Hôm nay,  

Con Còn Nợ Ba

21/06/202000:00:00(Xem: 4715)

Con Con No Ba 01 

 

“Tưởng nhớ ba tôi trong mùa Tạ Ơn, báo hiếu từ phụ”

  

 Ba ơi, sắp đến ngày báo hiếu từ phụ rồi! Con nhớ quê hương mình không có ngày lễ báo hiếu từ mẫu “Mother’s Day” hay ngày báo hiếu từ phụ “Father’s Day” như cái xứ con đang tạm dung đó ba!

Con biết ba sẽ cười hiền lành, mà bảo với con gái của mình rằng:

-  Con bé nầy nhiều chuyện và rườm rà quá đi. Bởi ở xứ mình cha mẹ hàng ngày chạy gạo cho cả nhà mở con mắt không lên, thì còn có tâm tình gì mà nghĩ đến ngày báo hiếu, báo ơn cha mẹ con ơi. Công ơn cha mẹ với bổn phận làm con không chỉ có ngày lễ đó thôi đâu con à, mà nó suốt cả cuộc đời. Nhớ lúc đi tu nghiệp ở Mỹ, ba cũng biết ngày lễ báo hiếu từ mẫu hay ngày báo hiếu từ phụ chớ. Bên dó, tới ngày lễ nếu con cái ở gần thì đưa cha mẹ đi ăn sáng, ăn trưa, ăn chiều, ở xa thì mua gởi cho cái áo, cái khăn, hay gởi cho mấy chục đồng, nếu con cái khá có tiền thì được một trăm, hay nhiều hơn tùy hoàn cảnh gia đình của họ. Theo ba nghĩ thì công ơn cha mẹ sanh thành dưỡng dục như núi Thái, như đại dương vô bờ vô tận, chớ đâu chỉ có mấy ngày vậy thôi con...

Ba à, con sẽ vùi đầu vào ngực, ôm chầm lấy vai ba mà nhỏng nhẻo, mà nũng nịu và thỏ thẻ nói với ba rằng:

-  Ba ơi, theo con biết, mỗi năm xứ người có ngày báo hiếu là để gợi nhớ, để hâm nóng, để nhắc nhở lòng tôn kính, thương yêu, hiếu thảo của con đối với cha mẹ. Đó cũng còn tùy thuộc vào tâm tình và hoàn cảnh của mỗi gia đình và mỗi người nữa ba, còn con thì ba đừng có lo nghe! Con nhớ thương và kính yêu ba dài dài, nhớ đều đều, nhớ cho đến ngày lìa bỏ cõi đời nầy. Trong lòng con sẽ không hề lạt phai thương kính ba chút nào hết đó ba!

 

Nhìn những cánh hải âu bay lượn giỡn đùa, cùng tiếng kêu vang vang của chúng trên trời cao, và những cây mọc trong nước sát mé bờ, có nhánh gie ra ngoài. Trên cành có tổ chim, mà chim mẹ đang đút từng miếng mồi nhỏ vào miệng lũ chim con, Nghĩa cảm thấy buồn nao cõi lòng, và thở dài nghĩ ngợi. bất chợt hồi ức lại quay về...

Cho đến bây giờ thật sự tôi (Nghĩa) cũng chưa biết mẹ mình là ai? Có thể mẹ tôi đã qua đời rồi chăng, cũng có thể vì hoàn cảnh nào đó bà không nhận con, có thể, có thể, và có thể lắm? Bao nhiêu nguyên nhân khiến tôi nghĩ và đặt câu hỏi trong đầu. Nhưng từ nhỏ đến trưởng thành tôi vẫn không có câu giải đáp! Vì chưa bao giờ tôi được gặp và biết mặt mẹ mình, cho đến khi tôi biết đánh vần chữ “Mẹ, Má” và khi tôi biết nhận xét, khi tôi hiểu, khi tôi biết nghĩ suy, và biết tủi thân... khi thấy và biết mọi người, mọi sinh vật cho đến cỏ cây hoa lá... sống trên thế gian nầy đều có mẹ!

Bởi mẹ bỏ Nghĩa cho nội, khi con bà chưa tròn 2 tuổi! Ngôi nhà cũ trống không của ông bà để lại, là di vật cuối cùng của gia đình cũng bị giặc tịch thu lấy làm chỗ hội họp cho đám thanh niên trong phường. Họ bảo đó là nhà của“Ngụy quân” cho nên bà cháu tôi bao nhiêu năm ở trong căn nhà đó, dù là chủ nhà và mọi thành viên đều có tên trong sổ gia đình, nhưng vẫn bị đuổi đi kinh tế mới! Trong khi cha tôi còn bị họ nhốt trong tù cải tạo, từ miền Nam rơi vào tay Việt cộng và nước Việt Nam hoàn toàn nhuộm đỏ trong chế độ Cộng sản.

Bà nội già cả và cháu còn quá nhỏ mà đùm túm lang thang sống hẩm hiu lây lất bữa khoai, bữa cháo ở xó chợ, gầm cầu! Bởi bà cháu tôi giờ đây không còn nhà để ở, bà già yếu lại bịnh tật liên miên. Cho đến ngày giặc thả ba tôi về, ông bị bịnh phù thủng trầm kha không lao dịch được nữa. Tôi nghĩ vì thế nên chúng mới cho ba tôi về vì lý do đơn giản là: Ông bị nhốt trong cải tạo chỉ tốn phần ăn, chớ không có lợi lộc chi cả. Và nếu ông bị chết trong tù, thì chúng sẽ thêm một cái tội với thế nhân nữa, là: “Nhốt người vô tội, bịnh hoạn không thuốc men... và bị hành hạ đến chết…”

Tội nghiệp ba của tôi, sau bao nhiêu năm bị đày đọa trong tù ngục cải tạo. Thân thể ông đầy thương tật, yếu đuối, gầy còm như cái xác biết đi! Khi được giặc thả về, ba của tôi đã mất tất cả, cái gì cũng không có, chỉ có nhiều thứ bịnh!

