Hôm nay,  

Tình Già

19/07/202009:58:00(Xem: 4871)

Từ cửa sổ trên lầu, nhìn chuyến xe lửa chạy chầm chậm trong màn mưa xám đục, không thể nào bà Loan không nhớ lại hình ảnh của Khiết – người yêu đầu đời của bà khi bà còn là một nữ sinh trung học – đang chồm người, một tay vịn vào thành cửa sổ của toa xe, một tay vẫy vẫy về phía Loan trong khi con tàu đang từ từ lăn bánh, rời ga xe lửa Dalat. Vừa nhìn theo Khiết, Loan vừa đưa ngón tay quẹt nước mắt, cố nén vào lòng nhiều nỗi nhớ thương. 


Một mình trở lại con đường vắng, Loan cảm nhận được nỗi buồn và sự lạc lõng của nàng trong thành phố đầy vết chân kỷ niệm của “hai đứa”. Loan nhớ, những chiều cuối tuần nàng thường lén Bố Mẹ, hẹn hò với Khiết. Những lúc đi chầm chậm bên nhau dưới hàng thông rợp bóng, Khiết – trong quân phục sinh viên sĩ quan trường Võ Bị Quốc Gia Dalat – thường nói về niềm say mê tha thiết của chàng đối với những cánh dù lộng gió trong không gian tràn ngập lửa đạn. 


Qua bao nhiêu thăng trầm của cuộc sống, tình cảm của Loan dành cho Khiết khi vui, khi buồn; nhưng hình ảnh của Khiết – khi chàng bất ngờ trở lại Dalat thăm nàng sau cuộc hành quân đầu đời tại biên giới Lào Việt – trên thềm nhà của Bố Mẹ vào buổi chiều mưa thì không bao giờ nhạt phai.


Chiều mưa năm đó, sau khi đi học về, nhìn từng giọt mưa đầu mùa rơi nhè nhẹ bên mái hiên, Loan cảm thấy ray rức buồn và bâng khuâng nghĩ đến Khiết! Để xoa dịu niềm nhớ, Loan đàn những tình khúc chợt đến trong hồn chứ không nhìn bản nhạc. Khi đàn đến phân đoạn thứ hai của tình khúc Thương Nhau Ngày Mưa của Nguyễn Trung Cang thì hình ảnh buổi chiều tiễn Khiết tại ga xe lửa Dalat lại hiện về. Loan buồn buồn “ngân nga” nho nhỏ:


“… Như mưa ngày nào thấm ướt vai anh,

Như mưa ngày nào khuất lấp sao đêm. 

Thương em ngày nào khóc ướt môi mềm…” 


Loan vừa “ngân nga” đến đây, cậu em đến cạnh, nói nhỏ:


-Chị Hai! Có “ông Nhảy Dù” nào đứng nơi hiên nhà kìa!


Nhìn ra cửa trước, Loan ngạc nhiên thấy một “ông Nhảy Dù” trong quân phục hoa rừng, “bê-rê” đỏ, đội hơi nghiêng, giày trận, đang khoanh tay, đứng dưới mưa, mỉm cười, nhìn nàng không rời. Khi nhận ra Loan đã thấy chàng, Khiết cười thật tươi, lấy “bê-rê” xuống, rủ nước mưa rồi bước vào phòng khách. Loan ngưng đàn. Sau vài câu thăm hỏi, Khiết bảo:


- Để anh vào trong chào hai Bác. Anh trở ra ngay.


Khi Khiết trở lên phòng khách, thấy tóc và quân phục của Khiết còn điểm nhiều vết nước mưa, Loan đưa tay muốn gạc những hạc mưa còn vướng trên tóc chàng – như dạo nào nàng đã gạc những hạc mưa long lanh trên mái tóc chàng khi tiễn chàng đi Saigon trình diện Sư Đoàn Nhảy Dù – nhưng vội ngưng; vì ngại Bố Mẹ thấy được. Như nhận hiểu hành động của Loan, Khiết nhìn Loan, cười thật tươi. 


Trong đời, Loan quên rất nhiều điều; nhưng chưa bao giờ Loan có thể quên được hình ảnh hiên ngang và nụ cười rạng rỡ của Khiết vào buổi chiều mưa năm xưa, khi chàng đứng trên thềm nhà nhìn nàng đàn ... 


Đang xót xa, nuối tiếc một đời trai ngang dọc của Khiết và đời sống nhàn nhã của một thiếu nữ được Bố Mẹ cưng chiều, bà Loan thấy chiếc SUV quen thuộc dừng trước nhà. Lòng rộn ràng vui, bà Loan bước đến cầu thang. Chợt nhớ quên đeo “mask”, bà Loan vội quay lại phòng “computer”, lấy “mask” đeo vào, đi xuống lầu. 


