Hôm nay,  

Đất Và Người

17/06/202014:03:00(Xem: 5548)
ann phong 12
Minh họa Ann Phong



    Hồi tôi còn rất nhỏ, khi nắng chiều bắt đầu dịu thì bà chị cả của cha tôi liền gọi tôi ra giũi cỏ ở sân trước.

    Cỏ mọc nhanh lắm, vừa giũi xong chỗ này nó đã mọc lên chỗ khác, thành thử ngày nào cũng phải giũi. Giũi cỏ vào những ngày hanh dễ, đất khô, chép mai đưa tới đâu sạch tới đó. Nhưng vào đận mưa phùn liên miên, lúc đầu xuân hay trong mùa mưa rươi, rễ cỏ gà đã dài lại bám sâu, giũi một túm cỏ thì lôi cả vầng đất lên theo. Những ngày như thế cô tôi phẩy tay, không giũi nữa.
    Không phải bà lười, không phải bà mệt, mà là bà tiếc đất. Bà lo trời còn mưa, đất bị nhổ lên theo rễ cỏ sẽ bị trôi đi. Ngay trong những ngày nắng ráo, khi giũi xong, bao giờ cô tôi cũng rũ từng nhúm cỏ cho tới khi không còn đất bám mới thôi. Cỏ khô được xếp thành đống nhỏ trong vườn rau sau nhà. Khi đốt, những đống cỏ ấy bốc lên một mùi ngai ngái. Những đống tro xám của chúng sau một trận mưa là thấm vào những luống rau.

    Cô tôi bảo:

    - Đất là của quý, cháu ạ. Không có đất rồi lấy gì mà trồng, lấy gì mà ăn? Cho nên mới phải be bờ cho sân, cho vườn. Mưa nhiều, màu trôi đi hết, có mà ăn cám!

    Không phải chỉ riêng cô tôi quý đất. Không chỉ người làng tôi, người vùng tôi, mà người ở đâu trên đất nước ta cũng vậy.

    Nhà nông ở đồng bằng sông Hồng là những người rất hiểu đất. Và yêu đất. Họ lo cho sức khoẻ của đất không khác gì lo cho người.
    Sau khi thu hoạch, người ta không hối hả làm ngay vụ sau, mà để cho đất được nghỉ ngơi rồi mới cày. Những tảng đất cày lộn được xếp chồng lên nhau thành những bức tường dài, cao khoảng một mét, gọi là xếp ải. Đến lúc sắp cấy mới tháo nước vào, những bức tường nọ đổ khi ấy sẽ đổ sụp xuống làm thành đất mùn cho những giẻ mạ non.

    Giữa người và đất có tình có nghĩa.

    Đất không phải chỉ là những mét vuông, những sào, những mẫu.

    Đất là máu, là thịt của con người. Là con người, phải biết yêu đất, bảo vệ đất.

2


    Rừng là một mạch nguồn của sự sống. Không biết tự bao giờ nó đã mất đi sự tôn trọng. Chủ nghĩa duy vật chỉ là chữ, nhưng nó là thứ chữ có sức mạnh tiêu diệt mọi niềm tin. Rừng hết thiêng. Nếu như xưa kia những người sơn tràng bước vào rừng phải tháo khăn đầu rìu, cúi thấp thắp hương xin thần rừng cho phép rồi mới dám đốn vài cây gỗ lớn, thì nay người ta cho cưa máy chạy xoèn xoẹt hạ bất cứ cây nào có thể bán được.

    Rừng bắt đầu bị tàn phá từ thời kháng chiến chống Pháp. Nhưng thôi, chuyện ấy không kể, nó là chuyện bất đắc dĩ, khi bộ đội thiếu gạo ăn, chỉ trông vào sắn.
    Chiến tranh qua rồi, nạn phá rừng vẫn tồn tại. Một người bạn tôi được giao một đại đội đào binh làm nhiệm vụ vỡ hoang hai cánh rừng gỗ tếch để trồng sắn. Thu hoạch xong vụ đầu tiên, anh toát mồ hôi: công lao của bấy nhiêu con người cả năm trời chỉ đủ mua ba cây tếch, nhiều nhất là ba cây rưỡi.