 

Ba tôi như người mất trí, bởi bà nội đột ngột qua đời, sau khi ông ra tù chưa đầy ba tháng! Thiệt là “Quạ vô đơn chí/ Phúc bất trùng lai” nỗi đau buồn mất mát đeo dính ba người chúng tôi. Không có ăn thì tiền đâu mà thang thuốc, đang bịnh tật còn thiếu thốn, khổ đau, và nỗi buồn nối tiếp buồn theo… Đau đớn ngập lòng, uất hận riêng mang, nhiều lần ba tôi đã ngửa mặt lên trời cao, nghẹn ngào mà than rằng:

-  Ông Trời có bất công không? Hay kiếp trước tôi đã gây nhiều oan khiên cay nghiệt nên bây giờ nhận lãnh bao nhiêu đau khổ buồn thương lần lượt chụp phủ xuống cha con tôi! Tội nghiệp con tôi còn nhỏ quá, xin cho tôi nhận lãnh tất cả mọi sự việc đã vay... Mong Ơn Trên linh thiêng giúp cho cháu có cuộc sống an ổn, cuộc sống thật sự của kiếp một con người bình thường trên cõi đời nầy.

Khốn khổ chất chồng, thương đau khóc mẹ, không nơi tá túc vào mùa giông bão, mùa đông lạnh lẽo khôn cùng, đôi mắt ba tôi đã bị mù lòa! Tội nghiệp ba tôi sống không bằng chết trong tăm tối, không được ánh sáng mặt trời chiếu rọi, cùng nỗi đau đớn xâu xé, không còn lối thoát, ba tôi phải đi xin ăn! Đó là việc làm duy nhứt để kiếm sống cho hai cha con tôi trong xấu hổ, ngửa tay xin tiền, mong nhờ vào từ tâm của thế nhân!

Tuy đôi mắt bị mù lòa, nhưng tâm hồn ba tôi trong sáng như nhật nguyệt. Ông thường dạy dỗ và nhắc nhở cho con biết ai là bạn, ai là kẻ thù… Ông cũng không vì bịnh tật và hoàn cảnh hiện tại của mình mà thất chí, rồi làm những chuyện không nên, hay nói năng xàm xỡ với những người chung quanh. Ông luôn giữ câu của người xưa: “Lành cho sạch/ Rách cho thơm” và luôn lấy đức báo oán, trước những cảnh trái ngang nhiều hệ lụy đã qua của đời ông.

Ngày ngày ba tôi đi xin ăn từ sáng sớm tới chiều tối mới về. Nhưng không bao giờ ông cho con đi theo. Ông gởi tôi trong chùa để sư cụ sai vặt, và dạy cho biết chữ. Nhớ lại có một ngày trời trong mây tạnh, sư cụ tỉa cấy cảnh trong sân thấy cha con tôi hàng ngày gội nắng, dầm mưa lang thang đi qua chùa. Sư thương tình gọi cho mấy củ khoai nấu, và gợi chuyện hỏi thăm biết hoàn cảnh khốn khó sư cho cha con tôi tá túc ở mé hiên sau của chùa bỏ trống cái chòi nhỏ, vách nhiều chỗ bị hư, mái có nhiều chổ dột, bởi qua năm tháng trơ gan cùng tuế nguyệt không được tu sửa.

Con Con No Ba 02
Tôi không sao quên, đó là ngôi chùa nghèo nằm sát bên bờ sông Bảo Định (thành phố Mỹ Tho) mà người đời thường bảo: “Nước rồng, nước lớn lửng lờ xuôi chảy của sông dài, biển rộng sẽ cuốn trôi tin buồn của thế nhân.”

Có những ngày trời ảm đạm, gió lạnh mưa chan đi xin về đến chỗ ở, khi ba tôi bị lạnh cóng cả người… Tôi la cầu cứu, sư lật đật nấu nước gừng nóng cho uống, sư châm cứu, cho đốt củi lửa hơ, và xức dầu nắn bóp để ba tôi giãn gân cốt, và từ từ khỏe lại…

Với trí hiểu biết non nớt của mình, tôi không biết ba tôi đang nghĩ suy gì? Nhưng tôi biết chắc chắn một điều: “Ý chí mãnh liệt để ông sinh tồn vì ba tôi không muốn con mình côi cút, bơ vơ…”

 

Hoàng thiên bất phụ hảo tâm nhân” Tôi vẫn nhớ chiều hôm đó, cha con tôi vui mừng và hết sức ngạc nhiên. Bởi có ông khách qua đường dừng lại cho ba tôi một số tiền lớn! Một số tiền rất lớn với một người mù đi xin ăn bữa đói bữa no ở “Xã hội chủ nghĩa Việt Nam”… Vị thần độ mạng của cha con tôi, chính là một đồng đội trong “Thiên thần Mũ Đỏ” cộng sự với ba ngày xưa. Giờ ông là một ngoại kiều về thăm quê hương bất ngờ gặp lại…

Kể từ sau đó, ba tôi không còn đi xin ăn nữa, và gánh nặng xót xa trong lòng ba có phần nào được nhẹ đi. Và cứ mỗi sáng sớm, khi vầng thái dương còn e ấp ở phương đông, chim chốc gọi đàn bay đi tìm mồi. Thành phố Mỹ Tho rộn tiếng còi, tiếng động cơ xe cộ, tiếng nguời bán hàng, tiếng trẻ con cười nói trên đường đến trường. Thấy chúng ôm tập sách, mặc áo quần lành lẽ… lòng tôi se thắt, với những ước mơ thầm kín nở lớn trong tâm hồn thơ dại của mình...

