầu”, Trung Cộng tiếp tục lộng quyền trấn áp trên Biển Đông với lệnh cấm đánh bắt cá!

Theo nguồn tin loan tải, tỉnh Hải Nam ra thông báo cho biết từ ngày 01/5 đến 16/8 trong năm 2020: “Mọi hoạt động đánh bắt cá không được phép trong những vùng biển thuộc quyền tài phán của Trung Cộng”. Khu vực trải dài từ phía bắc Biển Đông đến 12 vĩ độ Bắc, bao gồm một phần vịnh Bắc Bộ và quần đảo Hoàng Sa.

Ngày 8/5, phát ngôn Bộ Ngoại Giao VN bà Lê Thị Thu Hằng cho rằng ngư dân Việt Nam “hoàn toàn có quyền đánh bắt cá trong vùng biển thuộc chủ quyền của Việt Nam”. 

Ngáy 11/5, phát ngôn Bộ Ngoại Giao TC ông Triệu Lập Kiên tuyên bố rằng Việt Nam “Không có quyền bình luận về lệnh đánh bắt cá vào mùa hè này của Trung Quốc trên vùng Biển Nam Trung Hoa (Việt Nam gọi là Biển Đông) vì các biện pháp này thuộc quyền hành chính của Trung Quốc.”

Lệnh cấm của Bắc Kinh có hiệu lực trong vòng 3 tháng rưỡi, và lực lượng hải cảnh Trung Quốc tuyên bố “sẽ áp dụng các biện pháp nghiêm ngặt nhất để ngăn chặn “mọi hoạt động đánh bắt cá bất hợp pháp”.

Trong khi các nước trên thế giới đang dốc toàn lực lo cho công việc đối phó với đại dịch Covid-19 hay dịch Vũ Hán, dịch Trung Cộng gây nên khoảng bốn triệu rưỡi người nhiễm bệnh (14/5) thì Bắc Kinh “thừa nước đục thả câu” nhằm trục lợi, khuấy động trên Biển Đông!

Với Việt Nam, hình như lời tuyên bố của phát ngôn viên Bộ Ngoại Giao từ trước đến nay đã lặp đi lặp lại nhiều lần như vậy, quá quen thuộc. Chỉ là màn trình diễn suông trong nước, không tiến hành về mặt pháp lý với Liên Hiệp Quốc, nói nôm na chỉ là “đánh trống bỏ dùi”!

Trong bao năm qua, người dân ta thán “Biết rồi, khổ lắm nói mãi” như lời cụ cố Hồng trong tác phẩm Số Đỏ của Vũ Trọng Phụng cách nay hơn tám mươi năm!

*


Ca khúc Tiếng Dân Chài của nhạc sĩ Phạm Đình Chương:

“Đêm dâng với ngọn triều

Dô à dô kéo thuyền nhổ neo

Vi vu buồm lên cao

Dô à dô sóng reo dạt dào.

Trăng lên vừa nhô xa

Con thuyền trôi trong trời bao la.

Mái chèo này chèo xa tắp bến bờ.

Mau mau anh em ta ...

… Ơ này anh em ơi!

Tôi nhớ một chiều ánh lửa hồng soi thân yêu

Đâu bóng tre xanh,

Đâu mắt mẹ hiền giọt lệ rưng rưng chờ mong bóng con.

Ơ này anh em ơi!

Hương khói gia đình bát ngát trong câu mong chờ!

Đêm khuya mơ hồ chan hòa bao tiếng ta hò.

… Hò ô hò, hò dô ta

Lẳng lặng mà nghe ơ ơ hò dô ta

Sóng ru đợt vỗ lênh đênh

Tiếng reo cơn gió bập bềnh thuyền ta”.


Nhạc sĩ Phạm Đình Chương (1929-1991) cũng là ca sĩ Hoài Bắc, năm 1951 cùng với các anh em Hoài Trung, Thái Thanh, Thái Hằng & Phạm Duy (chồng Thái Hằng) lập ban hợp ca Thăng Long trình diễn khắp nơi vào thời điểm đó, sau nầy có thêm Khánh ngọc (vợ Phạm Đình Chương). Nhạc sĩ tài hoa Phạm Đình Chương với nhiều tình khúc nổi tiếng, nhạc phẩm Tiếng Dân Chài ra đời năm 1957.

Cuộc sống ngư dân tuy nhiều gian khổ nhưng ca khúc Tiếng Dân Chài đã làm thăng hoa hình ảnh rất đẹp với “Hò, hô… Tiếng reo cơn gió bập bềnh thuyền ta” quên đi nhọc nhằn để vui với kiếp mưu sinh.

Nào ngờ tiếng reo vui đó bị bức tử vì tiếng kêu thất thanh trên biển cả, tiếng than khóc hàng vạn gia đình nơi ben biển miền Trung vì Tàu Cộng xâm lăng vào hải phận đất nước, bắn phá tàu chuyền, sát hại ngư dân trong bao năm qua!

Thuở còn đi học nơi phổ cổ Hội An, vào dịp Hè, lũ chúng tôi cỡi xe đạp trên quãng đường 5 km xuống nhà hai người bạn Nguyễn Thang, Nguyễn Dương ở Cửa Đại làng quê Cẩm Thanh với nhiều cồn, gò, sông rạch, rừng dừa nước xinh tươi tạo nên phong cảnh hữu tình, nên thơ.