Thấy Dũng và Diễm – con trai và con gái của Bà và ông Khiết – cùng hai đứa cháu nội đều đeo masks, bà Loan đùa bằng tiếng Việt:


-Đâu, hai “cục vàng” của bà Nội đâu?


Thật bất ngờ, Mylene – cháu nội đầu tiên của bà Loan và ông Khiết – vừa choàng tay qua vai cô em gái vừa đáp:


-Right here, “ba Noi”!


Bà Loan ngạc nhiên nhìn Mylene, hỏi bằng tiếng Anh:


-Làm thế nào cháu hiểu được bà Nội nói gì mà cháu trả lời?


Mylene phải đáp bằng tiếng Anh:


-Trước khi dịch Covid-19 xảy ra, Ba Má cháu cho chị em cháu đi học tiếng Việt mỗi sáng chủ nhật. “Ba Nọi” quên rồi sao?


-Sorry, bà Nội không nhớ được! Nhưng làm thế nào cháu hiểu được “hai cục vàng” của bà Nội là chị em của cháu?


-Cháu biết mà. Đối với người Việt, cái gì mình thích, mình thương, mình quý cũng được ví như vàng như ngọc. Và cháu hiểu rằng “ba Nọi” thương tụi cháu nhiều lắm!


Mọi người cười rộ lên.


Đang cười, bất ngờ thấy ông Khiết – với thân người thẳng băng như người máy –mở cửa phòng ngủ, lừng lững bước ra, nụ cười tắt vội trên môi mọi người. Dù biết ông Khiết sẽ không hiểu được lời chào hỏi, các con, cháu vẫn thưa: 


-Dạ, chào Ba.


-Dạ, thưa Ba.


-Hi, “on Noi”!


-Hello, “on Noi”!


Ông Khiết vẫn lầm lỳ bước đến xa-lông, không nói một lời và trên khuôn mặt nhăn nheo của ông cũng không gợn tý cảm xúc nào cả! Ông ngồi vào xa-lông, nhìn mọi người với ánh mắt vô hồn. Dũng hỏi bà Loan:


-Măng! Ba Măng có gì lạ không?


-Thôi, con! Tuổi này rồi, chỉ xin “một ngày như mọi ngày” thôi!


Dũng đến ngồi cạnh ông Khiết:


-Ba khỏe không? Con đem hai đứa nhỏ về thăm Ba đó. 


Ông Khiết gật đầu, tỏ dấu nhận hiểu. Thấy hai đứa cháu nội kín đáo nhăn mũi vì mùi hôi nồng nặc từ phòng ngủ xông ra, bà Loan nói nhỏ với Diễm:


-Cảm ơn các con đã đem hai cháu về thăm và đi chợ mua thức ăn cho Ba Măng. Con đem giùm mọi thứ xuống bếp cho Măng rồi các con về nghỉ. Tuần sau con đi chợ cho Măng, đừng mua xà-lách-xon nữa. Măng không thể đứng lâu để lặt từng cọng như hồi trước. 


-Con nói Măng hoài mà Măng không chịu nghe. “Watercress” Măng không cần lặt từng cọng; Măng chỉ cần cắt ngang phía dưới gốc rồi rửa sạch là được. 


-Nếu làm theo cách của con, nhỡ con sâu hay con giun nằm trong lòng cọng rau làm sao Măng có thể thấy được?


-Măng ở sạch quá mà Măng cứ muốn con cháu học về y khoa. Hồi trước tụi con học đại học thì bệnh HIV – human immunodeficiency virus – hoành hành; bây giờ hai đứa nhỏ học đại học thì Covid-19 giết cả trên trăm ngàn người tại Mỹ. Nếu tụi con và hai cháu là MD thì Măng có yên lòng hay không?


-Thôi, con! Ngày đó còn ước mơ; bây giờ, nếu có ước mơ thì Măng chỉ cầu xin ơn Trên cho các con và các cháu được bình an thôi; còn “ông Già” – danh từ thân thương gia đình thường dành cho ông Khiết – và Măng chỉ biết trực diện và chống chọi với tuổi già chứ còn gì nữa mà ước mơ! 


Ngưng một chốc, bà Loan tiếp:


-A, tuần tới con nhớ mua cho Măng xà phòng rửa chén, chai nhỏ thôi; mua chai lớn, tay Măng yếu, cầm không nổi, rớt, đổ “tùm lum” Măng dọn không nổi!


-Măng vẫn rửa chén bằng tay à? Cứ như vậy rồi than đau tay, đau lưng.


-Bác sĩ Gronados bảo Măng “keep moving” mà! Thêm nữa, rửa chén bằng máy thì Măng cũng phải trán qua cho thức ăn trôi đi rồi mới cho vào máy. Máy chạy thì tốn nhiều điện, nhiều nước!