Mỗi ngày như mọi ngày, tôi dắt ba ra ngã tư Giếng Nước, ở đầu đường có xe cộ dập dìu, có nhiều người qua lại. Một góc nhỏ bên lề đường, tôi phụ ba treo tấm ni-long che nắng che mưa để ngồi bán vé số, chiều tối thì mới đến dắt ông về. Cha con tôi đi giữa thành phố lên đèn, qua những ngôi biệt thự đồ sộ nguy nga tráng lệ, qua những nhà hàng, khách sạn cao ngất trời của bọn tư bản đỏ. Tôi nghe người lớn nhỏ to: Bọn cầm quyền đã bán lãnh thổ, lãnh hải cho ngoại bang, phè phỡn sống sa hoa trong đau khổ của nhân dân nghèo khổ.

Khi vui, ba thường kể cho con gái mình nghe những chuyện ngày xưa lúc còn là lính chiến. Ba tôi kể trong say sưa, với niềm tin lẫn niềm xúc động nghẹn ngào, và niềm hy vọng thầm kín dâng lên, dần dà ông đã lấy lại được mức sống bình thường trong tâm hồn, và thỉnh thoảng tôi còn bắt gặp niềm vui trong giọng nói, hoặc nụ cười nhẹ trên môi ba.

 

Ngày đó, nắng miền Nam đẹp lắm! Phố phường rực rỡ vàng màu cờ và sắc áo lính. Những người lính chiến trên Bốn Vùng Chiến Thuật đại diện các quân binh chủng, từ các chiến trường trở về dự trong ngày Đại lễ Quân Lực 19 tháng 6 (mỗi năm).

Ngồi tán dóc với mấy bà trong xóm, bà Tám y tá (chích thuốc theo toa bác sĩ) lên tiếng trước:

-  Mấy chị biết con bà Hai bán bánh bò, bánh da lợn ngoài chợ, là cậu Nhân chớ? Tôi thấy cậu mặc bộ đồ lính “Dù”, cùng một số quân nhân đại diện đơn vị về diễn hành “Ngày Quân lực” ôi trông cậu ấy đẹp trai thì thôi, và thật oai phong quá chừng chừng đi!

Bà Tư bán gạo, góp chuyện:

 -  Thế cho nên, sau mùa Quân lực, khi thấy bóng dáng thấp thoáng chàng về phép, thì các em trong xóm mình lượn qua lượn lại nườm nượp hà! Các em mong coi có được lọt vào giếng mắt xanh của chàng, để làm người yêu lính chiến miền xa không!

Chị Tám Dung thợ uốn tóc mở to mắt ngạc nhiên, lên tiếng:

-  Mấy chị nói chơi hay nói giỡn, bộ có vậy thiệt hả, sao mà tui không biết vậy cà?

Chị Út Nga vợ ông Sáu Hiến, tài xế xe đò đường Long An, Sài Gòn. Chị là phụ nữ trẻ nhất trong nhóm đang bàn chuyện thiên hạ sự với mấy bà kia. Tánh tình chị trẻ trung và hay nói tiếu, đang ngồi kế bà Tư chị cất giọng cười khè khè như rắn hổ lửa gặp con mồi, chêm vào những lời lẽ vui nhộn.

Tiếng cười chưa dứt, thì chị gống gân cổ trỗi giọng:

- Có chớ, sao không thật! Mấy bà nghĩ xem: “Bạn ơi quan hà xin cạn chén ly bôi/ Ngày mai tôi đã đã đi xa rồi… Giữa đoàn hùng binh có tôi đi hàng đầu/ Trở về là khi nước non vui bình yên…” Rồi chị bắc qua bài khác, hát câu đầu nầy nhảy qua câu giữa bài kia vừa hát vừa lắt đầu nhịp chân, thân mình ẹo qua ẹo lại: “Đừng chê anh lính đám cưới nhà binh em ơi/ Em sẽ là cô dâu đẹp tuyệt vời …/ Đám cưới bọn ta tưng bừng biết mấy…/… Tám xe lội nước theo sau/ Chín xe đại bác đi đầu… Cưới em nhỏ lắm em ơi/ cưới em mời mấy trăm người… Có ai bằng đôi ta đâu…” Mèn ơi, mấy em nghe đến đó quýnh đít thiếu điều năn nỉ ỉ ôi, xin được sửa túi nâng khăn cho anh chàng Nhân là đàng khác.

Coi bộ chưa đã, chị hứng chí lớn tiếng:

-  Nhưng“Sức mấy! Bỏ qua đi tám...” Bây giờ thì hai bông mai vàng trên ve áo cậu Nhân, đã làm các em cho mình là kiều nữ trong xóm nín khe… Bởi lúc chàng còn đi học, các nàng chê là thằng con bà bán bánh nghèo mạt rệp… Chê cho đã miệng, thiệt là mấy nường không biết nhìn xa, hiểu rộng, chớ có biết đâu anh chàng lính chiến Nhân “Con nhà nghèo, nhưng học giỏi, và đẹp giai...” để giờ đây anh ta tảng lờ làm ngơ các cô nàng trong xóm. Khiến các em vừa tức vừa tiếc hùi hụi, bởi “ngày xưa lỡ dại chê nhằm người ta” đó mà!