Nơi đây có ngôi mộ tổ tộc Lê, vị hoàng thân của triều Hậu Lê - hậu duệ của vua Lê Thái Tổ - do bị thất thế đã theo dòng người di dân vào đây lập nghiệp, góp phần khai hoang lập làng Thanh Châu. Nay có người bạn thân Lê Hùng, tuy rời cố hương từ nhỏ vào Phan Thiết nhưng vẫn nhớ nhiều nơi quê cha đất tổ. Cúng tôi cũng thường trò chuyện với nhau về nơi chốn thân yêu.

Những đêm không trăng, chúng tôi ra bãi biển Cửa Đại ngắm ánh đèn của thuyền đánh cá như hàng nghìn vì sao nằm dọc theo đường chân trời ở ngoài khơi, đẹp tuyệt vời. Quê hương nghèo như vậy mà địa danh có hai chữ, được ghép chữ đầu với Thanh… như tên một số ca sĩ, dễ thương và thơ mộng.

Ban ngày với rừng thông chạy dài trên bãi cát trắng phau dọc theo Cửa Đại, thiên nhiên đã tạo nên “thiên đàng hạ giới” giữa quê hương nghèo khó “đất cày lên sỏi đá”, nhờ vậy đã tạo nguồn cảm hứng cho tâm hồn nghệ sĩ sáng tác. Nhạc sĩ Lê Trọng Nguyễn (1926-2004) của quê tôi chia sẻ “Thật ra cái ý định viết một bài cho mối tình ở Hội An nó nhen nhúm lên trong lòng tôi đã từ lâu, nhưng phải chờ có một tia lửa thiệt âm ỉ ấy nó mới bốc lên được…”. Và, người em gái trong ca khúc Nắng Chiều cư ngụ tại thành phố cổ Hội An mà ông đã yêu từ năm 1945 khi ông vừa mới 19 tuổi. Đây được xem là nhạc phẩm thể điệu boléro đầu tiên ở VN, ra đời năm 1952. Không biết hình ảnh người tình trong ca khúc Cát Biển (cùng chung với Y Vân) cảm hứng từ đâu để viết nên lời ca: 

“Kể từ một chiều... vắng

Tuổi mộng ước chưa... tròn

Một mình nhìn cồn... sóng

Hôn bờ cát hoang

Thường hay mơ ước... tìm người bạn đường

Bàn tay êm ái... nụ cười dịu dàng

Làm đẹp cuộc sống... của những ngày gió sương…

… Dã tràng ngoài biển... cát

Hồn mộng vẫn se... hoài

Tình người thường một... lối

Không hề thiếu ai

Thành xưa xây đắp... đổ một nụ cười

Bàn chân trên cát... thủy triều dập vùi

Xin trời một lối... riêng có em và tôi”.

Anh là thông gia với anh Thái Tú Hạp, rất tiếc khi gặp ông, tôi không hỏi cồn sóng, cát biển nào vậy.

(Với tôi, âm nhạc như là hơi thở, cuộc sống lang bạt, lãng mạn, hình như mỗi ca khúc là kỷ niệm trong “Thú Đau Thương” như thi phẩm đầu tay của Dương Kiền năm 1960… nên đã ảnh hưởng và “méo mó nghề nghiệp” vì thế khi viết thường nghe nhạc và dẫn vào ca khúc).

Tác phẩm Biển Thầm Lặng của Dương Kiền sáng tác năm 1965, sau năm 1975 chưa có ai viết tiếp Biển Thịnh Nộ, nhất là vào thời điểm nầy.

Quê hương thuở đó còn bình yên, cuộc sống êm ả, người dân quê đôn hậu, hiền lành và tâm hồn đầy nhân bản. Cuộc sống ngư dân khó khăn trong mùa biển động nhưng khi trời yên biển lặng, ra khơi vang vọng “Tiếng Dân Chài” trên đại dương. Chúng tôi tha hồ ăn hải sản do bà con ngư dân thu hoạch… tuy không bao nhiêu nhưng thể hiện tấm lòng thương yêu, “hiếu khách” với học trò trên phố. 

Đã qua sáu thập niên, những ngư dân năm xưa đã ra người thiên cổ, nơi cõi vĩnh hằng đó tưởng chừng thanh thản nào ngờ nay phải ngậm ngùi cho con cháu trước thảm họa của giặc Tàu cộng!

Mỗi năm vào dịp tháng Năm nầy, tôi tìm những bài viết về thản cảnh vượt biên trong Biển Đông. Theo Wikipedia, “Tổng kết từ cuối năm 1975 đến năm 1995 trải qua 20 năm đã có 839.200 người dân Việt rời bỏ Việt Nam đến các trại tỵ nạn. Con số những người chết trong biển Đông và núi rừng biên giới Thái – Miên là các số thống kê không bao giờ ghi lại được. Con số ước lượng là từ 400.000 đến 500.000 người”… Nhưng qua các bài viết cho thấy con số người vượt biển theo ước tính của Cao Ủy Tị Nạn Liên Hiệp Quốc không chính xác vì dựa vào số thuyền nhân tị nạn trên đảo, đất liền để thống kê, còn số người bị chết cả tàu thuyền trên biển vô số, không kiểm chứng được! CSVN không cho biết tổng kết chính thức số người bỏ nước ra đi tìm tự do vì không muốn “vạch áo cho người xem lưng” để lên án. Trường hợp cậu em vợ của tôi, trước khi tính đường vượt biển, thành lập đội bóng tròn để có cơ hội tụ tập, bàn tính vượt biển. Trưa Mồng Một Tết năm 1979, gặp nhau ở quán Gió Khơi trên bãi biển Nha Trang, ra đi trót lọt trên chiếc thuyền nhỏ nhưng rồi mất tích, dựa vào đâu để thống kê! Thành lúc đó mới 17 tuổi, giấu cả gia đình, chỉ nói với người chị cả về ăn Tết, em đi để giúp chị lo cho ba cháu.