    Tôi hỏi anh đã báo cáo lên cấp trên cách anh tính toán chưa, anh nói anh không dám. Người ta đã báo cáo thành tích khai hoang rồi, nói thế có mà chết. Những cái đầu đất phá rừng để lấy thành tích khai hoang chưa kịp chết thì lũ con buôn đã thế chỗ. Chúng nhân danh phát triển kinh tế, đẩy mạnh xuất khẩu gỗ, đốn bất cứ cây nào bán được.
    Tôi vốn không tin những con số thống kê ở nước ta. Chúng được các viên chức chững chạc tạo ra ở các bàn giấy và chẳng bao giờ cho ta một hình dung tương đối đúng.

    Chẳng hạn, con số ước chừng của mấy người bạn xót xa rừng bị phá cho biết diện tích rừng ngày nay ở nước ta so với 20 năm trước chỉ còn lối 25 phần trăm. Tôi từng nghĩ con số này được thổi phồng. Chỉ tới khi được nhìn tận mắt những bản đồ rừng bị tàn phá, được xem phim quay từ vệ tinh tại trạm khí tượng tỉnh Strassbourg (Pháp), tôi mới tin nó có thật.

    Hồi đầu cuộc kháng chiến chống Pháp chỉ qua bến Trung Hà là đã tới rừng, vượt qua vùng bưởi Đoan Hùng là đã gặp rừng nguyên sinh, vậy mà nay lên tới tận Tuyên Quang vẫn còn là trung du. Diện tích rừng so với bây giờ chắc chắn còn bị thu hẹp nhiều hơn nữa.

    Và tốc độ tàn sát rừng chưa có dấu hiệu giảm. Hết rồi rừng vàng, hết rồi biển bạc, hết luôn những trang tự sướng từng được viết nắn nót trong sách giáo khoa.
    Rừng ăn đời ở kiếp với người, nuôi sống con người, đã bị con người khai thác đến kiệt quệ.

    Giờ đây, nó hấp hối.

3

    Đầu Công nguyên, dân số toàn thế giới ước tính có khoảng 170 triệu người. Đến năm 2016, dân số thế giới đã là 7,4 tỷ người.
    Người đông lên, nhưng diện tích đất thì vẫn nguyên đấy.
    Có nhiều cơ hội tiếp xúc với những người cầm quyền thế hệ tôi, tôi hiểu được cách nghĩ của họ. Trong quá khứ, lúc khởi đầu, họ là những chiến sĩ cách mạng đáng trọng, xuất thân từ những tầng lớp xã hội khác nhau, nhưng không phải là những người uyên bác. Cách mạng đặt họ vào những vị trí họ không bao giờ nghĩ tới là quản trị một xã hội. Ngồi bàn giấy bóng lộn, , máy điều nhiệt êm ru, được chỉ đạo bằng thứ lý thuyết mơ hồ, họ không biết làm việc gì khác ngoài việc sản xuất các nghị quyết. Khi thì “ưu tiên phát triển công nghiệp nặng, chiếu cố thích đáng công nghiệp nhẹ”, khi thì ngược lại, “ưu tiên phát triển công nghiệp nhẹ, chú trọng xây dựng nền móng công nghiệp nặng”… Những nghị quyết được đúc trong cùng một lò, cái này na ná cái kia, những câu chữ sang trọng được các thư ký chấp bút nhào lộn thành thạo như làm xiếc.  

    Cơn mê công nghiệp hoá chiếm lĩnh toàn bộ ý nghĩ của nhà cầm quyền. Thảng hoặc có nói tới nông nghiệp người ta thì cũng chỉ lớt phớt, những từ ngữ chính trị đều hướng về chuyện cải tạo quan hệ sản xuất.
    Lê Duẩn, người được ca tụng có trí tuệ sáng như ”ngọn đèn 200 bu-gi” đã phát biểu tại Đại hội Đảng III, tháng 9/1960 như sau: “Công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa là nhằm cải tạo những quan hệ sản xuất không xã hội chủ nghĩa thành quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa trong đó mấu chốt là cải biến chế độ sở hữu cá thể và chế độ sở hữu tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất thành các hình thức khác nhau của chế độ sở hữu xã hội chủ nghĩa, mở đường cho sức sản xuất phát triển”(nguyên văn).

