Hôm nay,  

14/06/202009:42:00(Xem: 5100)

Vừa ngồi được phút chốc thì thấy một thiếu phụ lên xe, nhìn cái bụng lum lum có bầu biết là chị ta khó nhọc lắm. Nó uể oải đứng dậy nhường chỗ cho chị ta, mặc dù nó đã đứng suốt ngày trong xưởng, hai chân mỏi muốn rũ ra. Xe buýt đầy nhóc, mọi người chen chân đứng như thế mà chị còn mang cái bầu nữa thì mệt phải biết. Nghĩ mình nhường ghế cho chị cũng là một hành vi đẹp nên dù có mệt nó vẫn thấy vui vui và thoải mái trong lòng.

 

 Qua chừng năm trạm nữa, người lên kẻ xuống tấp nập, chị có bầu kia cũng xuống xe, trước khi đi chị chào và cảm ơn nó lần nữa. Nó cũng vui vẻ chào laị, bảo chị đừng bận tâm chi, chuyện nhường ghế cho người có bầu, cụ già, em bé là chuyện đương nhiên. Xe đến trạm gần cuối thì xe vắng hẳn, đang hí hoáy quẹt quẹt trên cái điện thoại thông minh, bất chợt nó ngưng laị nhìn quanh quất và thấy một cái ví gần gầm ghế. Nó nhặt lên và xem thử bên trong thì thấy tiền nhiều quá, nó nhét vội vào ba lô của nó mà những người khách còn laị trên xe chẳng ai thấy. Người nào cũng chúi mũi vào màn hình điện thoại, chẳng ai biết trời trăng gì xung quanh cả. Về đến nhà trọ, nó xem lại thì có đến một trăm triệu đồng và hai ngàn ba đô la Mỹ, ngoài ra còn có hai chiếc nhẫn và cái thẻ tín dụng, thẻ căn cước. Nó run run, chưa bao giờ thấy hay cầm trên tay món tiền lớn như thế, lòng thầm thì: “Trúng mánh rồi”. Trong đầu nó lập tức phác hoạ ra bao nhiêu việc phải làm. Nó sẽ xin nghỉ phép một tuần để hưởng thụ, trước hết phải đi nhà hàng hạng sang ăn một bữa cho đã đời, vô thương xá mua mấy món hàng hiệu lâu nay ao ước mà không có tiền, đi xăm con rồng trên lưng, mấy  tay thợ xăm kêu giá cả chục triệu nên trước giờ chưa làm đượ, phải đi du lịch một chuyến bù laị những ngày quần quật cày như trâu... nghĩ đến đó nó thấy sung sướng lâng lâng tựa hồ như bay bổng. Nó nhảy cẫng lên hét to;” Hooray, hooray”. Khi phút giây sướng vì lượng Adrenaline tiết ra ào ạt, nó trở laị bình tĩnh và chợt nhiên lòng nó chùng xuống khi nghe được lời thì thầm từ trái tim:

 

 - Cậu sung sướng lắm phải không? cậu đang vui trên sự đau khổ của kẻ khác đấy! giờ này người chủ cái ví ấy đang khóc, tinh thần đang bấn loạn. Cái ví ấy có thể là của chị khách mang bầu, có thể là của một người mẹ hay một người em gái nào đó.

 

 Nó chột dạ, bao nhiêu cao hứng về những kế hoạch vừa vẽ ra chợt tan biến và nó cụt hứng. Nó laị nghe có giọng cứng cỏi của lá gan:

 

 - Cậu chủ nhặt nó trên xe buýt, cậu ấy đâu có lấy cắp của ai!

 

 Trái tim vẫn thì thầm:

 

 - Đành rằng nhặt được, nhưng rõ ràng có thể trả laị cho người đánh rơi, cố tình không trả cũng đồng nghĩa là ăn cắp rồi.

 

 Lá gan lý luận:

 

 - Chẳng có luật nào trị tội nhặt của rơi cả.