Những năm sau đó, vào dịp Hè, vợ tôi đem con từ Đà Lạt về Nha Trang, không dám ra biển vì bị ám ảnh đứa em thân yêu. Nơi đó đã một thời với bao kỷ niệm đẹp của cuộc tình được nửa thế kỷ và cũng là nơi tưởng niệm! Quá oan nghiệt. Sau đó, thỉnh thoảng vợ chống về Nha Trang, tuy không cô đơn như tâm trạng của Phạm Duy trong ca khúc Nha Trang Ngày Về, chúng tôi ngồi im lặng bên nhau, nhìn ra chân trời xa thẳm, từ địa ngục hướng về bên kìa là thiên đàng bị ngăn cách bởi biển máu, cõi lòng tan nát!

Thời đểm nầy, báo tạm ngưng phát hành vì nạn dịch Covid-19, đọc bài viết 45 Năm Thuyền Nhân, Vào Cõi Chết Tìm Đất Sống của nhà báo Huỳnh Kim Quang ghi lại khá dài cuộc hành trình bi thương đó. Phần kết trích trong thi tập Thủy Mộ Quan của nhà thơ Viên Linh, bài thơ Điếu Thi vô cùng cảm động:

“Trên Huyết Hải thuyền trôi về một chiếc

Chiều bầm đen trời rực rỡ đau thương

Thân chìm xuống băng tuyền giờ tận biệt

Sóng bạc đầu hối hả phủ trùng dương

… Hồn ơi dương thế xa dần

Hồn đi thôi nhé thủy âm là nhà

Hồn về trong cõi hà sa

Sống không trọn kiếp chết là hồi sinh.

… Hồn vẫn ở la đà Đông Hải

Hồn còn trôi mê mải ngoài khơi

Hồn còn tầm tã mưa rơi

Tháng Tư máu chảy một trời sương tan.

… Thác rồi thân hóa phù sa

Mon men trở lại quê nhà mỗi đêm”.

Không một nấm mồ, không một lời từ giã! Một dân tộc quá bất hạnh, chia lìa, ngậm ngùi nỗi đau! Biển Đông bao la như vậy mà trở thành huyệt mộ không có hình hài!

Cha mẹ nào không hy sinh con, nhà thơ Trần Dạ Từ trong bài thơ Ném Con Cho Giông Tố viết trong trại tù Gia Trung của CS năm 1979, nói lên tâm trạng của người cha phải “nghiến răng, đành đoạn” để vợ đành xa con, cho con đi vượt biển, gửi con cho giông tố, cá mập, hải tặc: 

“Em có lũ con thơ

Bị quê hương ruồng bỏ

Từ bóng tối hận thù

Em nghiến răng

Ném con cho giông tố…”

Biết bao bậc sinh thành biết rằng cho con cái ra đi, dữ nhiều lành ít nhưng đành đứt ruột bấm bụng chấp nhận tử sinh!

Hàng nghìn bài viết, hồi ức, thơ… nói lên thảm cảnh quá đau lòng của người còn sống, người chết trên biển khơi, chết trong vòng tay của người thân… máu nhuộm đỏ Biển Đông, không bút mực nào tả xiết!

*


Mẹ Việt Nam ơi! Biển Đông có tội tình gì mà xảy ra bao oan khiên lại ập tới. Biển Đông một thời êm đẹp như lời trong khúc Viễn Du của Phạm Duy:
“Ra sông. Biết mặt trùng dương, biết trời mênh mông… Thấy lòng phơi phới, thấy tình thế giới.Thấy mộng ngày mai, thấy niềm tin mới”.

Sau cơn đại hồng thủy Biển Đông với thuyền nhân lại xảy ra tai họa cho ngư dân miền Trung qua tháng ngày cuồng nộ. Ra khơi để tìm kế sinh nhai cho hàng triệu gia đình được cha truyền con nối từ đời nầy sang đời khác. Ra khơi không phải mang mộng viễn du mà tìm miếng ăn cứu sống cho gia đình trong nỗi sợ, thấp thỏm… bởi ai hèn yếu và vì ai gian ác? Câu trả lời đó đã đề cập qua tin tức trong thập niên qua.

Từ vụ việc xảy ra vào ngày 8/1/2005 tại Vịnh Bắc Bộ. Hai tàu đánh cá của ngư dân Việt Nam trong khi đang đánh cá tại vịnh Bắc Bộ đã bị  tàu cảnh sát biển của Trung Cộng bao vây và nổ súng tấn công làm chết 9 người, 7 người bị thương và bắt giữ 8 người. Một tàu đánh cá và xác những ngư dân đều bị phía Trung Cộng đưa về Hải Khẩu, Hải Nam. Tàu kia trốn thoát được trở về.