Các bà phá lên cười rộ vui vẻ rồi trở về nhà ai phận nấy của mình. Họ là những người phụ nữ lam lũ ở xóm nghèo, bình dân, vui vẻ, tốt bụng giúp đỡ chòm xóm khi nhà ai có người đau bịnh, tối lửa tắt đèn… Họ hay chọc ghẹo đối phương nhưng để vui cười chung, rồi qua đi chớ không nói xấu, nói hành nói tỏi, hay ức hiếp hoặc có ác ý với ai.

Cho đến một ngày kia, chàng Nhân dắt về giới thiệu với mẹ, cô Hồng Thủy làm ở sở Mỹ nơi chàng thường theo mấy người bạn ngoại quốc ghé mua hàng “PX” (Post Exchange, là những cửa hàng bán lẻ cho Mỹ... không có thuế) Bà Hai má Nhân là người mẹ hiền, thương yêu và luôn chiều chuộng con. Bà nghĩ giờ con bà cũng đã lớn rồi, có thương cô nào thì bà cưới cô ấy cho anh.

Thế là đám cưới nhà binh được tổ chức đơn sơ nhưng đầy đủ lục lễ cho con mình. Dù là cảnh nhà mẹ góa con côi, nhưng bà Hai cũng đi đủ lễ, chớ không nói đơn sơ mà giảm quà lễ để thiên hạ cười chê mẹ con bà.

Sau ngày cưới, Hồng Thủy về sống với mẹ chồng. Còn Nhân thì luôn bôn ba ngoài chiến trận, đôi ba tháng mới về thăm gia đình một lần. Khi dâu sanh đứa con gái, bà nội đặt cho tên: Nguyễn Thị Nhân Nghĩa, con của ông Nguyễn Vĩnh Nhân và bà Trương Hồng Thủy.

Bà Hai nghỉ buôn bán, vui mừng sung sướng ở nhà trông coi tâm can bửu bối, là đứa cháu nội bé nhỏ của bà đó đa! Bà để cho con trai mình yên lòng ngoài chiến tuyến, và con dâu đi buôn bán làm ăn!

Thuở đó, ở góc nhỏ của phương trời miền Nam tự do dưới Chánh thể Cộng Hòa, có gia đình bà Hai bán bánh bò, không giàu sang nhung lụa, nhưng cơm no, áo ấm cuộc sống êm đềm và hạnh phúc dâng đầy bên dâu con và tiếng cười khóc vô tư của đứa cháu nội bé thơ.

Sau ngày Nghĩa ra đời không bao lâu thì thời thế đổi thay, “Ngày 30 tháng 4 năm 1975” giặc phương Bắc ào át tràn vào cưỡng chíếm miền Nam. Gia đình bà Hai tan nát, Nhân bị giặc bắt cầm tù trong cải tạo. Hồng Thủy ra buôn bán hàng ở chợ trời, nhưng không bao lâu nàng đi luôn không về nữa! Bà Hai già yếu phải đi bươi rác, lượm lon… khổ cực biết chừng nào để chắt chiu nuôi cháu, và bám víu cuộc sống nghèo nàn chờ ngày con trai trở về từ trại tù cải tạo! (Đó là những gì Nghĩa nghe bà nội kể lại, và cô hiểu biết suy xét theo thời gian theo tuổi lớn khôn dần của mình).

 

Bà chủ tiệm nước Cao Thăng ở chợ thành Mỹ Tho, thường đi chùa làm việc từ thiện. Qua lời sư, bà biết được tình cảnh cha con tôi. Nên khi sắp sửa trốn chạy khỏi nước Cộng sản nầy, bà cho hai cha con tôi một chỗ ngồi ở dưới “tàu đăng ký mang số: 2736” chở người vượt biên ở Mỹ Tho.

“Một chỗ ngồi nhỏ xíu dưới hầm tàu, nhưng to lớn vô cùng, to lớn như một thế giới cho những kẻ nghèo đi tìm tự do! Và đó đã thể hiện một tấm lòng thương người, một tấm lòng Bồ Tát bao la như đại dương của bà chủ tiệm Cao Thăng đối với cha con chúng tôi...”

Lúc đầu bà chủ tàu chỉ cho một người đi. Nhân nhường cho con gái đi, còn ông thì ở lại! Nghĩa biết tâm ý của cha, khóc sướt mướt...

Cô vùi đầu vào ngực Nhân tức tưởi bệu bạo:

-  Con không đi, con không đi đâu! Con không thể xa ba… Con nhứt định không đi... chết sống chúng ta có nhau ba ơi!

Cặp mắt sâu hõm hàng ngày như hai cái hố nhỏ của ba tôi càng sâu thăm thẳm hơn! Mặt đanh lại, ông lạnh lùng bảo tôi:

-  Nầy Nghĩa, hãy thành thật trả lời ba: “Con có thương, và muốn trả hiếu cho ba không...?”

          Giọng sũng đầy nước mắt thương đau:

-  Dạ có, dạ có… trên cõi đời nầy người con kính yêu nhứt là bà nội và ba. Giờ chỉ còn hai cha con mình, ba chết con sẽ chết theo, ba ở đâu con sẽ ở đó, xin ba đừng bắt con phải xa ba, cho dù nơi con sắp đến giàu sang, nhung lụa, hay chốn Bồng lai tiên giới cũng vậy, nếu không có ba thì còn có ý nghĩa gì nữa, con sẽ không rời xa ba, ba ơi!