 

 Trái tim giải thích:

 

 - Luật pháp có thể không trị nhưng luật nhân quả không sai vạy, lương tâm không cho phép.

 

 - Lương tâm sao bằng lương tháng? Món tiền đó cậu chủ làm cả hai năm cũng hổng có, lá gan biện bác.

 

 - Nếu đã nhẫn tâm và vô đạo đến mức đó thì còn gì để nói. Tớ tin cậu chủ không đến nỗi như vậy! trái tim nhỏ nhẹ nhưng mạch lạc trả lời.

 

 Nó thật sự phân vân, nó cũng muốn trả laị cho người đánh mất nhưng nó cũng thích ăn xài hưởng thụ. Nó thương người mất ví nhưng những đòi hỏi của bản thân nó róng riết chẳng chịu buông tha. Nó đang đứng giữa đường lựa chọn, trả laị hay tiêu xài? Nó đã học qua những bài học đạo đức, những giáo lý từ bi, nhân quả… nhưng lúc này sao thấy mông lung quá, áp dụng chẳng dễ tí nào. Nó cũng từng nhặt được những món đồ nho nhỏ, không đáng giá bao nhiêu nên đễ dàng trả laị cho người mất, còn bây giờ cái ví này với món tiền lớn quá nên nó sanh lòng giữ lấy. Nó suy tính thiệt hơn, đắn đo giữa tình người và sự thoã mãn cho bản thân. Bao nhiêu ý nghĩ quay cuồng như lồng quay số lô tô, nhiều giả thuyết được đặt ra. Chợt một ý nghĩ phân tích rạch ròi như tay thám tử chuyên nghiệp phát sinh trong đầu nó: “Những người đi xe buýt là những người nghèo hoặc là học sinh, sinh viên, người lao động…Và trong thời buổi hôm nay, ít ai giữ món tiền mặt nhiều như thế trong ví. Có thể chủ nhân của cái ví này mới đi nhà băng rút tiền ra để chuẩn bị cho một việc quan trọng nào đó. Còn thẻ tín dụng thì kh6ong thể xài được, mình không biết mật mã, không beí6t cách bẻ khoá, lớ ngớ là người ta gọi cảnh sát còng tay như chơi.

 

Mình chỉ có thể xài món tiền mặt kia thôi!”, việc trả laị hay giữ lấy mà tiêu xài quả là thử thách đầy cân não. Nó còn nẩn vơ thì một ý nghĩ nữa laị hiện ra:” Biết đâu người mất ví sẽ nhớ laị đã làm rơi trên xe buýt và sẽ nhờ cơ quan quản lý xe hoặc cảnh sát xem laị máy quay hình trên xe… lúc ấy thì sẽ rắc rối, điều này cũng có thể lắm!”

 

 Nó cầm cái ví lên lật qua lật laị, món tiền quá lớn, nằm mơ cũng chưa thấy. Có lời xúx xiểm từ lá gan:

 

 - Cậu cứ xài đi, tới đâu hay tới đó, cơ hội chỉ một lần thôi, không dễ gì có laị lần thứ hai, nếu không muốn nói là sẽ không có!

 

 Trái tim rủ rỉ:

 

 - Món tiền tuy lớn thật, cậu xưa nay là người tốt, lẽ nào chỉ  vì món tiền này mà cậu bán rẻ danh dự sao? cậu hãy nghĩ xem, nếu mẹ cậu, chị cậu, em cậu mất món tiền như thế thì họ sẽ đau khổ như thế nào? Chưa kể là còn rắc rối với chồng, với gia đình hay với chủ nợ của họ. Giả sử họ dùng món tiền này để chữa bệnh, đóng học phí hay trả món nợ lỡ vay của xã hội đen… nếu mất món tiền này thì quả là tai họa lớn ụp xuống đầu họ, không chừng họ sẽ không vượt qua nổi cú sốc này!