    Người nông dân với mảnh ruộng của mình được coi là chế độ sở hữu tư liệu không xã hội chủ nghĩa, cần được nhanh chóng cải tạo thành sở hữu xã hội chủ nghĩa.

    “Cải biến chế độ sở hữu cá thể và chế độ sở hữu tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất thành các hình thức khác nhau của chế độ sở hữu xã hội chủ nghĩa” của ngọn đèn sáng chói nọ đã đem lại kết quả thế nào thì người không cần sáng mắt cũng thấy. Để rồi sau những thất bại, những người bắt người khác phải làm theo những sáng tạo của họ không một chút ngượng ngùng vỗ ngực bồm bộp khoe họ đã tài tình và sáng suốt “cởi trói” cho cái bị chính họ trói.

    Trong cải cách ruộng đất, Trường Chinh giảng giải: “Cải cách ruộng đất về cơ bản là một cuộc đấu tranh chính trị”.


    Thì ra các “lãnh tụ” đâu có muốn sửa đổi tình trạng bất bình đẳng trong sở hữu đất đai . Họ muốn cái khác kia. Cho nên chưa chia lại ruộng thì phải đấu tố cái đã. Dưới khẩu hiệu “Đánh đổ giai cấp địa chủ” là cả một phong trào vu cáo để tàn sát những người đã ủng hộ Cách mạng Tháng Tám trong chính quyền thôn xã, những người ngây thơ và cả tin rằng có cách mạng là có bình đẳng giữa những đồng chí thề hy sinh tất cả vì độc lập, vì tự do. Cần phải diệt cho bằng hết những kẻ bất mãn với tôn ti trật tự mới được du nhập từ Trung Quốc vĩ đại - đó mới là mục đích của Trường Chinh trong cái gọi là cải cách ruộng đất.

   Có bao nhiêu người không tên tuổi đã mất mạng trong cuộc giết chóc vĩ đại nhất trong lịch sử?

4
 
   Khẩu hiệu: “Chính trị là thống soái” vay mượn của các thầy Tàu được đặt lên hàng đầu trong một thời gian dài. Các nhà khoa học, các chuyên gia được đưa về nông thôn, vào các xưởng máy, không phải để nghiên cứu cái gì, mà để học tập tinh thần lao động. Mao Trạch Đông đã dạy: “Trí thức không bằng cục cứt”.

    Những người nắm quyền lực trong tay không mơ thấy gì khác ngoài những nhà máy nhả khói lên trời và những ô tô chạy băng băng trên “đường ta rộng thênh thang tám thước” (thơ Tố Hữu). Đầu óc tủn mủn, giấc mơ cũng tủn mủn.

    Chúng tôi được ăn no nê bo bo cùng với những nghị quyết không cho phép cãi lại về một phương thức sản xuất tiên tiến hứa hẹn một thiên đường mai sẽ có.

    Đó là chuyện đã xưa. Chỉ có thể tự an ủi rằng ít nhất thì cái “Chính trị là thống soái” được tuyên bố ra miệng cũng còn đỡ dơ dáy hơn cái “Tiền là thống soái” không nói ra sau này.

    Những nghiên cứu khoa học trước kia cho ta biết: Ở nước ta nhiệt độ trung bình trong năm từ 22ºC đến 27ºC , Bây giờ nhiệt độ cao hơn rất nhiều do hậu quả của nạn phá rừng, chặn sông, lấp hồ.

    Cũng những nghiên cứu khoa học cho biết: hàng năm có khoảng 100 ngày mưa với lượng mưa trung bình từ 1.500 đến 2.000mm. Độ ẩm không khí trên dưới 80%. Số giờ nắng khoảng 1.500 - 2.000 giờ, nhiệt bức xạ trung bình năm 100kcal/cm². Nhìn chung, Việt Nam có một mùa nóng mưa nhiều và một mùa tương đối lạnh, mưa ít. Do ảnh hưởng gió mùa, địa hình phức tạp, khí hậu nước ta luôn thay đổi trong năm, giữa năm này với năm khác, giữa nơi này với nơi khác (từ Bắc xuống Nam và từ thấp lên cao). Nhưng chính vị trí địa lý và sự đa dạng về địa hình lại là điều kiện thuận lợi cho sự đa dạng về chủng loại thực vật. Sự đa dạng ấy dần mất đi do những nghị quyết “nuôi con gì, trồng cây gì” nảy ra trong những cái đầu ngu ngốc.