-Người ta mong có phương tiện để xử dụng; còn Măng thì cứ tiện tặn từng xu, để làm gì?


-Để khỏi phiền các con. Các con lo cho “ông Già” và Măng nhiều rồi, Măng không muốn làm phiền các con thêm.


Im lặng. Diễm chuyển đề tài:


-Người lau dọn nhà tháng này đến chưa mà nhà hôi quá vậy, Măng?


-Măng nhận thấy, trước khi họ đến Măng cũng phải dọn dẹp sơ sơ; vì “ông Già” cứ vung vãi, vất mọi thứ ra đó. Mỗi lần dọn dẹp, lưng và hai đầu gối của Măng đau lắm, Măng chịu không được! Măng nói họ khi nào Măng cần thì Măng gọi chứ đừng đến mỗi tháng.


-Thì Măng đừng dọn dẹp gì cả; cứ để họ làm.


-Họ chỉ lau chùi thôi; còn “ông Già” ăn, uống cái gì mà Măng không để ý thì ổng đem giấu trong tủ quần áo; có khi ổng “bỏ đại” vô nhà cầu, hoặc trây quẹt đầy thảm, Măng dọn không nổi!


-Con nghĩ đã tới lúc chị em con góp tiền, thuê người đến giúp Măng. Măng nghĩ sao?


-Măng rất lo sợ, ngại họ biết trong nhà chỉ có một ông già “không biết gì hết” và một bà già “trói gà không chặt” thì họ sẽ cho người khác biết rồi người đó đến đây cướp!


-Tụi con đã nghĩ đến điều đó và đã đề nghị Ba Măng nên vào Senior Living…


Diễm chưa dứt câu, bà Loan đã lắc đầu:


-Các con đã đưa Măng đi xem mấy chỗ rồi; chỗ nào cũng đẹp, đầy đủ tiện nghi, nhưng… kinh khủng quá!


-Cái gì kinh khủng? 


-Sự vắng lặng! Vắng lặng đến… rợn người!


-Biết bao nhiêu người sống và chấp nhận sự vắng lặng đó chứ đâu phải một mình Măng.


-“Ông Già” và Măng ở đây, trên đường đi làm về, các con và các em thuận đường, đôi khi ghé thăm. Nếu Ba Măng dời đến mấy chỗ Senior Living thì trái đường, biết mỗi năm Ba Măng có thể gặp các con được một lần hay không! Thêm nữa, chỉ có Măng mới có thể vào Senior Living; còn “ông Già” thì phải vào Assisted Living; mà Măng thì không bao giờ có thể để “ông Già” vô viện dưỡng lão – nhất là trong thời gian Tàu dịch này!


Diễm gắt:


-Măng không thể khẳng định như vậy được! Đến một lúc nào đó, vì sự sống còn, mình buộc phải hy sinh nhiều thứ lắm. Măng biết không? 


Bà Loan thầm “phục” những người “thông minh!”, làm nghề tự do, khai gian thuế lợi tức, giấu tiền mặt. Khi về già những người này – không những được hưởng đầy đủ phúc lộc của chính phủ như housing, food stamps, Medicaid – còn được chính phủ cho người đến nhà mỗi tuần bao nhiêu giờ để giúp việc nhà, đưa đi bác sĩ, đi chợ, tắm cho người nào không thể tự tắm được, v.v… Trong khi đó, những người khai đúng thuế lợi tức, như ông Khiết và Bà, thì không được tý ân sũng nào của chính phủ mà còn phải mua bảo hiểm sức khỏe riêng; vì có nhiều khoảng chi phí y tế Medicare không chịu trả!


Thấy Mẹ có vẻ tư lự, Dũng đến bên, khuyên:


-Măng đừng quá lo lắng, okay! Nhà Măng đã có hệ thống báo động – được nối kết trực tiếp với phòng kiểm soát an ninh của khu vực này – tuần tới con sẽ kêu người gắn “video camera” nữa thì không tên nào dại vô nhà Măng ăn cướp đâu.


-Cảm ơn con.


-Măng nhớ cẩn thận, vịn vào thành cầu thang mỗi khi Măng đi lên hoặc đi xuống lầu, nha! 


-Ờ, cảm ơn con. Đi xuống thì không sao; nhưng đi lên là cả một vấn đề! 


-Hôm nào tụi con sẽ dời phòng “computer” xuống tầng dưới cho Măng.


Diễm hỏi:


-Từ ngày Gym đóng cửa vì Covid-19, Măng còn đi bộ quanh khu vực này không?


-Khi “ông Già” ngủ Măng mới dám đi; vì Măng không thể để “ông Già” ở nhà một mình. 