 

 Trái tim ngưng giây lát rồi laị thủ thỉ:

 

 - Cậu đã đọc sách, đã học lý thuyết, giờ cậu hãy thực hành đi! những cái nhỏ nhiệm vi tế nó ẩn sâu, ngày thường dễ lướt qua, khi có điều kiện thuận lợi thì nó sẽ trỗi dậy mãnh liệt. Bản thân cậu đã từng, khi nhặt món nhỏ bé thì cậu trả laị ngay, giờ nhặt món lớn thì lòng tham trỗi dậy, nó biến cậu thành con người khác, vì món tiền này mà cậu có những suy nghĩ và hành vi mà trước kia cậu chưa từng có.

 

 Nó thấy xấu hổ cho bản thân, những lời trái tim nói hoàn toàn chính xác, mình không thể thụ hưởng trên sự đau khổ của kẻ khác. Nó vừa thú nhận như thế thì có âm thanh đay nghiến từ bao tử và quả thận:

 

 - Thằng tim kia, nãy giờ tụi tao nghe mầy nói mà sanh bực bội. Mầy bày vẽ chuyện lương tâm đạo đức vớ vẩn, hãy để cậu chủ hưởng sung sướng một tí đi, lâu nay cậu chủ khổ nhiều rồi. Cậu chủ thiếu thốn nhiều thứ, nay có cơ hội thì ăn chơi mát trời ông địa cho đã đời, mua những thứ cậu ấy muốn và làm những gì cậu ấy thích…mầy cứ can gián làm cho cậu chủ khó xử.

 

 Hai đứa nó còn quay qua khích tướng lá gan:

 

 - Cậu phải kích hoạt làm cho cậu chủ dạn dĩ lên, bảo cậu chủ tiêu xài đi, chẳng có chi phải sợ hay lương tâm cắn rứt!  đời có bao nhiêu đâu, ngắn ngủi lắm, hưởng thụ hay khắc khổ rồi cũng chết cả! sống đạo đức nhiều khi còn bị người ta chế giễu, khi dễ…

 

 Thế rồi cả ba đứa nhao nhao khích bác trái tim, oán trách và cả kết tội trái tim. Trái tim vẫn nhẹ nhàng, mềm mỏng:

 

 - Các cậu nói đúng, đời ngắn ngủi lắm, vô thường lắm! chính vì vậy mà mình phải sống cho đàng hoàng, sống cho đẹp, sống ở đời cần có một tấm lòng. Mình sống tốt với người cũng chính là tốt với bản thân mình, mình tạo cái nhân tốt cho việc tái sanh mai sau.

 

Mình sống tốt  mà người ta cười hay chế giễu ấy là người ta sai, đừng vì cái sai của người khác mà mình bỏ cái đúng của mình.

 

 Ba đứa gan, bao tử và thận la lối ồn ào:

 

 - Tim, mầy hổng nghe người ta nói sao? Ca dao đấy nhé!

 

    “Trắc nết chết cũng ra ma

        Chính chuyên chết cũng khiêng ra ngoài đồng”

 

  hoặc là: “Đạo đức lấy cứt gì ăn… Mầy xúi cậu chủ trả laị tiền, sống thúc thủ thân tâm, mày làm khổ cậu chủ, haị cậu chủ!

 

 Trái tim nghiêm giọng:

 

 - Những câu ấy rất bậy, bao biện cho việc sai trái, có thể người nói hay viết câu ấy là kẻ không ra gì. Các cậu dùng mấy câu ấy để biện minh cho việc xúi cậu chủ làm sai, các cậu mới chính là người haị cậu chủ! Tớ đã nói hết những gì cần nói, giờ lựa chọn thế nào là tuỳ vào bản lãnh cậu chủ!

 

 Nó đang nằm dài, gác tay lên trán nhớ câu: “Trái tim có lý lẽ của nó, đôi khi khối óc không thể hiểu được”, những lời trái tim rất chân tình, ngay thẳng và nhân ái. Nó vùng dậy mở máy tính cá nhân và viết:

 

 - Tôi tên: Vô Tình Khách, ngày x tháng xx năm xxx, vào lúc năm giờ chiều,  trên chuyến xe buýt số 69 chạy từ đường 23 đến đường 27 tôi nhặt được một cái ví, trong ấy có một số tiền và nữ trang. Ai làm rơi thì liên hệ số điện thoaị: xxx xxx xxx hoặc điện thư: Votinhkhach01@... để nhận laị tài sản.