          Nhân ôm chầm lấy đầu con mình, vuốt tóc nghẹn lời thổn thức:

          -  Ba cũng không muốn xa con gái ba, nhưng vì tương lai của con, qua bên đó may ra con còn gặp được tấm lòng nhân của người khác xứ, sẽ được đi học, và tiến thân, con ở lại là gánh nặng cho ba, vì ba không lo cho con được! Dù muốn lo nhưng tình cảnh ba mù lòa, lại là một người thất bại bị kẻ thù trù dập cố tình hủy diệt thì làm sao lo? Ở đây chúng ta ăn không no, lạnh không áo, vô gia cư, không nghề nghiệp, thì tương lai của con sẽ về đâu? Và con còn chuyện quan trọng phải thay ba đang làm dang dở. Con ơi, trả hiếu cho ba, thì con hãy nghe lời ba, nghe lời ba tức là đã trả hiếu cho ba rồi đó!

Nghe cha nói xong, tôi ôm chặc lấy người vừa khóc vừa gật đầu:

-  Dạ con nghe ba! Con sẽ quyết làm những gì ba muốn, ba dặn dò. Con nghe ba, con nghe ba, con thương ba lắm ba ơi!

Bên ngoài gió lành lạnh hắt hiu, mưa trong suốt rào rạc rơi mau và long lanh trong ánh nắng hoàng hôn le lói ở phương tây chiếu rọi. Trời gầm gừ, sấm nổ ầm ầm vang dội... những tia sáng lòe chớp nhanh rồi tắt ngấm như những ý nghĩ chợt đến rồi chợt đi... trong tâm hồn thơ ngây của Nghĩa. 

 

Trong cuộc đời bé nhỏ chưa bao giờ tôi sung sướng và hạnh phúc bằng, cho dù sau nầy ngày tôi ra trường Y khoa, nhận bằng bác sĩ của Mỹ, cũng không bằng! Tôi vẫn nhớ hoài, nhớ suốt đời kiếp nầy để không bao giờ quên ơn người, ơn đời có lòng giúp đở cha con tôi.

Số là sáng hôm đó trời trong mây tạnh và nắng hồng rạng rỡ chiếu lung linh trên cành cây cối chung quanh, trên ngọn mận, nhánh xoài. Lác đác trên những cành ẻo lả, bông so đũa trắng như mây trời, và điểm những trái dài xanh như ngọc bích, mong manh treo tòn ten trên cành ở hiên sau chùa.

Con Con No Ba 03
Tôi vẫn không quên, nên tôi vẫn nhớ, nhớ rất rõ, nhớ mấy hôm trước khi phải theo đoàn người vượt biên. Tôi đang buồn rầu vì phải sắp xa người cha tật nguyền bịnh hoạn của mình. Ngồi bẹp dưới góc cây trắc bá diệp ngoài sân chùa, nghe sư tụng kinh có ca có kệ bên trong, khi lòng đang ngổn ngang trăm mối đau buồn, khiến tôi càng thêm sầu thúi ruột! Thẩn thờ vô hồn tôi nhìn trời xanh cao vòi vọi bao la bát ngát thút thít khóc một mình! Tôi lơ đãng trước không gian trong suốt, màu nắng lụa trãi dài trên cỏ cây hoa lá với bầy bươm bướm chớp, chớp đôi cánh màu sắc rực rỡ cạnh đám huỳnh trúc, bên đám bông phù dung hơn hớn lá tươi non trước sân chùa.

Cảnh sắc nhẹ nhàng êm ả như vậy nhưng trong tâm tư tôi trời như đang tối sầm, tưởng chừng như mây khói đèn đang kín trên cao. Và tôi cũng nghĩ dại, là mong trời sập xuống chết hết cho rồi! Bỗng từ trong Chánh điện bước ra, dáng sư cao gầy, mắt sâu thẳm, mặt sư lúc nào cũng trang nghiêm, trầm tĩnh. Thấy tôi sư nhẹ giọng, bảo:

-  Nghĩa cha con đâu, ông đi bán vé số rồi à? Chừng nào ba con về, dắt lên gặp sư nghe… Con đang khóc đó hả?

Tôi mau lẹ lấy tay quẹt nhanh những giọt nước mắt còn đọng trên mi:

-  Dạ, con khóc vì không muốn xa ba con! Tội nghiệp ông mù lòa, con đi rồi không ai đưa ba con ra chỗ bán vé số, không ai rót nước, đút cơm khi bịnh hoạn. Con thương ba con lắm sư cụ ơi!

Nhịn không được, tôi khóc ồ lên! Sư vuốt tóc tôi chép miệng nhẹ thở dài rồi trở vào chùa. Tiếng cầu kinh hòa cùng tiếng mõ chuông ngân nga, êm êm rền vọng xa đưa… Mùi khói, nhang, trầm hương theo gió nhè nhẹ thoang thoảng bay…

Chiều đó tôi dắt ba đến gặp sư, như sư đã dặn dò. Tôi thấy sư đang tỉa nhành chết, lá úa của những cây kiểng trước sân chùa. Sư vẫn điềm đạm, nét mặt suy tư, và chầm chậm bảo với chúng tôi:

-  Nghe thấy hoàn cảnh của cha con anh, ông chủ Cao Thăng bảo vợ cho cả hai cha con cùng đi luôn một thể…

Cha con tôi quì xuống lạy sư! Không nói gì, tay sư lần chuỗi, mắt u buồn nhìn trời cao vòi vọi... hiền lành, từ tốn khẽ bảo:

-  Cầu xin Phật Tổ phù hộ cho cha con anh! Tôi chẳng giúp gì được, có lẽ do lòng thương con của một người cha như anh, đã làm động lòng người đời và động lòng Trời khiến xui như vậy! Anh phải luôn ăn hiền ở lành, bởi Ơn Trên không bao giờ phụ kẻ có lòng, tôi sẽ cầu an cho cha con anh…

Sư quay qua vuốt tóc tôi:

-  Nghĩa, sư biết con là đứa trẻ ngoan! Qua tới bờ bến tự do con ráng học hành, làm người tốt, để trả hiếu cho cha con và trả ơn đời…