     Nước ta là một nước nông nghiệp. Nó được thiên nhiên cho con người những điều kiện tốt nhất để làm nông. Thay vì chú trọng công nghiệp chế biến sản phẩm nông nghiệp cho nhu cầu trong nước và xuất khẩu thì những thế hệ cầm quyền nối tiếp nhau ra sức làm cái khác: công nghiệp hoá theo cách những nước không được thiên nhiên ưu đãi làm nông nghiệp.

    Người ta hối hả mời tư bản nước ngoài vào để sản xuất ô tô, thực chất là bán sức lao động tại chỗ trong việc lắp ráp. Nền công nghiệp được tạo ra bằng nghị quyết và khẩu hiệu không làm ra được cái đinh ốc cho ra hồn. Được chính quyền bảo kê, những nhà tư bản nội địa cướp đất của dân, đẩy hàng vạn người suốt đời làm nông nghiệp ra khỏi mảnh đất cha ông, bắt họ phải sống vật vã trong cảnh bần cùng.

    Có cần phải đưa dẫn chứng không?

    Không.

    Đất ruộng bị cướp, rừng bị phá tan hoang, chỉ để xây dựng những thứ không nhất thiết phải có ngay lập tức - những khu công nghiệp hoành tráng của nước ngoài, những ngôi nhà chọc trời, làm những khu nghỉ dưỡng sang trọng, những sân gôn mênh mông. Hậu quả nhỡn tiền là lũ lụt triền miên, ô nhiễm lan tràn từ Nam chí Bắc, khí hậu biến đổi. Việt Nam từ một nước bình thường trở thành một trong những nước nghèo nhất thế giới.
    Nông dân ngày xưa không biết đến các thứ phân bón hoá học, các hứ thuốc trừ sâu. Ngày xưa người nông dân xem trời xem đất biết khi nào nên gieo mạ, khi nào cấy, không chờ những chỉ thị “phấn đấu cấy cho hết diện tích vào ngày A hay ngày B”. Cũng ngày xưa ấy có nhiều giống lúa, rất đa dạng và thích hợp với từng cánh đồng, từng chân ruộng. Gạo cho những bữa cơm cũng nhiều thứ. Cho dù năng suất không cao, gạo tám thơm mà thế hệ tôi được ăn là thứ gạo tuyệt ngon, con cháu bây giờ không biết mặt mũi nó thế nào. Thứ tám thơm hạt dài, nấu cơm ở cuối ngõ, đầu ngõ nghe thấy hương bay ngào ngạt. Cái cũng mang danh tám thơm mà các cửa hàng đặc sản ngày nay dọn cho khách sẵn tiền là cũng là thứ gạo hạt dài, đẹp mã, giỏi lắm cũng chỉ là bà con xa của thứ tám thơm đã tuyệt chủng.

    Bây giờ thì thiên hạ mơ ước “bao giờ cho đến ngày xưa”. Người rủng rỉnh tiền mới được ăn các thứ rau quả giá đắt từ các cửa hàng bio đang mọc lên như nấm, chỉ ở đó mới có những thứ trời sinh người dưỡng. Người nghèo thì đành ra chợ nhắm mắt mua về những thứ được tẩm đẫm hoá chất độc hại nhập cảng từ đất nước “bạn vàng”. Hậu quả của cuộc chạy đua theo lợi nhuận là sự huỷ hoại tâm hồn những người nông dân hiền lành, biến họ thành những sát thủ giấu mặt.

    Đường là do người đi lại nhiều mà thành. Đó là thuận theo tự nhiên. Những con đường được vẽ ra trong đầu những người tự xưng “lãnh đạo” không dẫn tới phồn vinh mà dẫn tới đói nghèo.

    May thay cho các dân tộc không có những nhà lãnh đạo tự xưng như ta có.

