Hôm nay,  

14/06/202009:42:00(Xem: 5122)

Vừa ngồi được phút chốc thì thấy một thiếu phụ lên xe, nhìn cái bụng lum lum có bầu biết là chị ta khó nhọc lắm. Nó uể oải đứng dậy nhường chỗ cho chị ta, mặc dù nó đã đứng suốt ngày trong xưởng, hai chân mỏi muốn rũ ra. Xe buýt đầy nhóc, mọi người chen chân đứng như thế mà chị còn mang cái bầu nữa thì mệt phải biết. Nghĩ mình nhường ghế cho chị cũng là một hành vi đẹp nên dù có mệt nó vẫn thấy vui vui và thoải mái trong lòng.

 

 Qua chừng năm trạm nữa, người lên kẻ xuống tấp nập, chị có bầu kia cũng xuống xe, trước khi đi chị chào và cảm ơn nó lần nữa. Nó cũng vui vẻ chào laị, bảo chị đừng bận tâm chi, chuyện nhường ghế cho người có bầu, cụ già, em bé là chuyện đương nhiên. Xe đến trạm gần cuối thì xe vắng hẳn, đang hí hoáy quẹt quẹt trên cái điện thoại thông minh, bất chợt nó ngưng laị nhìn quanh quất và thấy một cái ví gần gầm ghế. Nó nhặt lên và xem thử bên trong thì thấy tiền nhiều quá, nó nhét vội vào ba lô của nó mà những người khách còn laị trên xe chẳng ai thấy. Người nào cũng chúi mũi vào màn hình điện thoại, chẳng ai biết trời trăng gì xung quanh cả. Về đến nhà trọ, nó xem lại thì có đến một trăm triệu đồng và hai ngàn ba đô la Mỹ, ngoài ra còn có hai chiếc nhẫn và cái thẻ tín dụng, thẻ căn cước. Nó run run, chưa bao giờ thấy hay cầm trên tay món tiền lớn như thế, lòng thầm thì: “Trúng mánh rồi”. Trong đầu nó lập tức phác hoạ ra bao nhiêu việc phải làm. Nó sẽ xin nghỉ phép một tuần để hưởng thụ, trước hết phải đi nhà hàng hạng sang ăn một bữa cho đã đời, vô thương xá mua mấy món hàng hiệu lâu nay ao ước mà không có tiền, đi xăm con rồng trên lưng, mấy  tay thợ xăm kêu giá cả chục triệu nên trước giờ chưa làm đượ, phải đi du lịch một chuyến bù laị những ngày quần quật cày như trâu... nghĩ đến đó nó thấy sung sướng lâng lâng tựa hồ như bay bổng. Nó nhảy cẫng lên hét to;” Hooray, hooray”. Khi phút giây sướng vì lượng Adrenaline tiết ra ào ạt, nó trở laị bình tĩnh và chợt nhiên lòng nó chùng xuống khi nghe được lời thì thầm từ trái tim:

 

 - Cậu sung sướng lắm phải không? cậu đang vui trên sự đau khổ của kẻ khác đấy! giờ này người chủ cái ví ấy đang khóc, tinh thần đang bấn loạn. Cái ví ấy có thể là của chị khách mang bầu, có thể là của một người mẹ hay một người em gái nào đó.

 

 Nó chột dạ, bao nhiêu cao hứng về những kế hoạch vừa vẽ ra chợt tan biến và nó cụt hứng. Nó laị nghe có giọng cứng cỏi của lá gan:

 

 - Cậu chủ nhặt nó trên xe buýt, cậu ấy đâu có lấy cắp của ai!

 

 Trái tim vẫn thì thầm:

 

 - Đành rằng nhặt được, nhưng rõ ràng có thể trả laị cho người đánh rơi, cố tình không trả cũng đồng nghĩa là ăn cắp rồi.

 

 Lá gan lý luận:

 

 - Chẳng có luật nào trị tội nhặt của rơi cả.

 

 Trái tim giải thích:

 

 - Luật pháp có thể không trị nhưng luật nhân quả không sai vạy, lương tâm không cho phép.

 

 - Lương tâm sao bằng lương tháng? Món tiền đó cậu chủ làm cả hai năm cũng hổng có, lá gan biện bác.

 

 - Nếu đã nhẫn tâm và vô đạo đến mức đó thì còn gì để nói. Tớ tin cậu chủ không đến nỗi như vậy! trái tim nhỏ nhẹ nhưng mạch lạc trả lời.