 

Trong đoàn người ngồi chờ xuống tàu lào xào, ồn ào lúc to lúc nhỏ, mặc dù người dẫn đường đã nhiều lần nhắc nhở giữ yên lặng. Tôi ngồi sát vào lưng ba, tay ôm bọc áo quần cũ vá chằng vá chịt của cha con tôi. Nhưng lòng tôi ngập tràn hạnh phúc, cho dù trước mắt là hầm chông, là bẫy mìn của Việt cộng… tôi vẫn thản nhiên tiến bước, vì có ba đi bên cạnh cuộc đời tôi! Mặc dù ba tôi là người tàn phế, đang ngồi đó, trầm ngâm chẳng nói lời nào, trong đôi mắt sâu thẩm không còn thấy ánh sáng mặt trời, nhưng trên khuôn mặt hằn nét thống khổ, lẫn kiên cường, bất khuất đó đã cho tôi sức sống, niềm tin và niềm hy vọng mảnh liệt vô biên!

Mười mấy ngày trên đường vượt biên sóng gió nộ cuồn của biển khơi. Rồi tàu cũng được cặp một bến ở Nam Dương Quần Đảo. Trên Hành trình vượt biên của tàu bán chánh thức (Người đi trả chủ tàu bằng vàng. Chủ tàu đóng cho Việt cộng để được rời nước) mang số “Mỹ Tho 2736”

Tàu vượt biên chúng tôi chết gần cả trăm người vừa già vừa trẻ em, vì sóng gió dập dồn và yếu sức… “Huyệt mộ người cha kính yêu của tôi, cũng ở lòng đại dương trong chuyến bôn đào bằng đường biển nầy!”

          Hôm nay cũng trên chuyến tàu ra biển, tôi theo đoàn y tế thiện nguyện, đi trị bịnh cho những tù nhân trong trại tù Alcatraz, ở hòn đảo Alcatraz gần San Fransico thuộc tiểu bang California.

Nhìn trời nước bao la, nhìn thành phố San Fransico nhà cái cao, cái thấp… chập chùng san sát như dính liền nhau. Cả thành phố dưới bầu trời trong nắng mai rực rỡ, và như nằm lững lờ trên mặt nước trong xanh lao xao sóng bủa chập chùng.

“...Ba kính yêu của con ơi, con gái ba giờ đã lớn đang ở trên một nước tự do, ngắm nhìn trời xanh, in những vầng mây trắng cuồn cuộn nhẹ trôi. Nắng mai chiếu lung linh, gió mát thổi bồng mái tóc con, và gió là là trên mặt nước biển xanh, trong vắt thấy cả cá lội nhởn nhơ. Con nhớ ba lắm, con thương ba vô cùng, con gái không phụ lòng ba, giờ con đã thành tài như ba ước mong. Ngoài những giờ làm việc ở bịnh viện chuyên khoa về mắt. Thời gian còn lại, con ghi danh hành nghề trong các đoàn y tế thiện nguyện. Con đã đi Thái Lan, Cam-Bô-Chia, các nước vùng dân nghèo, cả ở Ép-Phi-Ca, Ai-Rắc nữa đó ba. Nhưng con chưa trở về Việt Nam, vì cố hương giờ đây  vẫn còn chế độ Cộng sản vô thần, tàng bạo... khiến cho biết bao người dân bị trù dập, khổ đau tột cùng!

Sư cụ giúp chúng ta đã viên tịch! Gia đình ông Cao Thăng chủ tàu cho cha con mình vượt biên đang ở Canada (bà chủ qua đời từ mấy năm trước) các con ông đã thành nhân. Lời dạy dỗ của ba là kim chỉ Nam đã và sẽ làm hành trình cho con suốt cuộc đời nầy!

Ngày xưa ba đi lính vì an nguy cho gia đình và dân tộc. Không kể đến thân mình, ba cùng đồng đội bảo vệ lãnh thổ, lãnh hải quê hương đất nước, cho một miền Nam Cộng Hòa Tự Do của chúng ta. Hôm nay con gái ba làm những gì con có thể làm được như ba dạy bảo là giúp người, giúp đời, và… Ba ơi, mặc dù ba nay đã ra người thiên cổ, nhưng con biết ba lúc nào cũng quanh quẩn bên con, nhắc nhở con, giúp đỡ con gái ba. Con thấy tủi thân không có ba như các bạn bè. Ai còn cha thì xôn xao mua quà nầy quà kia cho cha, trong ngày lễ Tạ Ơn, báo hiếu, vinh danh cha.

Thưa ba, mỗi năm ngày báo hiếu từ phụ, lại cận kề Ngày Quân Lực 19 tháng 6 của Việt Nam Cộng Hòa, rồi ngày lễ Tạ Ơn. Con xin gởi ba tấm lòng thành ghi nhớ ơn tiền nhân, nhớ ơn ba trong ngày báo hiếu từ phụ, ngày lễ Tạ Ơn. Ba đã cho con dáng dấp hình hài lành lặn nầy. Ba cho con tâm hồn tươi vui, khỏe mạnh nầy. Ba đã cho con tất cả, tất cả những gì con hiện có… Con đã làm những việc thiện, và những việc... mà ba đã dặn dò chỉ dạy...

Nhưng con vẫn còn nợ ba, bởi: “Trước khi qua đời ba còn nhắc nhở/ Hoàn cảnh nào cũng phải giữ sắt son/ Cha ấu lo nhân nghĩa sẽ không còn/ Trên đất nước mấy nghìn năm Văn Hiến…” Thưa ba, những người trẻ Việt Nam lưu vong kháp nơi trên thế giới, những thanh niên ở quốc nội, hợp cùng nhau... Chúng con dong ruỗi đường ba đi còn dang dở… Chúng con sẽ hoàn tất trong ngày không xa…” Ba thương kính ơi “Con còn nợ ba”!