    Tôi có anh bạn Nga giám đốc một công ty du lịch. Công ty của anh khá phát đạt. Anh cho biết: “Du khách của tôi có hai loại. Một là loại thích xem di tích lịch sử. Một loại thích tìm đến thiên nhiên hoang dã. Loại thứ hai ngày một đông. Người ta không đến nước Nga để xem các nhà máy mới xây dựng. Họ muốn được chiêm ngưỡng những gì còn lại của thiên nhiên chưa bị huỷ hoại”.

    Nhiều quốc gia trở nên giàu có nhờ du lịch. Người ta không đến Tây Nguyên để ngắm những công trình bằng bê tông cao ngất, để ngủ trong những căn phòng sang trọng của những khách sạn 5 sao. Người ta muốn được xem những nhà sàn, nhà rông, những tượng gỗ mốc meo ở những nhà mồ, được lang thang trong những rừng già nguyên sinh.

    Những thứ đó không còn nữa.

    Một câu hỏi bất giác nảy ra trong tôi: “Liệu tiền của kiếm được từ những nhà máy làm ô tô, những công xưởng người nước ngoài được mời gọi đặt ở nước ta so với cái thu được từ du lịch sinh thái sẵn có rồi cái nào sẽ lớn hơn”?

5

    Bây giờ có người đã tỉnh ra, nói: “Lỗi ở chúng ta. Chúng ta đã không thuận theo thiên nhiên”.

    Tôi không thể nói như thế.

    Từ “chúng ta” bị lạm phát vô tội vạ. Dân chúng, tức là chúng ta, từ lâu đã mất hết mọi quyền, kể cả quyền có lỗi. Người không được làm theo ý mình thì sao có thể gây ra lỗi?

    Lỗi ở kẻ khác.

    Lỗi ở kẻ nắm quyền cai trị đất nước, kẻ tự tung tự tác, muốn làm gì thì làm, dân chỉ có việc nghe theo, vì chúng vĩnh viễn “duy nhất đúng” và “vô cùng sáng suốt”, chỉ có chúng mới xứng đáng để dẫn dắt bá tính.

    Bây giờ, một lần nữa, chúng lại xưng đúng khi mang đất đai của tổ tiên ra bán từng phần.

    Trước khi chúng sắn tay áo bán tất!