Bộ Ngoại Giao Việt Nam đã yêu cầu phía Trung Cộng có các biện pháp nhằm ngăn chặn và chấm dứt ngay những hành động sai trái tương tự, cho điều tra và xử phạt những kẻ đã bắn chết người và trước mắt trả lại cho Việt Nam những người bị bắt và thi hài những người đã chết, giải quyết mọi hậu quả, bồi thường thiệt hại về người và của cho ngư dân VN nhưng TC cho rằng hai tàu đánh cá nầy xâm phạm chủ quyền, còn lên tiếng đe dọa nên chìm xuồng!

Kể từ đó, những lần tàu Trung Cộng tấn công, đâm chìm tàu, bắn giết ngư dân Việt Nam ngay trong lãnh hải kinh tế thì Hà Nội lên tiếng là “tàu lạ”. Hiện tượng chữ “tàu lạ” trở thành trò hề được ví von khi nhắc tời Trung Cộng.

Trên cao nguyên, đất đai và bến cảng bị Trung Cộng chiếm cứ, khai thác tài nguyên thiên nhiên, xây dựng căn cứ (dưới hình thức kinh tế) cũng ví von là “nước lạ” để tránh xúc phạm đến Bắc Kinh!.

Trong suốt thời gian qua, Trung Cộng đã âm mưu xâm lấn, đến năm 2015 với “nhất lộ”, Bắc Kinh đã ngang nhiên xây nhiều đảo nhân tạo và quân sự hóa các đảo này, đồng thời phát triển lực lượng hải cảnh và dân quân biển, và như vậy coi như kiểm soát phần lớn Biển Đông. Việt Nam đã hoàn toàn bất lực, không ngăn chặn được, thậm chí không “cực lực phản đối”  đà lấn lướt của Trung Cộng. Khi rêu rao “núi liền núi, sông liền sông” mà phản đối là phản động đấy nhé, Mấy chữ nầy nghe quen quá, hãi hùng quá, khiếp sợ quá, thảo nào nó nhập tâm vào kẻ thốt ra!

Trước năm 1975, ông Đoàn Thêm (1915-2005) công chức cao cấp VNCH, giữ chức vụ cao cấp tương đương với Đổng Lý Văn Phòng, trực thuộc các phủ Thủ Hiến, Thủ Tướng và Tổng Thống từ thời tiền chiến đến thời Đệ Nhị Công Hòa. Bộ sách của ông loại niên ký và ký sự ghi lại tất cả sự kiện xảy ra như Hai Mươi Năm Qua (1945-1964), Việc Từng Ngày 1965, 1966, 1967, 1968, 1969…  Những Ngày Chưa Quên (1939-1954), Những Ngày Chưa Quên (1954-1963)… Khi định cư tại Canada với Những Ngày Muốn Quên, ấn hành năm 1992. Bộ sách của ông là tài liệu quý báu giúp cho công việc tìm hiểu khách quan, chính xác trong giai đoạn lịch sử.

Trong bài viết nầy chỉ điểm qua vài sự kiện chính theo dòng thời gian cho nội tình ở Biển Đông.

Tuyên bố Cairo năm 1943, Tuyên Ngôn Hội Nghị Potsdam năm 1945, Hòa Ước San Francisco năm 1951 và Hội Nghị Genève năm 1954 đều đã thừa nhận chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa (Paracels Islands) ngoài khơi các tỉnh Quảng trị, Thừa Thiên, Quảng Nam. Quần đảo Trường Sa Trường Sa (Spratley Islands) ngoài khơi tỉnh Khánh Hòa, cách xa hơn 610 hải lý (1 hải lý bằng 1.852 m) hướng Nam của đảo Hải Nam.

Thời Việt Nam Công Hòa đã bảo vệ được chủ quyền của đất nước, như cuộc đụng trận với Trung Cộng trong trận Hải Chiến Hoàng Sa ngày 19/1 năm 1974.

Sau khi Cộng Sản chiếm miền Nam VN, xảy ra tình trạng bất hòa giữa hai nước nên xảy ra cuộc chiến biên giới Việt-Trung ngày 17 tháng 2 năm 1979. Đặng Tiểu Bình huênh hoang “dạy cho VN bài học” bị khiếp vía!

Sau đó, Trung Cộng âm mưu xâm chiếm các đảo đá bãi Cô Lin, Len Đao… và Gạc Ma của quần đảo Trường Sa. Ngày 14/3/1988 được phóng đại thành cuộc chiến Gạc Ma nhưng nội tình là cuộc chiến mà bên bị hại không được nổ súng. Trong trận nầy có 64 lính công binh và hải quân VN thiệt mạng nhưng VN đã bị sức ép của TC nên bỏ rơi số phận, cho đến thời gian gần đây trước sự lên tiếng của công luận mới làm lễ tưởng niệm. 

Kể từ đó, TC trấn áp chủ quyền của VN, ngang nhiên xâm chiếm biển đảo, xây dựng căn cứ các đảo và ngày 23/6/2012, tổng công ty Dầu Khí Hải Dương công bố các lô dầu khí thuộc nội vùng biển của đường chín đoạn nhưng nằm sâu trên thềm lục địa của Việt Nam.

Sự kiện ngang ngược nhất của Trung Cộng đã thiết lập giàn khoan HD-981 và tàu khảo sát Hải Dương 8 (HD-8) ngay trong hải phận Việt Nam.