-Ủa, vậy thì làm thế nào trước khi Covid-19 xuất hiện, Măng đi Gym mỗi ngày một tiếng đồng hồ?


-Lúc đó “ông Già” không tệ như bây giờ. 


Dũng hỏi:


-Tình trạng của “ông Già” xuống nhanh đến vậy à?


Im lặng. Bà Loan rơm rớm nước mắt; một chốc sau mới đáp:


-Xương sống và não bộ của “ông Già” bị tổn thương rất nặng. Các Chú, Bác ở tù cùng trại cải tạo với “ông Già” cho Măng biết là “ông Già” bị cộng sản Việt Nam (csVN) đánh kinh khủng lắm; vì ổng là sĩ quan Nhảy Dù mà ổng lại khai thật tất cả những lần đơn vị do ổng chỉ huy giải tỏa căn cứ này, tái chiếm chiến địa kia, tiếp cứu tiền đồn nọ, v.v... cho nên csVN trả thù! Bác sĩ Gronados khuyên, thương tích thời chiến tranh cộng với tuổi tác của “ông Già” thì – ngoại trừ trường hợp khẩn cấp – bệnh gì “ông Già” có thể “live with it” thì nên “live with it”; đừng giải phẫu. 


Diễm an ủi:


-Thôi, ít ra “ông Già” cũng còn đi được; không nằm một chỗ!


Dũng thở dài:


-Chuyện của “ông Già”, mình không làm gì được nữa rồi! Còn Măng, khoang đi Gym nhưng cố gắng đi bộ, nha!


-Không đi Gym mà nếu không đi bộ nữa thì cơ thể của Măng như không còn sức sống. Lưng cứ muốn “cụp” xuống!


Diễm bảo:


-Măng còn đi được là may lắm rồi! Biết bao nhiêu người cỡ tuổi Măng hoặc trẻ hơn mà phải chống gậy để đi kìa!


Bà Loan cúi mặt, nước mắt chảy ngược vào tim! Nếu sống mà cứ buộc phải thấy, phải so sánh với những điều tiêu cực thì cuộc sống này còn có ý nghĩa gì nữa hay không?


Trước khi cáo từ ông Khiết và bà Loan, Dũng và Diễm hâm nóng hai tô mì rồi mời  ông bà xuống bếp, ngồi vào bàn. Sau khi để hai ly nước lọc lên bàn, cạnh gói xôi đậu xanh và quà ăn vặt, Dũng, Diễm và hai cháu từ giã ông Khiết và bà Loan.


Vì ông Khiết không thể nhớ hoặc nhận biết lúc nào nên nhai, lúc nào nên nuốt, lúc nào nên ngưng, bà Loan phải lấy kéo cắt mì sợi và hoành thánh thành từng phần nhỏ để ông Khiết không bị nghẹn. Ông Khiết chỉ gói xôi đậu xanh trong bao ny- lông nhỏ, tỏ ý muốn ăn. Bà Loan đẩy bao ny-lông nhỏ về phía chồng. Ông Khiết lấy gói xôi, vất bao ny-lông trên sàng gạch hoa rồi mở gói xôi, lấy tay bốc, ăn. Bà Loan vội lấy gói xôi từ tay ông Khiết, đem đến bên bếp, lấy dao và nĩa xắn gói xôi ra từng phần nhỏ rồi đưa lại cho ông Khiết, kèm theo cái nĩa. Ông Khiết vất cái nĩa xuống sàng nhà!


Đang ăn, bà Loan nhận ra mùi nồng nồng của nước tiểu. Nhìn sang ghế của ông Khiết, bà Loan ngán ngẫm, buông đũa. Thì ra từ nãy giờ ham vui vì con cháu về thăm, bà Loan quên theo dõi đồng hồ để đưa ông Khiết vào nhà tắm đi tiểu! Bà Loan giận, xẳng giọng:


-Đi vô thay đồ!


Ông Khiết ngơ ngác nhìn quanh, không biết “đi vô” là đi vô đâu! Bà Loan im lặng, đứng lên, nắm tay ông Khiết, dẫn ông vô phòng ngủ trong khi ông Khiết vừa đi vừa quay lui nhìn gói xôi.


Lấy tấm ny-lông phủ lên tấm khăn trải giường, xong, bà Loan kéo tay ông Khiết đến, “ấn” nhẹ thân người của ông lên tấm ny-lông. Lúc này bà Loan mới nhớ là bà đã quên lấy tả cho ông. Bà Loan xoay sang, mở ngăn tủ, lấy tấm tả rồi xoay lại bên giường. Vừa thấy tấm tả, ông Khiết có vẻ hoảng hốt, khoát tay:


-Không! Đừng! Đừng! “Hỏng” chịu đâu!