Vũ Thư Hiên

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Mùa đông xuân năm nay, trời lạnh sớm, cái lạnh tái tê kéo dài từng đợt trên khắp cả nước, từ miền cao đến châu thổ. Có những nơi như đèo Ô Qui Hồ, Mẫu Sơn, Y Tý… tuyết rơi trắng xóa. Tuyết nơi miền chí tuyến! Cùng với tiết trời là những đợt gió rét mướt vi vu dễ làm chùng lòng, chẳng dám dậy sớm đi biển. Nên nhớ vẩn vơ. Nhớ gió qua bao nỗi niềm.
Bà mỉm cười khi thấy chén bát thằng bé đã xếp gọn gàng. Bà nhấc lên khỏi mặt bàn, dưới cái đĩa cuối cùng thì bà thấy có một tờ giấy bạc 50.000 đồng chặn ở dưới! Con cám ơn.
“Sắp về Việt Nam đó.” Dễ Thương thông báo một buổi chiều thứ tư. Trời còn chút mùa xuân. Nắng trong, gió nhẹ. Bất ngờ như hụt chân bước lọt vào khoảng trống, người đàn ông hoảng hốt, “Chừng nào về?” “July.” “Sắp tháng Bảy rồi.” Nụ cười nở ra trên cánh môi. Con mắt ướt như có gió có mưa đâu đó tạt về. Cõi lòng như cái ống nước cao su bị xoắn, người đàn ông kiếm giùm cô một cái cớ. Tháng Bảy ở Việt Nam thì có gì nhỉ. Loài hoa nào nở vào tháng Bảy ở quê nhà. Mùa mưa bắt đầu từ tháng nào. Bão nhiệt đới thổi về. Bão rớt từ biển đông. Tháng Bảy có gì. Xa Việt Nam lâu quá, người đàn ông quên mất tiêu.
Tiếp tục loạt bài về trận đánh Điện Biên Phủ kết thúc chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất, nhà văn Trần Vũ phân tích chiến thuật chiến lược của đôi bên, Pháp và Việt Minh, từ mắt nhìn của một nhà quân sự. Việt Báo trân trọng giới thiệu.
Hôm nay, ngày 30 tháng 3 năm 2022, đúng 47 năm ngày kỷ niệm trận Khánh Dương, Lữ đoàn 3 Nhảy Dù rút quân về Phan Rang, theo sau là đoàn xe của quân đội và đồng bào theo chân quân đội quốc gia xuôi về nam lánh nạn cộng sản.
Anh ta là bạn cùng xóm và cùng lớp với anh tôi. Trong khi anh tôi hiền lành thật thà bao nhiêu thì anh ta mưu mô, gian xảo bấy nhiêu...
Chỉ có tình thương mới đem hòa bình cho thế giới, chỉ có lòng thương yêu bớt hận thù, và người bị bệnh nói nhiều cũng phải vì lý do gì đó, sự uất ức dồn nén trong đầu, trong tim...
Mùa xuân Tự Thánh nguyên niên, Trường An tưng bừng khai hội hoa xuân, bá tánh trong ngoài thành hớn hở trẩy hội, nam thanh nữ tú dập dìu, tài tử giai nhân lả lướt, đại gia quyền thế cũng chen chúc vào ra. Trường An chưa bao giờ rực rỡ và đẹp như thế....
Gái muộn chồng thì thậm khổ/ Trai muộn vợ cũng thậm khổ/ Mây trên trời thì kéo xuống/ Gió ngoài biển thì thổi vô...
Đại Quan họ Đỗ, quê cha đất tổ ở Huyện Nho Quan, Tỉnh Ninh Bình, một vùng núi non hùng vĩ, sơn thủy hữu tình nhưng nghèo. Ninh Bình là vùng đất hẹp, người đông cho nên đất đai quý hơn vàng. Tổ tiên bao đời sống bằng nghề nông, đổ mồ hôi nước mắt trên vài mẫu ruộng, sống chết với ruộng đồng nhưng cuộc đời vẫn không khá.
Gần 2 thập niên quen biết, học hỏi và làm việc cùng Thầy. Mới thấy sự tận tụy, miệt mài của Thầy, nhất là những khi dịch kinh điển. Tuổi cao mắt mờ và không rành máy tính, Thầy viết bằng tay, dò từ chữ với kính rọi phóng đại. Rồi nhờ người đánh máy, rồi Thầy dò lại, v.v… Nghiệp làm sách, trong đó có những tập kinh của Thầy dịch, có lần Thầy gởi tiền lì xì tặng "người thiết kế sách" và nhắc anh chàng tội nghiệp, bảo rằng "dẫu có hư, nhưng không hỏng", hãy thương yêu đùm bọc nhau và làm việc cho Phật giáo. Thầy là một số ít vị Tăng lữ xem việc ấn bản những kinh kệ, sách vở văn hoá Phật giáo là quan trọng và thường khuyến tấn. Thầy, một con người khiêm cung, hiền hoà và mẫu mực.
Alphonse Daudet (13/5/1840 - 16/12/1897) là một nhà văn Pháp và là tác giả của nhiều tập truyện ngắn nổi tiếng. Ông sinh ra ở Nîmes (thuộc miền Nam nước Pháp). Ông bắt đầu viết văn từ năm 14 tuổi, đến năm 18 tuổi Alphonse ra thi tập "Những Người Đàn Bà Đang Yêu" (Les Amoureuses, 1858) và được đón nhận ngay. Độc giả Pháp đặc biệt yêu mến ông qua các tiểu thuyết "Thằng Nhóc Con" (Le Petit Chose), gần như là thiên hồi ký của thời niên thiếu đau khổ của chính mình mà đôi khi cũng được ví với nhân vật trong tác phẩm "David Copperfield" của đại văn hào Charles Dickens của Anh. Những năm sau ông viết nhiều tiểu thuyết cũng thành công không kém, qua các đề tài xã hội của một nước Pháp dân chủ thay thế cho chế độ quân chủ. Cho đến cuối đời, Daudet dao động từ niềm vui thẳng thắn (Nhân vật huyền thoại Tartarin de Tarascon) đến sự mỉa mai như quất mạnh (Numa Roumestan), hoặc nỗi u sầu bệnh hoạn nhất.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.