 

 Nó đăng lên mạng Facebook, Twitter và nhắn cho mọi người chia sẻ rộng rãi. Nó còn gọi vào hộp thư bạn xem đài của đài truyền hình địa phương để nhờ thông báo trên tivi. Hai giờ sau có khá nhiều tin nhắn nhận là chủ cái ví ấy, nó lập laị lời yêu cầu cần có giấy tờ chứng minh trùng với thẻ căn cước trong ví, mấy tin nhắn ấy lặn luôn. Quá trưa hôm sau có người phụ nữ nhắn tin xin địa chỉ đến nhà. Nó cho địa chỉ và chị ấy đến, trông chị gầy hao và có vẻ khóc nhiều vì đôi mắt còn sưng bụp. Nó mời chị ngồi rồi rót cho ly nước lọc, chị xoay cái ly nôn nóng trình bày: Con chị bị ung thư, đang xạ trị, bao nhiêu tài sản bán hết vẫn không đủ, nhờ nhiều người hảo tâm kêu gọi giúp đỡ nên có một ân nhân ẩn danh cho chị một trăm triệu và hai ngàn ba đô la để chữa chạy cho con chị, ngoài ra trong ví còn có hai chiếc nhẫn cưới, chị giữ gìn lâu nay toan tính bán nốt để chữa trị cho con, cái thẻ tín dụng thì chỉ có chừng trăm ngàn thôi. Chị đưa ra giấy hộ khẩu, giấy kết hôn… đều khớp với tên trong thẻ căn cước. Nó nhìn chị và cái hình trong thẻ căn cước đúng là chủ cái ví rồi, nó bèn trao laị cái ví cho chị và bảo chị đếm laị tiền, chị kiểm tra laị không thiếu xu nào. Chị sụp quỳ xuống muốn lạy nó để cảm ơn. Nó vội đỡ chị ngồi lên:

 

 - Chị đừng làm vậy!

 

 Chị sụt sùi cảm ơn mấy bận và định muốn nói thêm nhưng có lẽ xúc động quá nên không nói được gì. Nó cũng cảm thấy thương chị và trong lòng mừng vì mình đã vượt qua được chính mình. Nếu nó giấu cái ví luôn thì không biết chị sẽ ra sao và con chị sẽ thế nào đây? Nó hỏi thăm về chồng chị đâu khi thấy chị đã bình tĩnh laị. Chị bảo: “Chồng chị chạy xe ôm và làm bất cứ việc gì có thể làm được để có tiền chữa trị cho con. Hôn qua anh ấy có hẹn chở khách đi tỉnh nên chị mới đi xe buýt và trong lúc bất cẩn cái ví trong túi xách bị rơi ra, tối hôm qua cả hai vợ chồng khóc sưng mắt, may mà chồng chị cũng thương chị nên không đánh đập hay chửi mắng gì.”

 

  Nó bảo chị gọi anh đến chở về, giờ ngoài đường dễ bị cướp giật lắm, chị ngồi đợi chừng mười lăm phút sau thì chồng chị đến. Anh ta trông cũng hiền và khá khắc khổ, có lẽ vì suốt ngày nắng gió ngoài đường, tuy nghèo khổ  nhưng khi chị làm mất món tiền lớn vậy mà anh cũng không nỡ đối xử tệ với vợ mình. Nó mừng thầm chị có phước, gặp được người chồng tử tế. Anh cảm ơn nó rối rít, tiễn hai vợ chồng ra về mà lòng nó thấy vui, nó đã làm được một việc đẹp, nó vượt qua chính nó. 

 

 Mầy ngày sau bạn bè hỏi:

 

 - Sao mầy không nhờ nhà đài hay báo chí trả laị? vừa khỏi mất công vừa được tiếng thơm.