Giàn khoan HD-981, trị giá 952 triệu Mỹ kim, nó có thể khoan sâu tối đa 12.000 m.   

Ngày 02/5/2014, giàn khoan HD-981 di chuyển đến đảo Tri Tôn (cách Hải Nam 180 hải lý về phía Nam), đến bám trụ ở vùng biển tỉnh Quảng Ngãi cách đảo Lý Sơn khoảng 130 hải lý, ở vị trí này, HD-981 hoàn toàn nằm trong thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế EEZ (Exclusive Economic Zone) của Việt Nam.

Ngày 21/11/2015, tại Hội Nghị Thượng Đỉnh ASEAN (kể từ năm 1976 nhưng nhiều lần không thành) lần nầy tại Kuala Lumpur, Malaysia, CSVN lên tiếng đề nghị ASEAN cùng Trung Cộng cam kết không theo đuổi, không có hành động quân sự hoá ở Biển Đông nhưng chỉ là tiếng nói trong vô vọng! Và, các cuộc hội nghị tiếp theo cũng không giải quyết được gì với hành động ngang ngược của TC.

Cùng lúc với giàn khoan HD-981, Trung Cộng ngang nhiên cho tàu khảo sát Hải Dương 8 (HD-8) vào hải phận Việt Nam, để trấn áp khi xử dụng tàu hải cảnh xua đuổi tàu hải cảnh CSVN, bắn giết, bắt bớ tàu thuyền ngư dân miền Trung… bất chấp luật lệ.

Từ ngày 03/7/2019, HD-8 xâm phạm bãi Tư Chính - vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa của Việt Nam - quân sự hóa các đảo nhân tạo, lập căn cứ để khống chế. Việt Nam đã xây dựng số giàn khoan ở khu vực như bãi Tư Chính, Phúc Tần, Phúc Nguyên, Quế Đường, Huyền Trân và về phía xa hơn là ngoài bãi Ba Kè. Bây giờ Trung Cộng muốn chiếm những khu vực này, lấn áp không cho VN được quyền xử dụng.

Trung Cộng bất chấp Công Ước của Liên Hiệp Quốc về Luật Biển Quốc Tế (UNCLOS) năm 1982 (*). Mỗi lần Bắc Kinh xâm lược như vậy, Hà Nội lên tiếng cho có lệ cho qua sự kiện rồi nhường bước. TC đã dụng ý xây dựng các đảo tân tạo thành cứ điểm quân sự, có phi trường, có cảng sâu, có cơ sở hạ tầng, và có trại gia binh…

Ngày 05/4/2020, HD-8 xuất hiện ở vùng biển ngoài khơi miển Trung Việt tính từ Cam Ranh tới Đà Nẵng cùng với số tàu hải cảnh và tàu cá trong âm mưu khai thác dầu mỏ và tăng cường thế lực. Như đã dẫn chứng ở trên, TC hành động và VN chỉ nói… và nói. 

Trong những năm qua, truyền thông trong nước đã đăng tải tin tức, hình ảnh tàu hải cảnh của TC xâm phạm hải phận VN, lộng hành vây hãm tàu thuyền ngư dân VN, đâm chìm tàu, sát hại, bắt giam ngư dân. Có lúc hành động mọi rợ tàn nhẫn khi đâm chìm tàu thuyền rồi bỏ đi, bỏ mặc nạn nhân.

Không có nước nào có hành động tán tận lương tâm như Trung Cộng nhưng vì “hèn với giặc, ác với dân” nên không dám nêu đích danh thủ phạm mà chỉ nói “tàu lạ”… mà ngáy xưa gọi là phạm húy, king6 kỵ gọi tên ai trùng tên nhà vua. Nếu ngư dân phẫn nộ biểu bình lên án Trung Cộng thì bị dẹp ngay vì xúc phạm đến thiên triều.

Những cuộc tấn công của tàu hải cảnh TC như vậy kéo dài cho đến ngày 2/4/2020, tàu hải cảnh TC đâm chìm tàu cá của ngư dân Quảng Ngãi ở vùng biển gần đảo Phú Lâm thuộc quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam, bắt 8 ngư dân, 4 ngư dân khác được tàu cá vớt đưa về Quảng Ngãi.blank


Theo báo cáo của Hội Nghề Cá Quảng Ngãi, sau khi nhận được tin, 3 tàu cá của ngư dân Quảng Ngãi đã đi tìm kiếm, cứu nạn, nhưng bị tàu của Trung Cộng ngăn cản, xua đuổi, làm mất mát, hư hỏng nhiều tài sản trên tàu, buộc tàu cá phải quay về bờ.

Sau đó, phía Trung Cộng mới trao trả 8 thuyền viên trên tàu cá bị chìm cho 2 tàu cá của VN và truy đuổi họ nhiều giờ trong đêm 2/4.

Hội Nghề Cá Quảng Ngãi đã kiến nghị Hội Nghề Cá Việt Nam lên án những hành vi phi pháp, gây tổn hại cho ngư dân Việt Nam, yêu cầu phía Trung Cộng điều tra làm rõ vụ việc, bồi thường thỏa đáng cho ngư dân Việt Nam. Nhưng trong thời gian qua TC phớt lờ vì kiến nghị chỉ là “con kiến mà kiện củ khoai” mà gặp loại khoai sùng nhiều độc tố thì con kiến chết luôn!