Đây không phải là lần đầu tiên ông Khiết phản đối khi phải mang tả. Nhưng đây là lần đầu tiên bà Loan nghe chồng nói một câu thể hiện được tất cả nỗi sợ hãi của ông. Bà Loan vào nhà tắm, lấy chiếc khăn nhỏ, thấm nước lạnh, trở ra giường. Không hiểu tại sao thấy chiếc khăn ướt, ông Khiết lại yên lặng, không chống cự nữa. Nhờ ông Khiết không chống cự, bà Loan nhẹ nhàng đè ngửa ông ra, cởi chiếc quần khai nồng vất về hướng nhà tắm rồi lấy chiếc khăn ướt lau phần hạ bộ cho ông. Trong khi bà Loan cảm thấy lưng và tay chân của bà như muốn rả ra từng mảnh thì gương mặt của ông Khiết trông rất dễ chịu. Ông Khiết nhìn bà Loan với ánh mắt biết ơn khi bà Loan lấy phấn bột – loại dùng cho trẻ con – rảy vào phần hạ bộ của ông. Nhưng khi bà Loan vói tay lấy tấm tả thì ông Khiết lại vùng vằng: 


-Đừng! Đừng mà! “Hỏng” chịu đâu! 


Bà Loan biết, trời nóng như thế này mà “đóng” tấm tả dày cộm vào bộ phận “nhạy cảm” nhất của con người thì làm sao chịu cho nỗi; đó là chưa kể, nhỡ ông Khiết đi tiêu, đi tiểu trong tả mà bà Loan không biết để thay thì… bà Loan rùng mình, không dám nghĩ tiếp! Dù hiểu cho sự khó khăn, tội nghiệp của chồng, bà Loan cũng phải dùng toàn sức lực của Bà để mang cho được tấm tả vào cho ông Khiết. Có lẽ chẳng còn sức để chống chọi với bà Loan nữa, ông Khiết nằm im, lầm bầm “Đừng mà! Đừng mà”! Bà Loan biết thế nào ông Khiết cũng – như mọi lần – tìm mọi cách cởi tấm tả, vất đâu đó; bà sẽ phải lần theo mùi hôi của tấm tả mà tìm cho ra, đem bỏ rác!


Vì muộn phiền, bà Loan bị bệnh mất ngủ; mỗi đêm phải uống thuốc ngủ. Nếu bà Loan dùng đúng liều lượng, ngủ được ngon giất thì sáng hôm sau bà phải tắm cho ông Khiết, thay và giặt toàn bộ khăn trải giường và mở tất cả cửa sổ để mùi hôi thối thoát ra ngoài; vì suốt đêm không ai thay tả hoặc đưa ông Khiết vào nhà cầu! Nhưng nếu uống thuốc ngủ ít hơn liều lượng thì bà Loan cứ nằm trăn trở suốt đêm  bên cạnh một người bà từng yêu thương – người hùng của Hà – nhưng nay đã trở thành “gánh nặng” mà Bà không nỡ lìa xa! Khi nào tâm hồn “lạc” về dĩ vãng, bà Loan cũng tiếc thương, khóc thầm, cầu nguyện rồi quay sang, vòng tay qua vùng ngực thoi thóp của người chồng đang miên mang trong giấc cô miên vì đòn thù của csVN – quân cướp nước mà lại núp dưới chiêu bài “giải phóng”!


Sự tủi thân vừa lắng dịu, bà Loan thở dài, đỡ ông Khiết dậy:


-Đi ra ăn cho hết gói xôi.


Ông Khiết im lặng vịn tay bà Loan, ngồi dậy, đi theo vợ. Đến bàn ăn nơi bếp, sau khi để ông Khiết ngồi vào chiếc ghế sạch, bà Loan xoay sang phòng giặt đồ, với dụng ý lấy khăn lau nước tiểu mà lúc nãy ông Khiết đã thải ra. Vừa xoay người, chân của bà Loan vướng vào bao ny-lông – mà lúc nãy ông Khiết vô tình vất trên sàn nhà – bà Loan trượt chân, té, đầu va vào nền gạch hoa…


******


Thiếu phụ da đen đẩy chiếc xe lăn – ông Khiết ngồi bên trong – theo gia đình, qua khỏi cửa chính phòng khánh tiết của Sugar Land Assisted Living rồi dừng lại. Bà Loan nhanh tay mở ví, lấy mấy tờ một đồng, nhét vội vào tay người đẩy xe lăn, nói nhỏ:


-Làm ơn chăm sóc giùm chồng tôi. Tôi sẽ vào đây mỗi ngày phụ với cô.