 

 Nó cười thầm: “Món tiền lớn tao còn trả laị được thì cái tiếng thơm hư danh nghĩa lý gì.”

 Tối hôm ấy nó ngủ mà trái tim thì thụp nhẹ nhàng êm ái lạ thường, bọn bao tử, gan, thận cũng im ru không nghe thấy lời phàn nàn nào nữa cả.

 

TIỂU LỤC THẦN PHONG

Ất Lăng thành, 062020

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Chị nhớ lại, vào một buổi sáng ngày cuối tháng 1 năm 1973, khi Chị đi lấy bản tin ở bên Macv về cho AP, chị thấy sao hôm nay văn phòng đông thế. Ký giả của AP và cả của NBC News bên cạnh cũng chạy qua chạy lại, Chị nghe ông chánh văn phòng nói: Viêt Nam sắp ngưng bắn rồi, sắp hòa bình rồi…” Văn phòng Associated Press xôn xao, từ ông chánh văn phòng đến các ký giả, nhân viên của AP đều hứng khởi với cái tin “Nóng bỏng” này. Chị thấy các phóng viên của các hãng thông tấn, hãng truyền hình ngoại quốc chạy hối hả sang nhau và chạy qua cả đài phát thanh Quân Đội Việt Nam để cập nhật tin tức viết bài…
Chị đi bằng xe hàng. Là dân Đà Lạt gốc Huế nên chị gọi xe đò là “xe hàng”. Đi xe hàng, tức là xe đò, là xe chở người và cả hàng chứ không chở riêng hàng. Tiếng Việt hay như vậy đó! Đến Gò Công rồi đi xe lam vào Đồng Nguơn. Ấp Đồng Nguơn. Không phải đây là lần đầu tiên chị được thấy cảnh đồng quê. Đồng quê miền nam hầu như đâu đâu cũng giống nhau. Nhưng có đi nhiều mới thấy mỗi nơi có một chút khác. Phải thế không? Hay chính là cảm giác của chị mỗi lần một khác?
Tôi ước mơ có một ngày nào đó, khi thanh bình thật sự trở về trên nước VN, khi chính thể CS hoàn toàn tan rã, khi con người công chính trở lại làm nền tảng trong xã hội mới, chúng ta sẽ trở về, những ngưới bạn từ thời xa xưa, cùng nhau làm lại một bữa tiệc Tất Niên, mời vong linh các thầy, các bạn, các anh em đồng đội đã chết trong khói lửa chinh chiến, trong các biến cố tang thương của đất nước, trong các trại tù, trên biển…cùng nhập tiệc. Kẻ đang sống cùng người thiên cổ bên cạnh nhau hoài niệm đến một miền thùy dương ngọt ngào nhân tính, một ngôi trường thân yêu giàu truyền thống giáo dục và y đức, một thành phố mến yêu thơ mộng. Để nghe những người quá cố tâm sự về cái chết oan khiên của mình. Được như vậy, hương hồn các vị đó sẽ sớm được siêu thoát và vĩnh viễn an nghỉ chốn nghìn thu. Và chúng ta đây giảm khắc khoải đau thương…
Tôi đã có bốn cái Tết trong trại Panatnikhom và Sikiew, Thailand. Tết đầu tiên thật nhiều kỷ niệm và bất ngờ, vì lúc đó chúng tôi vừa nhập trại trong khi còn hơn một tuần nữa là Tết. Tôi và ba cô bạn đi chung chưa kịp gửi thư cho thân nhân ở nước ngoài để ca bài ca “xin tiền”. Ai lo bận bịu đón Tết thì lo, còn chúng tôi thì lo đi mượn tiền để mua vài vật dụng cần thiết như tấm trải nhựa, tre nứa, dây nilon để làm “nhà” (phải “an cư” mới “lập nghiệp” tỵ nạn được chớ).Khoảng một tuần trước Tết, có một nhóm mấy thanh niên đến thăm vì nghe nói chúng tôi là dân Gò Vấp, nên muốn nhận “đồng hương đồng khói”. Họ là những người trẻ như chúng tôi, nên câu chuyện mau chóng trở nên thân mật và rôm rả