Ngày 1/5/2020, tàu cá hành nghề lưới, gồm 6 ngư phủ đang hành nghề trên vùng biển cách cửa biển thị xã La Gi, tỉnh Bình Thuận khoảng 13 hải lý về hướng Đông - Đông Bắc thì bị một tàu (dạng tàu vận tải, hành trình theo hướng Nam-Bắc) đâm chìm tại chỗ. Toàn bộ lao động đã được tàu cá gần đó cứu vớt, đưa vào bờ.

Tuy có phán quyết của Tòa Trọng Tài Quốc Tế (International Court of Arbitration) năm 2016, và vấn đề vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) được xác định rất rõ ràng, không một thực thể nào trong quần đảo Trường Sa có được vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý. Như vậy vùng biển hiện nay, nơi đang có đụng độ giữa Việt Nam và Trung Cộng, điển hình bãi Tư Chính, hoàn toàn nằm trong vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) của Việt Nam. Và về mặt luật pháp quốc tế, không thể gọi là vùng tranh chấp được. Nhưng TC lố bịch cho đó thuộc lãnh hải của đường lưỡi bò tự vạch ra năm 2009.

Hành động khốn nạn nhất của TC trong lúc gặp thiên tai như trường hợp ngày 18/6/2018, có 20 tàu cá với 100 ngư dân của tỉnh Quảng Ngãi vào tránh trú sóng to, gió lớn ở đảo Bạch Quy (quần đảo Hoàng Sa) đã bị tàu của Trung Cộng xua đuổi.

Về việc tàu cá TC vi phạm đánh bắt cá trên lãnh hải VN, trước đó chưa cho biết rõ số lượng. Trong sáu tháng đầu năm 2015, lực lượng kiểm ngư VN đã phát hiện có 1.944 tàu cá Trung Cộng vi phạm trên vùng biển Việt Nam, tăng 944 tàu so với cùng kỳ năm 2015”. Ông Lưu Văn Huy, Cục trưởng Cục Kiểm Ngư cho biết ngư dân VN bị TC bắt, rồi ép ký vào biên bản, giấy tờ công nhận Hoàng Sa, Trường Sa là của TC thời gian qua là có. 

Ông Huy cho rằng ngư dân VN tham gia đánh bắt trên vùng biển chủ quyền của VN cần cảnh giác với chiêu trò này. Đặc biệt, không ký bất cứ giấy tờ nào mà họ yêu cầu khi mình không đọc được hoặc không rõ nội dung. “Nước ta có hơn 1 triệu lao động cùng hơn 120.000 tàu thuyền đánh bắt ngoài biển. Chúng ta có đầy đủ bằng chứng để khẳng định về chủ quyền vùng biển, quyền tài phán của VN trên Biển Đông”. 

Theo nhận định của các nhà phân tích thời sự thì TC trang bị tàu cá của họ như lực lượng bán quân sự. Vừa uy hiếp tàu cá VN vừa là lá chắn nếu xảy ra cuộc chiến quy mô trên biển thì TC cho xua đạo quân nầy ở phía trước để làm bia đỡ đạn! Thủ doạn, trò láu cá, hèn hạ nầy chỉ có TC, không có nước nào trên thế giới đem sinh mạng của ngư dân làm con vật hy sinh.

Tập Cận Bình học thủ đoạn của Thành Cát Tư Hãn. Khwarezm khi ấy rộng lớn, bao gồm toàn cõi Trung Á ngày nay, đội quân hùng hậu thường trực. Thành Cát Tư Hãn đã huy động toàn bộ lực lượng của Mông Cổ, mang theo cả bốn người con trai, các dũng tướng trong cuộc xâm lăng nầy. Tháng 3 năm 1220, Mông Cổ tiến quân vào kinh đô Samarkand của Khwarezm được tổ chức phòng thủ với khoảng 100.000 quân. Thành Cát Tư Hãn bắt đầu vây thành, xử dụng chính những tù binh trong các trận chiến trước làm lá chắn, bắt họ đi lên hàng đầu… Sau khi Samarkand thất thủ, Thành Cát Tư Hãn dắt các tù binh ra một khu đất trống ngoài thành phố, ở đó đầu của họ được chất thành một hình kim tự tháp như là biểu tượng chiến thắng của người Mông Cổ. Đúng là cá mè một lứa.

Than ôi! Ngư dân VN đang lâm nguy trong “một cổ ba tròng”, một là tàu hải cảnh, hai là tàu cá TC và ba là “nhà nước CSVN” không quyết tâm bảo vệ ngư dân, không dám đương đầu với tàu đối phương khi dùng vũ lực! Ngư dân lãnh đạn từ chết đến bị thương!

Thương cho ngư dân VN trong cảnh khốn cùng. Còn đâu với “Tiếng Dân Chài” mỗi khi ra khơi vang vọng “Sóng ru đợt vỗ lênh đênh. Tiếng reo cơn gió bập bềnh thuyền ta”.

Nhìn tấm hình vào đầu tháng 5/2020, Hàn Quốc và Bộ Tư Lệnh Liên Hiệp Quốc đã gửi binh sĩ tới trấn áp các tàu đánh bất cá hợp pháp của Trung Cộng ở vùng biển trung lập cửa sông Hàn giữa hai miền Triều Tiên. 

blank


Thấy sự dũng cảm của Hàn Quốc (diện tích 97.235 km2 và dân số 51. 256.000 người, ít hơn VN) nghĩ đến nước ta, thật xót xa! 