Người đẩy xe lăn lắc đầu, trả lại tiền:


- Tôi sẽ chăm sóc ông Nguyễn. Bà đừng lo. Nhưng ở đây cấm nhân viên nhận bất cứ món quà nào; nếu nhận quà, nhân viên đó sẽ bị đuổi việc.


Bà Loan thở dài, bước theo gia đình. Ông Khiết nhìn bà Loan và con cháu bước lên hai chiếc SUV với nét mặt rất điềm nhiên! Nhưng, khi hai chiếc SUV nổ máy, từ từ rời bãi đậu xe, bà Loan nhìn vào kính chiếu hậu bên phải, thấy ông Khiết gục xuống, hai tay ôm mặt! Bà Loan hấp tấp nói với Dũng:


-Dũng! Con chờ Măng chút!


Mọi người trên xe không hiểu chuyện gì xảy ra. Bà Loan vội mở cửa xe, bước xuống, đi nhanh đến bên ông Khiết. Ông Khiết đưa bàn tay run rẩy ra phía trước như muốn tìm kiếm một vật thể thân thương nào đó. Bà Loan nắm tay chồng, nghiêng một bên má lên mái tóc thưa và trắng ngần của chồng rồi khóc! Diễm đến cạnh:


-Măng! “Be strong”! Măng nên nghĩ đến cuộc đời của Măng nữa chứ! Hôm Măng bị té, vào ER – Emergency Room  chính Măng đã nghe bác sĩ khuyên rằng Măng không nên chăm sóc cho ai khác, ngoài việc chăm sóc cho chính Măng. Măng nhớ không?


-Biết rồi! Nhưng tội “ông Già” quá, con ơi!


-Ai cũng biết là tội “ông Già”! Nhưng cái “tội” này là hậu quả của những cuộc tra tấn dã man do csVN hành xử tàn độc đối với tù nhân trong các trại cải tạo chứ không phải do ai khác tạo nên. Người nào muốn “hòa hợp hòa giải”, không nghĩ đến chính trị, quên đi quá khứ và tội ác của csVN thì đó là quyền của người đó; đừng kêu gọi hoặc cổ xúy người khác! Chỉ khi nào trong gia đình người đó có người từng là nạn nhân trực tiếp của csVN thì người đó mới biết thế nào là uất hận!


Biết Diễm cũng đang bị xúc động mạnh trong tình cảnh này, bà Loan năn nỉ:


-Thôi, con! Ai nói gì, làm gì, kệ người ta…


Bà Loan chưa dứt câu, tiếng người đẩy xe lăn vang lên:


-Rất tiếc, đến giờ cơm chiều, tôi phải đưa ông Nguyễn vào phòng ăn. Bye!


Bà Loan, các con cùng dâu và rể đứng lặng, nhìn theo chiếc xe lăn trong khi ông Khiết cố quay lui, nhìn hình dáng những người thân yêu đang xa dần, xa  dần…


Trở lại chiếc SUV, vừa mở cửa, bà Loan nghe dòng nhạc êm ái, thiết tha từ iPhone của Mylene. Xe rời chỗ đậu được một đoạn ngắn, bà Loan mới nhận ra đây là tình khúc mà – buổi chiều trước ngày đi trình diện “bên thắng cuộc” – ông Khiết đã ôm Guitar, vừa “từng tưng” vừa hát nho nhỏ khi “hai đứa” ngồi bên nhau nơi sân sau:


“Memories light the corners of my mind
Misty water-colored memories of the way we were
Scattered pictures of the smiles we left behind
Smiles we gave to one another for the way we were…” 

Chiều nay, theo giọng Soprano mượt mà của Barbra Streisand và lời ca ướt lệ trong tình khúc The Way We Were của Barbra Streisand, bà Loan bùi ngùi tưởng như thấy lại được hình dáng đáng yêu của ông Khiết vào buổi chiều xưa – khi “ông Nhảy Dù” đứng dưới mưa, khoanh tay, mỉm cười, nhìn Loan đàn – đang chờn vờn  trong bóng hoàng hôn chập chùng!…

ĐIỆP MỸ LINH

https://www.diepmylinh.com/

 


Top of Form

 