Hỏi thăm ông Hai bán hoa lay-ơn gốc Bình Kiến, nhiều người ngơ ngác hỏi nhau. Tôi lại rảo qua thêm mấy vòng chợ hoa, cũng vừa đi tìm ông Hai, cũng vừa ngắm hoa và ngắm những chậu bonsai bày bán cuối năm, cũng tìm lại mình của gần 20 năm trước, năm nào cũng cứ vào những ngày này, tôi theo ba tôi hóng gió đón sương không hề chợp mắt cùng gian hàng cây kiểng rất bề thế của ba ở đây.
Có lẽ những rộn ràng, hân hoan nhất trong năm không phải là "ba ngày tết", mà là những ngày cận tết. Bắt đầu vào ngày 23 tháng chạp, tối đưa ông Táo về trời. Tất cả mọi sinh hoạt đều hướng về việc chuẩn bị để đón một mùa xuân mới, chào đón nguyên đán và mấy ngày xuân trước mặt. Lúc nhỏ là mùi vải thơm của bộ đồ mới, mùi gạo nếp ngâm cho nồi bánh và hương thơm ngào ngạt cho sàng phơi mứt dừa, mứt bí, mứt gừng ngoài sân. Những đêm ngủ gà ngủ gật ngồi canh bên nồi bánh tét cùng với má, với gia đình xúm quanh. Mùi bếp lửa, mùi khói hương, mùi áo mới lan tỏa của tuổi thơ ngan ngát những ngày xa...
Người ta được nuôi lớn không chỉ bằng thức ăn, mà còn ở lời ru, tiếng hát, và những câu chuyện kể. Chú bé cháu của bà thích được bà ôm vác, gối đầu lên vai bà. Có khi bà mở nhạc từ chiếc nôi cho chú nghe thay cho lời hát, chiếc nôi chú bé đã nằm khi mới lọt lòng mẹ. Có khi bà hát. Bà không ru à ơi, nhưng âm điệu dân gian len vào trong từng lời hát. Chú bé mãi rồi ghiền nghe giọng hát của bà.
Lóng rày tôi hay tẩn mẩn viết về những hồi tưởng tuổi thơ, nhất là những côn trùng ngày xa xưa đó như chuồn chuồn, bươm bướm, ve sầu, dế mèn…Nhiều lúc ngồi nghĩ lẩn thẩn: tại sao vậy? Chắc đó là tâm trạng của người tuổi sắp hết đếm số, tiếc nuối những khi còn cắp sách tới trường. Cắp sách tới trường không phải là chuyện vui nhưng tuổi học trò thì vui thật. Lúc nào, khi nào, chỗ nào cũng toàn thấy chuyện vui chơi. Bạn chơi là người nhưng nhiều lúc là những côn trùng quanh quẩn bên người. Một ông bạn mới gặp nhướng mắt hỏi tôi viết về những bạn chơi nhiều hơn hai chân nhưng chưa thấy nhắc tới bạn của ông ấy. Đó là bọ ngựa. Ông này thuộc loại rắn mắt. Tôi không chung tuổi thơ với ông nhưng chắc ông cũng thuộc loại phá làng phá xóm. Ông kể chuyện ăn me chua trước mấy ông lính thổi kèn trong hàng ngũ khiến mấy ông thợ kèn này chảy nước miếng thổi không được. Tôi thuộc loại hiền nên không có bạn không hiền như bọ ngựa. Ông ta thì khoái bọ ngựa.