Little Saigon. May 14/2020

Vương Trùng Dương


* (Ghi chú: Công Ứớc Liên Hợp Quốc về Luật biển (UNCLOS - United Nations Convention on Law of the Sea) ký ngày 10/12/1982, nội dung được phổ biến: 

https://thuvienphapluat.vn/van-ban/giao-thong-van-tai/Cong-uoc-Lien-hop-quoc-ve-Luat-bien-10-12-1982-86219.aspx)



Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Có một buổi trưa, hai đứa đang thưởng thức bò bía, đậu đỏ bánh lọt ở chùa Xá Lợi, góc Bà Huyện Thanh Quan và Ngô Thời Nhiệm (?), thì gặp một "cái bang". Đầu đội khăn rằn, đeo mắt kiếng cận nặng, cổ quấn vài ba chiếc khăn đủ màu và ông còn dẫn theo hai con chó, vừa đi vừa múa tay múa chân như người say rượu. Chừng như ông không cần thấy ai, chung quanh chỉ có ông và hai con chó. Người đàn ông "cái bang" đó là nhà thơ, nhà văn, nhà biên khảo nổi tiếng của Việt Nam: Bùi Giáng. Hai con chó vừa đi vừa sủa vang, khiến một số nữ sinh Gia Long đang đứng quanh xe bò bía, vội vã chạy né qua bên kia đường. T
Một ngày nọ, ngài gặp một bà mẹ, bà ôm một đứa con vừa mất vừa đi vừa khóc lóc thảm thiết, ai cũng mũi lòng thương, thông cảm vì mất con là nỗi đau khổ nhứt trong cuộc đời… người ta mách bảo là bà nên gặp Sa Môn Cồ Đàm, bà sung sướng bế con đã mất đi ngay và gặp phật, xin phật dùng phép thần thông cứu sống con bà. Xung quanh phật, các tì kheo đang ngồi cầu nguyện cho chúng sanh được giải thoát và cũng cầu nguyện cho các chúng sanh còn tại thế sẽ may mắn mà gặp được giáo pháp của Như Lai. Rồi người mẹ đau khổ cũng được gặp phật.
Cuối tháng Ba, những cơn gió nóng tràn về thành phố. Một hai trận mưa lạc loài đến sớm rồi thôi. Không khí ngột ngạt. Mùi đất nồng khó chịu. Như một cô gái uể oải trong cơn bệnh, thành phố trông mệt mỏi, rạc rời. Đoan đi vào Câu lạc bộ của trường. Bình thường, cứ đến thứ Sáu là không khí chuẩn bị cho chiều văn nghệ thứ Bảy lại nhộn nhịp. Nhưng hôm nay, như có một cái gì kéo mọi thứ chùng xuống. Chị Thuận, người phụ trách Câu lạc bộ, mỉm cười khi thấy Đoan, nhưng là một nụ cười kém tươi. Chị vẫn câu chào hỏi thường lệ: “Em uống gì không?” “Dạ, chị cho em nước chanh.” Chị Thuận pha ly nước chanh đặc biệt, nóng, ít đường, mang đến để trước mặt Đoan, và kéo ghế ngồi xuống bên Đoan. Hình như không có gì để bắt chuyện, chị Thuận nhìn ra sân, nói nhỏ:
Tôi khép cánh cửa phòng ngủ, rón rén bước ra, sợ gây tiếng động làm thằng cháu nội lại giật mình thức giấc; thằng bé đã mười tháng tuổi, biết làm đủ thứ trò như con khỉ con, chiếc mũi bé xíu của nó chun lại, đôi môi dầy cong lên, mỗi khi bà nội bảo nó làm xấu, thật dễ thương, canh nó hơi mệt vì phải chơi cho nó đừng chán, lèo nhèo, nhưng chơi nhiều thì sức bà nội có hạn, làm sao chạy theo nó cả ngày được!
Những cái mặt hướng về phía trước. Những cái đầu hơi cúi, những cái lưng hơi còng có lẽ bởi sức nặng của chiếc ba lô đeo sau lưng, hay tại - nói một cách màu mè, văn vẻ, đầy giả dối là - gánh nặng của đời sống. Trước mặt tối đen. Bên phải là những cánh cửa cuộn bằng tôn đóng kín. Những cánh cửa lạnh lùng, vô cảm; lầm lì từ khước, âm thầm xua đuổi. Dưới chân là nền xi măng. Cứng và lạnh. Không thể là nơi tạm dừng chân, nghỉ mệt. Sâu vào phía sát vách là nền lót những viên gạch vuông. Không một cọng rác. Không một bóng chó hoang, mèo lạc. Không cả những hình hài vô gia cư bó gối vẩn vơ nhìn nhân gian qua lại.
Đức hạnh cao quý thể hiện thành tâm vô phân biệt. Tâm vô phân biệt tạo thành một sự bình đẳng tuyệt đối trong giáo pháp của đức phật. Giáo pháp thâm sâu vi diệu của Như Lai thì không phải ai cũng hiểu hết, cũng ngộ được điều đó đa phần các vị đại trí thấu đạt. Còn lòng từ bi của phật thì lan tỏa vô phân biệt như ánh sáng mặt trời soi sáng khắp nơi nơi, như mưa rơi tắm mát đại ngàn. Những lời giảng dậy trên đây được dẫn chứng nhiều và rõ nhứt là ở phật giáo Tây Tạng.