Ý kiến bạn đọc
20/07/202022:31:06
Khách
Xin vui lòng xem lại các lỗi chính tả !!!!
20/07/202019:22:23
Khách
" HẠT mưa " chứ không phải " HẠC mưa " , OK ?
Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Chị nhớ lại, vào một buổi sáng ngày cuối tháng 1 năm 1973, khi Chị đi lấy bản tin ở bên Macv về cho AP, chị thấy sao hôm nay văn phòng đông thế. Ký giả của AP và cả của NBC News bên cạnh cũng chạy qua chạy lại, Chị nghe ông chánh văn phòng nói: Viêt Nam sắp ngưng bắn rồi, sắp hòa bình rồi…” Văn phòng Associated Press xôn xao, từ ông chánh văn phòng đến các ký giả, nhân viên của AP đều hứng khởi với cái tin “Nóng bỏng” này. Chị thấy các phóng viên của các hãng thông tấn, hãng truyền hình ngoại quốc chạy hối hả sang nhau và chạy qua cả đài phát thanh Quân Đội Việt Nam để cập nhật tin tức viết bài…
Chị đi bằng xe hàng. Là dân Đà Lạt gốc Huế nên chị gọi xe đò là “xe hàng”. Đi xe hàng, tức là xe đò, là xe chở người và cả hàng chứ không chở riêng hàng. Tiếng Việt hay như vậy đó! Đến Gò Công rồi đi xe lam vào Đồng Nguơn. Ấp Đồng Nguơn. Không phải đây là lần đầu tiên chị được thấy cảnh đồng quê. Đồng quê miền nam hầu như đâu đâu cũng giống nhau. Nhưng có đi nhiều mới thấy mỗi nơi có một chút khác. Phải thế không? Hay chính là cảm giác của chị mỗi lần một khác?
Tôi ước mơ có một ngày nào đó, khi thanh bình thật sự trở về trên nước VN, khi chính thể CS hoàn toàn tan rã, khi con người công chính trở lại làm nền tảng trong xã hội mới, chúng ta sẽ trở về, những ngưới bạn từ thời xa xưa, cùng nhau làm lại một bữa tiệc Tất Niên, mời vong linh các thầy, các bạn, các anh em đồng đội đã chết trong khói lửa chinh chiến, trong các biến cố tang thương của đất nước, trong các trại tù, trên biển…cùng nhập tiệc. Kẻ đang sống cùng người thiên cổ bên cạnh nhau hoài niệm đến một miền thùy dương ngọt ngào nhân tính, một ngôi trường thân yêu giàu truyền thống giáo dục và y đức, một thành phố mến yêu thơ mộng. Để nghe những người quá cố tâm sự về cái chết oan khiên của mình. Được như vậy, hương hồn các vị đó sẽ sớm được siêu thoát và vĩnh viễn an nghỉ chốn nghìn thu. Và chúng ta đây giảm khắc khoải đau thương…
Tôi đã có bốn cái Tết trong trại Panatnikhom và Sikiew, Thailand. Tết đầu tiên thật nhiều kỷ niệm và bất ngờ, vì lúc đó chúng tôi vừa nhập trại trong khi còn hơn một tuần nữa là Tết. Tôi và ba cô bạn đi chung chưa kịp gửi thư cho thân nhân ở nước ngoài để ca bài ca “xin tiền”. Ai lo bận bịu đón Tết thì lo, còn chúng tôi thì lo đi mượn tiền để mua vài vật dụng cần thiết như tấm trải nhựa, tre nứa, dây nilon để làm “nhà” (phải “an cư” mới “lập nghiệp” tỵ nạn được chớ).Khoảng một tuần trước Tết, có một nhóm mấy thanh niên đến thăm vì nghe nói chúng tôi là dân Gò Vấp, nên muốn nhận “đồng hương đồng khói”. Họ là những người trẻ như chúng tôi, nên câu chuyện mau chóng trở nên thân mật và rôm rả
Hỏi thăm ông Hai bán hoa lay-ơn gốc Bình Kiến, nhiều người ngơ ngác hỏi nhau. Tôi lại rảo qua thêm mấy vòng chợ hoa, cũng vừa đi tìm ông Hai, cũng vừa ngắm hoa và ngắm những chậu bonsai bày bán cuối năm, cũng tìm lại mình của gần 20 năm trước, năm nào cũng cứ vào những ngày này, tôi theo ba tôi hóng gió đón sương không hề chợp mắt cùng gian hàng cây kiểng rất bề thế của ba ở đây.