 

Tuyển tập truyện ngắn“Xứ Lạ Tình Quê”

 

DƯ THỊ DIỄM BUỒN

 

 

Ý kiến bạn đọc
21/06/202017:08:18
Khách
hay hay hay
Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Ba chục năm trước, Bê đã bắt đầu sự nghiệp thể thao của Bê. Số là, Ba vừa học xong lớp chuyển nghiệp. Thời gian chuẩn bị thi cử, Ba dạy kèm cho một người bạn cùng lớp. Thi đậu, người bạn tạ ơn Ba một cặp vé Musik Konzert. Lúc đó, Bê ở trong bụng Mẹ đã hơn sáu tháng. Mẹ kể, Mẹ đang năm đầu ở đại học. Trời mùa đông, Mẹ đi học, mặc áo khoác dày cui. Bởi vậy, bạn học không ai biết Mẹ sắp sửa có em bé, chỉ ngỡ Mẹ hơi lên cân, zugenommen. Bác bạn của Ba có lẽ không dè vợ của bạn là bà bầu nên mới mời đi Rock Pop Konzert của ca sĩ Jennifer Rush.
Năm đó, 1999, miền Trung Việt Nam nhất là ở Huế đang chịu trận thiên tai bão lụt lịch sử lớn nhât từ trước cho đến thời điểm bấy giò. Trong hội chợ tết, người Việt ở đây San Jose vui Xuân nhưng không quên đồng bào ở quê nhà. Từng đoàn Hướng Đạo Sinh Việt Nam được phân phối nhiệm vụ cầm những thùng lạc quyên để quyên tiền cứu trợ. Đang lang thang trong hội chợ, hai em bé trong đồng phục Hướng Đạo chận tôi lại. Một trai một gái. Bé gái cao hơn bé trai non nữa cái đầu, chửng chạc nói “Chú ơi, ủng hộ đồng bào bảo lụt đi chú”. Trọn một câu tiếng Việt, tuy phát âm không trọn vẹn, nhưng khá rõ ràng. Tôi nhìn hai em, nhất là bé gái đang thắt cái nơ trên đầu cái nơ mầu đỏ! Tôi bỗng thấy lòng bâng khuâng man mác.
Qua sự giới thiệu của phụ huynh học sinh, chiều nay tôi có thêm học trò mới. Tuy tin tưởng vào người giới thiệu, nhưng tôi cũng có sự dè dặt thường lệ. Đây không phải là lớp dạy thêm bình thường, mà là lớp dạy kèm “Anh văn chui” tại nhà. Nếu bị bắt “tại trận”, tôi có thể bị đuổi việc (nhẹ) hoặc cả vào trại tù "miệt thứ" dài hạn như chơi. Tuy rất nguy hiểm, nhưng được sự “bảo mật” của học trò lẫn phụ huynh và nhất là khoản tiền thù lao rất hậu. Lương giáo viên cấp 3 lúc đó (1978-1979) mỗi tháng $70 đồng cộng nhu yếu phẩm, thì mỗi học sinh "dạy thêm" tôi nhận được $80/ tháng. Chỉ cần ba học trò là mỗi tháng tôi có thêm đến $240 đồng. Đối với giáo viên lúc đó không phải nhỏ! Cà phê cà pháo, cơm hàng cháo chợ cuối tháng vẫn dư tiền bỏ ống. Phần nữa, học trò lớp “Anh văn chui” của tôi thông thường chỉ vài ba tháng là “ra đi”, nên cũng thường xuyên thay đổi.
Vừa đi vừa ngắm lá vàng vừa suy nghĩ chuyện cũ mà đến nhà Sarah hồi nào hổng hay. Sarah mở cửa với nụ cười thật tươi, Lệ thấy ngay phòng khách những giỏ táo đầy ắp, Sarah giải thích: - Hễ cuối hè đầu thu là nhà tớ hái toàn bộ các trái táo ngoài vườn sau, một phần để sên mứt, phần sấy khô, và phần làm bánh táo nướng.
Nhà thơ Trần Mộng Tú gửi tới tôi bài “Mùa Hạ Đom Đóm và Dế Mèng” khi tôi muốn cùng các ông bạn đồng lứa tuổi trở về những ngày xưa thật xưa. Chị Tú hình như cũng cùng tâm trạng với các bạn không còn trẻ của tôi: “Tháng sáu, tôi đến chơi với anh tôi ở Virginia. Cái nóng rịn mồ hôi trên thái dương, và khó ngủ lắm, buổi tối, tôi với anh ra ngồi ở bực thềm, nói chuyện. Tôi bỗng thấy thỉnh thoảng có những chớp nho nhỏ như lân tinh sáng lóe lên rồi lại biến mất trong bụi cây thấp trước mặt, hỏi anh tôi, cái gì thế? “Đom Đóm” Tôi lặng người đi một lúc như nghe thấy ai nhắc tên một người bạn thân cũ, nó làm tôi xúc động. Xúc động một cách rất mơ hồ, chẳng có nguyên nhân gì cả, chỉ là cái tên của một loại côn trùng bé tí được gọi lên. Cái tên nhắc nhở một quê hương xa lắc, một dĩ vãng nằm dưới tấm chăn phủ dầy lớp bụi thời gian. Trong bóng tối, tôi ngắm những cái chấm lửa nhỏ nhoi, lóe lên rồi tắt ngóm với trái tim nôn nao trong ngực. Có đến cả hơn bốn mươi năm tôi không được nhìn thấy những đố