 

 Nó thật sự phân vân, nó cũng muốn trả laị cho người đánh mất nhưng nó cũng thích ăn xài hưởng thụ. Nó thương người mất ví nhưng những đòi hỏi của bản thân nó róng riết chẳng chịu buông tha. Nó đang đứng giữa đường lựa chọn, trả laị hay tiêu xài? Nó đã học qua những bài học đạo đức, những giáo lý từ bi, nhân quả… nhưng lúc này sao thấy mông lung quá, áp dụng chẳng dễ tí nào. Nó cũng từng nhặt được những món đồ nho nhỏ, không đáng giá bao nhiêu nên đễ dàng trả laị cho người mất, còn bây giờ cái ví này với món tiền lớn quá nên nó sanh lòng giữ lấy. Nó suy tính thiệt hơn, đắn đo giữa tình người và sự thoã mãn cho bản thân. Bao nhiêu ý nghĩ quay cuồng như lồng quay số lô tô, nhiều giả thuyết được đặt ra. Chợt một ý nghĩ phân tích rạch ròi như tay thám tử chuyên nghiệp phát sinh trong đầu nó: “Những người đi xe buýt là những người nghèo hoặc là học sinh, sinh viên, người lao động…Và trong thời buổi hôm nay, ít ai giữ món tiền mặt nhiều như thế trong ví. Có thể chủ nhân của cái ví này mới đi nhà băng rút tiền ra để chuẩn bị cho một việc quan trọng nào đó. Còn thẻ tín dụng thì kh6ong thể xài được, mình không biết mật mã, không beí6t cách bẻ khoá, lớ ngớ là người ta gọi cảnh sát còng tay như chơi.

 

Mình chỉ có thể xài món tiền mặt kia thôi!”, việc trả laị hay giữ lấy mà tiêu xài quả là thử thách đầy cân não. Nó còn nẩn vơ thì một ý nghĩ nữa laị hiện ra:” Biết đâu người mất ví sẽ nhớ laị đã làm rơi trên xe buýt và sẽ nhờ cơ quan quản lý xe hoặc cảnh sát xem laị máy quay hình trên xe… lúc ấy thì sẽ rắc rối, điều này cũng có thể lắm!”

 

 Nó cầm cái ví lên lật qua lật laị, món tiền quá lớn, nằm mơ cũng chưa thấy. Có lời xúx xiểm từ lá gan:

 

 - Cậu cứ xài đi, tới đâu hay tới đó, cơ hội chỉ một lần thôi, không dễ gì có laị lần thứ hai, nếu không muốn nói là sẽ không có!

 

 Trái tim rủ rỉ:

 

 - Món tiền tuy lớn thật, cậu xưa nay là người tốt, lẽ nào chỉ  vì món tiền này mà cậu bán rẻ danh dự sao? cậu hãy nghĩ xem, nếu mẹ cậu, chị cậu, em cậu mất món tiền như thế thì họ sẽ đau khổ như thế nào? Chưa kể là còn rắc rối với chồng, với gia đình hay với chủ nợ của họ. Giả sử họ dùng món tiền này để chữa bệnh, đóng học phí hay trả món nợ lỡ vay của xã hội đen… nếu mất món tiền này thì quả là tai họa lớn ụp xuống đầu họ, không chừng họ sẽ không vượt qua nổi cú sốc này!

 

 Trái tim ngưng giây lát rồi laị thủ thỉ:

 

 - Cậu đã đọc sách, đã học lý thuyết, giờ cậu hãy thực hành đi! những cái nhỏ nhiệm vi tế nó ẩn sâu, ngày thường dễ lướt qua, khi có điều kiện thuận lợi thì nó sẽ trỗi dậy mãnh liệt. Bản thân cậu đã từng, khi nhặt món nhỏ bé thì cậu trả laị ngay, giờ nhặt món lớn thì lòng tham trỗi dậy, nó biến cậu thành con người khác, vì món tiền này mà cậu có những suy nghĩ và hành vi mà trước kia cậu chưa từng có.