“Mày có vợ hồi nào vậy?” chưa kịp chào, mẹ đã ném ra câu hỏi bất ngờ. Tôi lặng thinh. Cục nghẹn trong cổ họng. Tiếng mẹ đã khàn nhưng nghe vẫn quen, vẫn gần gũi, nhưng đặm chút ngạc nhiên và thấp thoáng chút phiền muộn. Hệt như lần hỏi tôi mười mấy năm trước rằng Sao con trốn học. Đường dây điện thoại chợt kêu ù ù, như thể có máy bay hay xe vận tải cơ giới hạng nặng chạy qua chỗ mẹ đứng. Cũng có thể tại tai tôi ù. Tôi cũng không chắc lắm. Giọng nói mẹ chìm vào khối tạp âm hỗn độn. Mẹ lặp lại câu hỏi trong tiếng động cơ rì rầm. Rồi tất cả im vắng bất ngờ. “Hở con?” Mẹ nói.
Bê, con trai của Mẹ, đã theo Mẹ đến giảng đường từ thuở còn trong bụng Mẹ. Suốt thời gian đại học của Mẹ, Bê có nhiều đóng góp khác nhau theo từng thời kỳ. Khi Mẹ làm bài kiểm tra môn Đầu Tư và Tài Chính trong lục cá nguyệt đầu tiên, Bê mới ba tháng tuổi. Mẹ nhẩm tính, bài thi một tiếng rưỡi, đi về từ nhà đến trường thêm một tiếng rưỡi. Như vậy, Bê phải xa Mẹ ít nhất ba tiếng đồng hồ. Mẹ biết tính Bê, mỗi hai tiếng đồng hồ Bê oe oe đòi bú sữa Mẹ. Bê xấu đói lắm, đòi mà không được, Bê nhăn nhó um sùm. Ngày hôm đó, dì Thành đến giữ Bê. Dì Thành rất hồi hộp. Dì chưa có em bé, chẳng biết phải làm sao cho đúng ý Bê. Mẹ thi xong, phóng ra xe về nhà. Mẹ bắt đầu sốt ruột. Mẹ xa Bê đã hơn ba tiếng đồng hồ. Giờ này Bê chắc Bê đã thức giấc. Hy vọng Bê chịu khó nhâm nhi món trà thảo dược cho trẻ sơ sinh trong khi chờ Mẹ về. Thời đó chưa có điện thoại di động. Bởi vậy, có lo cũng để bụng, chứ Mẹ chẳng biết làm sao. Mẹ ba chân bốn cẳng chạy ba tầng lầu. Vừa đến cửa đã nghe tiếng Bê khóc ngằn ngặt.
Khi chơi những bản nhạc hay, Khang khóc theo giai điệu. Mước mắt chảy, tay kéo tình xuống lên, thân hình diệu dẻo theo cảm hứng. gần như mê cuồng, không biết mình là ai. Tôi cảm nhận được cái hay xuất thần nhưng không hiểu. Khang nói: -- “Cậu Út biết không, cái hay của âm nhạc làm cho lòng sung sướng nhưng cái đẹp của âm nhạc làm cho hồn cảm động. Khi món quà quá lớn, quá sức yêu, không thể cười, chỉ có thể khóc.” Tôi nghĩ, những lúc như vậy, Khang không chơi đàn, mà múa với hồn oan.
Tôi làm việc giữ xe cho một casino ở ngoại ô Toronto, gọi là parking attendant. Đó là nghề mà thanh niên ít chịu làm, phần vì lương thấp, mức tối thiểu, hồi đó 5 đồng một giờ, nhưng lý do chính là vì nó buồn. Bãi đậu xe nằm dưới hầm tối, không nhìn thấy người qua lại, nếu ở ngoài trời cũng sau lưng nhà cao tầng. Không ai làm chỗ đậu xe ở khung cảnh xinh đẹp, nơi ấy dành cho hàng quán. Đi học ban ngày, tôi làm thêm ban đêm là việc thích hợp, có thể thỉnh thoảng ngồi học bài. Nhân viên trong phiên gác trước tôi là cô gái bằng tuổi hoặc cùng lắm lớn hơn một hai tuổi, nhưng không hiểu sao cô vẫn có thói quen gọi tôi là em và xưng chị.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.