Tọa lạc trong vùng ngoại ô Saint Maur, kề bên là bờ sông Marne hàng hiên ngang cửa nhà chú, chú đổ đầy đất đen đất vụn phải đi mua từng bao ở siêu thị bán cây trồng đất mua chú đổ vào lưng một cái bac ciment rộng lớn chạy ngang hàng hiên nhà. Trong bac chú trồng đầy hoa vàng, hoa nở thì lớn bằng đồng 50 xu, có năm cánh y hệt mai vàng ở Việt Nam, lá xanh non to bằng bàn tay con nít 5, 3 tuổi. Lá cũng rất thưa, hoa rất đẹp, vàng trong như mai ngày tết. Khi nắng gắt, mầu vàng có đậm thêm tí chút, sáng hé nở, trưa ấm nở rộ. Chiều chiều hoa cúp lại ngủ, ngày mai sáng sớm lại mãn khai, thân cây hoa chỉ cao lắm là đến đầu em bé 5, 6 tuổi. Nên hoa và cây không che vướng tầm nhìn từ trong nhà ra ngoài trời. Chú Phương yêu quý những cây hoa đó lắm. Vun tưới thường xuyên. Hỏi tên hoa đó là hoa gì? Chú trả lời ngon ơ: Đó là hoa vông vang của Đỗ Tốn, Chúng tôi không nhớ và cũng không biết ông Đỗ Tốn là ai
Trong sự bồi hồi xúc động, tay bắt mặt mừng, họ được gặp lại để trò chuyện với những người họ hàng thân yêu, những bạn bè xa gần thân thiết, nhìn thấy tận mắt những làng xưa chốn cũ, nhớ lại những kỷ niệm êm đẹp từ thuở thơ ấu cho đến ngày tạm thời phải rời bỏ những nơi này ra đi, ôi biết bao nhiêu nỗi xúc động trộn lẫn niềm sung sướng vô biên, nói làm sao cho hết được.
Những yếu tố lôi cuốn du khách đi du lịch đến một đất nước bao gồm cảnh đẹp thiên nhiên, văn hóa, thành phố lớn với những lối kiến trúc độc đáo, cuộc sống sôi động, ẩm thực, hoạt động phiêu lưu, kỳ thú ngoài trời, những buổi hòa nhạc, thể thao, nghệ thuật, hay lễ hội, địa điểm hành hương tôn giáo, phương tiện giao thông, vấn đề an ninh và bình yên; trong văn hóa, yếu tố con người chiếm một phần rất lớn khiến du khách khi rời xa, vẫn lưu luyến muốn trở lại lần nữa.
Nếu quý vị độc giả nào đã đọc câu chuyện tình cảm éo le, oan trái tràn đầy nước mắt: "Thằng Cu Tí và Thằng Cu Tèo" và nếu quy vị nào chưa đọc, thì xin hãy mở Google.com sẽ thấy đế tài này thuật lại 2 vị cao niên về thăm VN để hưởng tuần lễ trăng thanh gió mát quê nhà, sau nhiều năm phải rời bỏ quê hương để sống tha hương ngàn trùng xa cách nơi đất khách quê người đi tìm sự tự do. Nay mới có dịp được quay trở về thăm quê cha đất tổ, đồng thời còn được thưởng thức những món ăn đặc sản quê hương
Tôi lắng nghe, ngạc nhiên nhiều hơn thương cảm. Một người như Tầm mà bị lường gạt về lãnh vực 'xương máu' của mình. Tôi có thể hiểu và cảm thông an ủi trong mọi hoàn cảnh đau buồn, thất vọng của người thân chung quanh. Nhưng tôi lại rất vụng về khi phải đề cập đến mọi giao cảm đối với những con số. Tôi không có duyên phận và chung đường với nó. Nên tôi chỉ biết yên lặng, chờ đợi.
Lúc xưa thật xưa, người Việt Nam ta có tục lệ bầy cỗ Trung Thu vào dịp tết trăng tròn tháng 8 âm lịch. Cỗ này thường để dành cho trẻ con, vừa vui Trung Thu, vừa ăn bánh vừa ngắm trăng tròn, sáng tỏ. Thường cỗ này gồm phần lớn là bánh Trung Thu, bánh dẻo bánh nướng và rất nhiều thứ trái cây, trái cây chánh là bưởi, bưởi hồng đào ngọt và tròn xoay như một vầng trăng. Ăn bưởi xong, có thể sâu hột trái bưởi, phơi khô đi sem sém, và có thể đốt hạt bưởi từng sâu như đốt nến, đèn cầy.
Tường Vi sinh ra lớn lên từ miền “quê hương em nghèo lắm ai ơi, mùa đông thiếu áo hè thời thiếu cơm”. Trước 1975, ba Vi có chức vụ lớn trong quân đội, làm việc tại Đà Nẵng cuối tuần mới ra Huế. Gia đình Vi ở bên kia bờ Sông Hương nằm trên đường Nguyễn Công Trứ, khu nhà vườn rộng mênh mông có bến sông sau, trước ngõ trồng hàng loạt hoa Tường Vi. Mẹ rất thích loại hoa này, nên đặt tên Vi giống loài hoa. Vi có bốn chị em gồm hai em trai (Vinh, Lộc) và gái út (Tường Như), Vi là chị đầu đàng. Năm 13 tuổi vì thi rớt nên phải học trường tư thục Bồ Đề đến năm lớp tám, ba Vi từ Đà Nẵng dẫn theo người thanh niên về Huế giới thiệu tên Sơn, ra Huế học đại học luật khoa, sẽ dạy kèm chị em, làm gia sư ăn ở trong nhà luôn. Vì tò mò hỏi mạ


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.