 

 Nó thấy xấu hổ cho bản thân, những lời trái tim nói hoàn toàn chính xác, mình không thể thụ hưởng trên sự đau khổ của kẻ khác. Nó vừa thú nhận như thế thì có âm thanh đay nghiến từ bao tử và quả thận:

 

 - Thằng tim kia, nãy giờ tụi tao nghe mầy nói mà sanh bực bội. Mầy bày vẽ chuyện lương tâm đạo đức vớ vẩn, hãy để cậu chủ hưởng sung sướng một tí đi, lâu nay cậu chủ khổ nhiều rồi. Cậu chủ thiếu thốn nhiều thứ, nay có cơ hội thì ăn chơi mát trời ông địa cho đã đời, mua những thứ cậu ấy muốn và làm những gì cậu ấy thích…mầy cứ can gián làm cho cậu chủ khó xử.

 

 Hai đứa nó còn quay qua khích tướng lá gan:

 

 - Cậu phải kích hoạt làm cho cậu chủ dạn dĩ lên, bảo cậu chủ tiêu xài đi, chẳng có chi phải sợ hay lương tâm cắn rứt!  đời có bao nhiêu đâu, ngắn ngủi lắm, hưởng thụ hay khắc khổ rồi cũng chết cả! sống đạo đức nhiều khi còn bị người ta chế giễu, khi dễ…

 

 Thế rồi cả ba đứa nhao nhao khích bác trái tim, oán trách và cả kết tội trái tim. Trái tim vẫn nhẹ nhàng, mềm mỏng:

 

 - Các cậu nói đúng, đời ngắn ngủi lắm, vô thường lắm! chính vì vậy mà mình phải sống cho đàng hoàng, sống cho đẹp, sống ở đời cần có một tấm lòng. Mình sống tốt với người cũng chính là tốt với bản thân mình, mình tạo cái nhân tốt cho việc tái sanh mai sau.

 

Mình sống tốt  mà người ta cười hay chế giễu ấy là người ta sai, đừng vì cái sai của người khác mà mình bỏ cái đúng của mình.

 

 Ba đứa gan, bao tử và thận la lối ồn ào:

 

 - Tim, mầy hổng nghe người ta nói sao? Ca dao đấy nhé!

 

    “Trắc nết chết cũng ra ma

        Chính chuyên chết cũng khiêng ra ngoài đồng”

 

  hoặc là: “Đạo đức lấy cứt gì ăn… Mầy xúi cậu chủ trả laị tiền, sống thúc thủ thân tâm, mày làm khổ cậu chủ, haị cậu chủ!

 

 Trái tim nghiêm giọng:

 

 - Những câu ấy rất bậy, bao biện cho việc sai trái, có thể người nói hay viết câu ấy là kẻ không ra gì. Các cậu dùng mấy câu ấy để biện minh cho việc xúi cậu chủ làm sai, các cậu mới chính là người haị cậu chủ! Tớ đã nói hết những gì cần nói, giờ lựa chọn thế nào là tuỳ vào bản lãnh cậu chủ!

 

 Nó đang nằm dài, gác tay lên trán nhớ câu: “Trái tim có lý lẽ của nó, đôi khi khối óc không thể hiểu được”, những lời trái tim rất chân tình, ngay thẳng và nhân ái. Nó vùng dậy mở máy tính cá nhân và viết:

 

 - Tôi tên: Vô Tình Khách, ngày x tháng xx năm xxx, vào lúc năm giờ chiều,  trên chuyến xe buýt số 69 chạy từ đường 23 đến đường 27 tôi nhặt được một cái ví, trong ấy có một số tiền và nữ trang. Ai làm rơi thì liên hệ số điện thoaị: xxx xxx xxx hoặc điện thư: Votinhkhach01@... để nhận laị tài sản.

 

 Nó đăng lên mạng Facebook, Twitter và nhắn cho mọi người chia sẻ rộng rãi. Nó còn gọi vào hộp thư bạn xem đài của đài truyền hình địa phương để nhờ thông báo trên tivi. Hai giờ sau có khá nhiều tin nhắn nhận là chủ cái ví ấy, nó lập laị lời yêu cầu cần có giấy tờ chứng minh trùng với thẻ căn cước trong ví, mấy tin nhắn ấy lặn luôn. Quá trưa hôm sau có người phụ nữ nhắn tin xin địa chỉ đến nhà. Nó cho địa chỉ và chị ấy đến, trông chị gầy hao và có vẻ khóc nhiều vì đôi mắt còn sưng bụp. Nó mời chị ngồi rồi rót cho ly nước lọc, chị xoay cái ly nôn nóng trình bày: Con chị bị ung thư, đang xạ trị, bao nhiêu tài sản bán hết vẫn không đủ, nhờ nhiều người hảo tâm kêu gọi giúp đỡ nên có một ân nhân ẩn danh cho chị một trăm triệu và hai ngàn ba đô la để chữa chạy cho con chị, ngoài ra trong ví còn có hai chiếc nhẫn cưới, chị giữ gìn lâu nay toan tính bán nốt để chữa trị cho con, cái thẻ tín dụng thì chỉ có chừng trăm ngàn thôi. Chị đưa ra giấy hộ khẩu, giấy kết hôn… đều khớp với tên trong thẻ căn cước. Nó nhìn chị và cái hình trong thẻ căn cước đúng là chủ cái ví rồi, nó bèn trao laị cái ví cho chị và bảo chị đếm laị tiền, chị kiểm tra laị không thiếu xu nào. Chị sụp quỳ xuống muốn lạy nó để cảm ơn. Nó vội đỡ chị ngồi lên:

 

 - Chị đừng làm vậy!

 

 Chị sụt sùi cảm ơn mấy bận và định muốn nói thêm nhưng có lẽ xúc động quá nên không nói được gì. Nó cũng cảm thấy thương chị và trong lòng mừng vì mình đã vượt qua được chính mình. Nếu nó giấu cái ví luôn thì không biết chị sẽ ra sao và con chị sẽ thế nào đây? Nó hỏi thăm về chồng chị đâu khi thấy chị đã bình tĩnh laị. Chị bảo: “Chồng chị chạy xe ôm và làm bất cứ việc gì có thể làm được để có tiền chữa trị cho con. Hôn qua anh ấy có hẹn chở khách đi tỉnh nên chị mới đi xe buýt và trong lúc bất cẩn cái ví trong túi xách bị rơi ra, tối hôm qua cả hai vợ chồng khóc sưng mắt, may mà chồng chị cũng thương chị nên không đánh đập hay chửi mắng gì.”

 

  Nó bảo chị gọi anh đến chở về, giờ ngoài đường dễ bị cướp giật lắm, chị ngồi đợi chừng mười lăm phút sau thì chồng chị đến. Anh ta trông cũng hiền và khá khắc khổ, có lẽ vì suốt ngày nắng gió ngoài đường, tuy nghèo khổ  nhưng khi chị làm mất món tiền lớn vậy mà anh cũng không nỡ đối xử tệ với vợ mình. Nó mừng thầm chị có phước, gặp được người chồng tử tế. Anh cảm ơn nó rối rít, tiễn hai vợ chồng ra về mà lòng nó thấy vui, nó đã làm được một việc đẹp, nó vượt qua chính nó. 

 

 Mầy ngày sau bạn bè hỏi:

 

 - Sao mầy không nhờ nhà đài hay báo chí trả laị? vừa khỏi mất công vừa được tiếng thơm.

 

 Nó cười thầm: “Món tiền lớn tao còn trả laị được thì cái tiếng thơm hư danh nghĩa lý gì.”

 Tối hôm ấy nó ngủ mà trái tim thì thụp nhẹ nhàng êm ái lạ thường, bọn bao tử, gan, thận cũng im ru không nghe thấy lời phàn nàn nào nữa cả.

 