Anh Hai của tôi, sau chuyến vượt biên thất bại, bị giam ở nhà tù Bình Đại Bến Tre chín tháng, khi trở lại trường Phan Thanh Giản, Cần Thơ mới biết đã bị cắt hộ khẩu, mất việc làm, bèn quay về Sài Gòn sống tạm với gia đình, chờ cơ hội vượt biên tiếp theo. Một hôm, anh bị cơn sốt rét tái phát hành hạ, (hậu quả của những ngày trong trại giam), cần phải đến bệnh viện chữa trị, nhưng hộ khẩu không có, anh bèn mượn cái Sổ Sức Khỏe của thằng cháu (con bà chị họ ở kế bên nhà), để đi khám bệnh
Năm đó, tôi qua Arlington,Texas thăm gia đình, rồi ghé Dallas thăm người hàng xóm cũ thân thiết từ khi còn ở Việt Nam . Chú Thím ấy đónvợ chồng tôi nồng hậu như mọi khi, bữa ăn đặc sản món Huế như tôi yêu cầu, sau đó kéo nhau ra phòng khách ăn bánh uống trà . Rồi Thím gọi cháu ngoại: - Thiên Ân ơi, ra đây ca hát cho hai bác Canada nghe đi con.-Cô bé hai, ba tuổi tung tăng ngoan ngoãn khoanh tay chào chúng tôi, rồi bạo dạn chạy ra giữa phòng, tay giả bộ cầm micro phone, rồi nhún nhảy tự nhiên hát một bài hát Tiếng Việt thật rõ ràng .
Ngày xưa rất xa xưa, ở vùng quê thôn dã, người dân sống giản dị, đơn sơ, mộc mạc; người ta trồng tỉa những vườn rau cải, vườn ngô, vườn cà… lấy hoa lợi để sống. Thường thường có chim chóc kiếm ăn đến phá phách, dãi dãi, mổ mổ những hạt mới ươm trồng hay những nụ hoa mới ra, chúng ăn, với con người trồng tỉa lấy hoa lợi là chúng nghịch ngợm và phá hoại, ăn khín. Mới đầu chúng đến một vài con, sau rủ nhau đến nhiều hơn, cả nhà cả đàn chim chóc… và người gia chủ trồng tỉa phải tìm cách bảo vệ hoa màu của họ, nguồn sống của họ.
Người đàn bà với tay kéo tấm bạt vải phủ hai mặt bàn thấp và lổng chổng mấy cái ghế úp lại phía trên. Buổi chiều tháng chín nhả vài vệt nắng vàng sậm trên mấy lùm cây mắm khẳng khiu mọc hoang dại bên hông. Căn nhà chia làm hai, phía trên mặt lộ làm quán lộ thiên, phần còn lại là căn nhà sàn nằm doi ra mặt bờ kinh Cụt. Mặt quán cũng được biến dạng mỗi ngày. Sáng có cà-phê, hàng xôi và thuốc lá. Buổi trưa là quán cơm bình dân cho đám khách hàng chợ Giữa, đến từ các huyện xa xôi. Tối đến, chỉ còn vỏn vẹn thùng thuốc lá bán lẻ. Tất cả sinh hoạt biến dạng dưới bàn tay của người đàn bà và đứa con gái nhỏ. Người ta nhìn thấy trong đôi mắt nâu đen của hai má con in đậm hình ảnh căn nhà chật chội, bày biện lượm thượm những ghế bàn buồn bã, lạnh lùng. Bóng dáng người đàn bà và bếp lửa áo cơm, vẫn không đủ vẽ lên khung cảnh đầm ấm của một gia đình. Đứa con gái mười bốn tuổi, giống má, lầm lũi như chiếc bóng trong nhịp đời hờ hững.
Ai cũng có những hoài niệm mang theo cả cuộc đời, hoài niệm ngày càng nhiều theo tuổi tác dâng lên, người may mắn có nhiều hoài niệm vui hơn buồn để khi chợt nhớ thấy lòng vui vui. Ai cũng có những ước mơ thầm kín để khi hoài niệm thấy mình còn là người, giả như ước mơ cho người yêu cũ có cuộc sống hạnh phúc. Điều ấy nói ra ai tin nên xếp vào ước mơ thầm kín, còn những ước mơ nói ra được chỉ là hoang tưởng nhất thời như thấy chiếc xe đẹp lướt qua, ước gì mình có chiếc xe ấy. Nhưng giả sử ngày mai trúng số, có tiền mua chiếc xe ấy thì ước mơ nói ra được hôm qua đã thay đổi thành chiếc xe mắc tiền hơn nữa và đẹp hơn nữa vì là chiếc xe của hôm nay, của người mới trúng số. Khác với ước mơ thầm kính vui buồn riêng mang coi vậy mà theo ta như hình với bóng, càng thầm kín càng bền lâu sau nỗi buồn chia xa đã gặm nhấm tâm can theo tháng ngày, nghe tin người xưa không hạnh phúc thì nỗi buồn tăng lên gấp đôi nhưng nói ra ai tin trong trời đất bao la này…
Truyện HOÀNG CHÍNH - Thứ Mùa Màng Không Có Thật


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.