TIỂU LỤC THẦN PHONG

Ất Lăng thành, 062020

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Rứa là tui được hưởng hai cái bánh nhỏ thanh tao dòn rụm, bột họ pha răng mà mê rứa không biết, kèm mấy lát vả, lát khế, rau sống chấm nước tương pha chế ngon ơi là ngon. Tỉnh táo bao tử rồi hắn chở tui đi vòng thành phố Huế, qua khu Thương Bạc, ủa bữa ni răng mà người đông rứa, bớt vẻ yên tĩnh như ngày xưa, tiệm quán cũng mọc lên khó còn đất trống. Vừa đi hắn vừa kể nỗi gian khổ lúc trẻ, nay thì hậu vận quá tốt, con có địa vị thành công, chồng cưng yêu nhiều hơn lúc tuổi xế chiều, mà nhìn kỹ hắn tươi đẹp mặn mà ghê, chắc hạnh phúc gia đình biến sắc thêm xinh hè. Đi nửa ngày hắn thả tui về nhà” tau bận chút chuyện, sẽ gặp mi sau nữa nghe. Tui cám ơn hắn, gần 50 năm tuy xa mà hắn vẫn nhớ, vẫn đầy tình bạn thân thiết như hồi mô.
Sàigòn cũng như Phan Rang không có 4 mùa, nhất là mùa Thu. Nhưng Sàigòn cũng như Phan Rang đều có những đêm trăng Thu mờ ảo đẹp và buồn giống như mắt của em.
Cuộc điện thoại đã dứt mà Tử Linh vẫn còn đứng tần ngần một lúc rồi mới quay trở ra hiên, ngồi xuống cái ghế gỗ mà khi nãy cô đang ngồi, vừa đọc sách, vừa nhâm nhi tách trà nóng và những chiếc bánh madeleine thơm mùi vanilla trước khi tiếng chuông điện thoại từ trong phòng khách buộc cô phải chạy vào...
Ba đứa chơi thân với nhau tự thuở nào, thiên hạ ai cũng bảo ba đứa ấy như hình với bóng, họ còn kháo nhau là mật thiết hơn cả tam tinh, tam điểm, tam tụ, tam anh… Chẳng cần kết nghĩa đào viên nhưng chúng sống chết có nhau, chưa bao giờ rời nhau một li hay một khoảnh khắc nào. Thỉnh thoảng cũng có xung đột giữa ba đứa nhưng rồi cũng trôi qua êm thấm. Cả ba nương tựa nhau, hỗ trợ nhau, sinh hoạt qua lại với nhau. Thật tình mà nói thì chỉ có hai mới đúng, vì thằng Tưởng vốn là đệ tử ruột của thằng Tâm mà ra, tuy nhiên vẫn có sự khác biệt nào đó nên thiên hạ cho là ba, nói cho cùng thì là bộ bà cũng đúng hay khắt khe bảo bài trùng cũng không sai.
Lật bật đã tới tháng 9 mùa tựu trường. Lòng nao nao nhớ thời học sinh nhỏ nhít đất thần kinh xưa. Ở Huế, mùa tựu trường cũng tưng bừng rộn rịp như bất cứ nơi nào khác trên đất quê nhà. Cũng bâng khuâng luyến tiếc những ngày hè tươi đẹp chóng qua. Cũng nao nức trở lại trường lớp gặp bạn thầy cũ, mới. Có khác chăng mặt mũi mấy cô mấy cậu học trò đều phảng phất một vẻ nghiêm trọng. Làm như mình đã trưởng thành tới nơi!
Cách đây 5 năm ông bà này có cho một cậu sinh viên Việt nam trẻ tuổi, đáng tuổi con cháu xin mướn phòng ở trọ học tại nhà ông bà cho đến đầu năm tới 2025, cậu sinh viên này sẽ tốt nghiệp đại học 4 năm với văn bằng cử nhân
Cũng như các trại tỵ nạn khác, ở Thailand cũng có một khu “nhà tù” dành cho những người tỵ nạn không chấp hành quy định của Bộ Nội Vụ Thái hay của Cao Ủy tỵ nạn. Thời hạn ở tù tùy theo mức độ phạm quy, có khi từ một vài ngày cho tới một hai tuần. “Tù nhân” cũng đủ loại, nhẹ thì có những người mua lén đồ ngoài hàng rào, thức quá giờ giới nghiêm, quên làm vệ sinh khu nhà được phân công, nặng hơn là thành phần đánh lộn, gây mất trật tự trong trại, trộm cắp vặt, trốn ra ngoài trại đi chơi.
Tháng 7 năm 1954, hiệp định Genève chia đôi đất nước Việt Nam, người Pháp thất bại ở mặt trận Điện Biên Phủ, trả lại chủ quyền miền Bắc cho việt cộng. Việt Minh kéo từ mạn ngược và khắp nơi chúng đã ẩn náu về tiếp thu thủ đô Hà Nội và sau đó, toàn thể các tỉnh thành phía Bắc cho vào tới vĩ tuyến 17. Chúng ta mất một nửa giang sơn. Pháp có 80 ngày chuyển giao Hà Nội, 100 ngày giao Hải Dương, 300 ngày trả Hải Phòng, rồi chấm dứt. Việt cộng nằm vùng trong miền Nam cũng tự do ra Bắc tập kết, dù rất ít, nhưng làn sóng người miền Bắc di cư vào Nam thì đông nườm nượp… như nước vỡ bờ, họ chạy trốn, họ sợ cộng sản, họ sợ cái chế độ tam vô đang rượt đuổi sau lưng. Họ ra đi lánh nạn, đa phần phải bỏ lại gia sãn của cải, mồ mả cha ông… họ ra đi nhanh, mau lẹ nhất là các thành phố Hà Nội Hải Phòng, các xứ họ đạo công giáo Bùi Chu, Phát Diệm… có người vội vã đến chỉ ôm theo một tấm ảnh đức mẹ Maria… họ rủ nhau cứ xuống Hải Phòng là có tàu há mồm, há mồm chờ sẵn, chờ họ lên tàu và chở họ vô miền Nam.
Hà Nội có mùa Thu, Ninh Thuận quê tôi ở đó chỉ có hai mùa nắng gió. Buổi sáng mai hôm ấy mẹ tôi âu yếm nắm lấy tay tôi dẫn tôi đi qua con đường làng Xóm Động, rồi đến con đường cái quan tráng nhựa. Mẹ tôi nắm lấy tay tôi dẫn tôi đi qua cầu "Ông Cọp", rồi cầu "Nước Đá" và đến tận cửa trường tiểu học Phan Rang. Tôi cúi đầu đi qua cổng trường có tấm biển lớn có hàng chữ Tây: "Indochine Francais- École Primaire De Phanrang"...Giữa sân trường có cột cờ với lá cờ ba màu của Pháp treo tận chót vót. Trường của tôi hình như vừa quét nước vôi và có cửa kiến, tôi thoáng nghe mùi cửa sổ mới sơn.
Trước năm 1975, ngày đó tôi còn là một cậu thiếu niên ham thích đọc tiểu thuyết trinh thám mạo hiểm của Người Thứ Tám với nhiều câu truyện phiêu lưu, hồi hộp của chàng điệp viên Z-28 đào hoa, đẹp trai Tống Văn Bình. Tôi còn nhớ chàng điệp viên tài giỏi, võ nghệ siêu quần của chúng ta được phái đi thi hành một nhiệm vụ tình báo tại Maldives, một đảo quốc mà khi chúng ta nhìn về phía chân trời, nơi Trời và Biển gặp nhau, vì chính chúng ta cũng đang sống trên mặt nước...
Khoảng gần ba giờ chiều tôi rời khách sạn Ninh Kiều, cuối đường Hai Bà Trưng, nhìn ra sông Cần Thơ. Trời hanh nóng và đứng gió. Giấc ngủ trưa dài sau bữa ăn nhẹ, khiến tôi tỉnh táo và phấn chấn hẳn lên. Hãy còn sớm, hai giờ nữa tôi mới có hẹn với gia đình người bạn thân ở nhà hàng Hoa Sứ. Thời gian đủ để tôi dạo chơi và ghé chợ Cần Thơ tìm mua một vài thứ đồ lưu niệm… Vài cơn gió nhẹ mang theo hơi nước từ dòng sông thổi dọc theo công viên thật dễ chịu. Bến Ninh Kiều ngày nay thật khang trang và đẹp. Đi dọc mé sông, từ đây tôi có thể nhìn thấy chiếc cầu treo Cần Thơ sừng sững, hiện đại. Phía trước khách sạn là nhà hàng nổi và không xa là chiếc du thuyền nhà hàng lộng lẫy về đêm. Du khách vừa ăn tối vừa dạo cảnh quanh sông và có cảchương trình văn nghệ thật đặc sắc của miền Tây sông nước
Nàng tỉ tê với nhỏ bạn về những cuộc “thảo luận” sôi nổi của vợ chồng nàng. Bằng mọi giá, nàng muốn giữ cho đứa con có tuổi thơ tươi đẹp, hạnh phúc. Bao năm qua, đã có lúc nàng buồn rầu nghĩ, mình như con gà đẻ trứng vàng. Chỉ được việc, nhờ biết đẻ trứng vàng. Nàng không dám đề cập đến chuyện tiền bạc, sợ làm chồng buồn, cho rằng nàng cậy sức mạnh kim tiền lấn áp chồng. Nàng rất may mắn trong cuộc sống ngoài xã hội. Chưa ra trường, nàng đã nhận được hợp đồng làm việc với một trong những hãng hàng đầu của nước Đức. Ngược lại, chồng nàng quá lận đận. Cả năm trời, anh chạy đôn, chạy đáo tìm việc, mà vẫn phải nằm nhà. Nàng tự nhủ, tài lộc trời ban, gia đình sống thoải mái, chứ tính toán chi mà mất hòa khí vợ chồng. Tháng tháng, nàng thanh toán nợ to, nợ nhỏ, hàng hàng lớp lớp chi phí tất yếu của xã hội văn minh.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.