Có lẽ những rộn ràng, hân hoan nhất trong năm không phải là "ba ngày tết", mà là những ngày cận tết. Bắt đầu vào ngày 23 tháng chạp, tối đưa ông Táo về trời. Tất cả mọi sinh hoạt đều hướng về việc chuẩn bị để đón một mùa xuân mới, chào đón nguyên đán và mấy ngày xuân trước mặt. Lúc nhỏ là mùi vải thơm của bộ đồ mới, mùi gạo nếp ngâm cho nồi bánh và hương thơm ngào ngạt cho sàng phơi mứt dừa, mứt bí, mứt gừng ngoài sân. Những đêm ngủ gà ngủ gật ngồi canh bên nồi bánh tét cùng với má, với gia đình xúm quanh. Mùi bếp lửa, mùi khói hương, mùi áo mới lan tỏa của tuổi thơ ngan ngát những ngày xa...
Người ta được nuôi lớn không chỉ bằng thức ăn, mà còn ở lời ru, tiếng hát, và những câu chuyện kể. Chú bé cháu của bà thích được bà ôm vác, gối đầu lên vai bà. Có khi bà mở nhạc từ chiếc nôi cho chú nghe thay cho lời hát, chiếc nôi chú bé đã nằm khi mới lọt lòng mẹ. Có khi bà hát. Bà không ru à ơi, nhưng âm điệu dân gian len vào trong từng lời hát. Chú bé mãi rồi ghiền nghe giọng hát của bà.
Lóng rày tôi hay tẩn mẩn viết về những hồi tưởng tuổi thơ, nhất là những côn trùng ngày xa xưa đó như chuồn chuồn, bươm bướm, ve sầu, dế mèn…Nhiều lúc ngồi nghĩ lẩn thẩn: tại sao vậy? Chắc đó là tâm trạng của người tuổi sắp hết đếm số, tiếc nuối những khi còn cắp sách tới trường. Cắp sách tới trường không phải là chuyện vui nhưng tuổi học trò thì vui thật. Lúc nào, khi nào, chỗ nào cũng toàn thấy chuyện vui chơi. Bạn chơi là người nhưng nhiều lúc là những côn trùng quanh quẩn bên người. Một ông bạn mới gặp nhướng mắt hỏi tôi viết về những bạn chơi nhiều hơn hai chân nhưng chưa thấy nhắc tới bạn của ông ấy. Đó là bọ ngựa. Ông này thuộc loại rắn mắt. Tôi không chung tuổi thơ với ông nhưng chắc ông cũng thuộc loại phá làng phá xóm. Ông kể chuyện ăn me chua trước mấy ông lính thổi kèn trong hàng ngũ khiến mấy ông thợ kèn này chảy nước miếng thổi không được. Tôi thuộc loại hiền nên không có bạn không hiền như bọ ngựa. Ông ta thì khoái bọ ngựa.
“Mày có vợ hồi nào vậy?” chưa kịp chào, mẹ đã ném ra câu hỏi bất ngờ. Tôi lặng thinh. Cục nghẹn trong cổ họng. Tiếng mẹ đã khàn nhưng nghe vẫn quen, vẫn gần gũi, nhưng đặm chút ngạc nhiên và thấp thoáng chút phiền muộn. Hệt như lần hỏi tôi mười mấy năm trước rằng Sao con trốn học. Đường dây điện thoại chợt kêu ù ù, như thể có máy bay hay xe vận tải cơ giới hạng nặng chạy qua chỗ mẹ đứng. Cũng có thể tại tai tôi ù. Tôi cũng không chắc lắm. Giọng nói mẹ chìm vào khối tạp âm hỗn độn. Mẹ lặp lại câu hỏi trong tiếng động cơ rì rầm. Rồi tất cả im vắng bất ngờ. “Hở con?” Mẹ nói.
Bê, con trai của Mẹ, đã theo Mẹ đến giảng đường từ thuở còn trong bụng Mẹ. Suốt thời gian đại học của Mẹ, Bê có nhiều đóng góp khác nhau theo từng thời kỳ. Khi Mẹ làm bài kiểm tra môn Đầu Tư và Tài Chính trong lục cá nguyệt đầu tiên, Bê mới ba tháng tuổi. Mẹ nhẩm tính, bài thi một tiếng rưỡi, đi về từ nhà đến trường thêm một tiếng rưỡi. Như vậy, Bê phải xa Mẹ ít nhất ba tiếng đồng hồ. Mẹ biết tính Bê, mỗi hai tiếng đồng hồ Bê oe oe đòi bú sữa Mẹ. Bê xấu đói lắm, đòi mà không được, Bê nhăn nhó um sùm. Ngày hôm đó, dì Thành đến giữ Bê. Dì Thành rất hồi hộp. Dì chưa có em bé, chẳng biết phải làm sao cho đúng ý Bê. Mẹ thi xong, phóng ra xe về nhà. Mẹ bắt đầu sốt ruột. Mẹ xa Bê đã hơn ba tiếng đồng hồ. Giờ này Bê chắc Bê đã thức giấc. Hy vọng Bê chịu khó nhâm nhi món trà thảo dược cho trẻ sơ sinh trong khi chờ Mẹ về. Thời đó chưa có điện thoại di động. Bởi vậy, có lo cũng để bụng, chứ Mẹ chẳng biết làm sao. Mẹ ba chân bốn cẳng chạy ba tầng lầu. Vừa đến cửa đã nghe tiếng Bê khóc ngằn ngặt.
Khi chơi những bản nhạc hay, Khang khóc theo giai điệu. Mước mắt chảy, tay kéo tình xuống lên, thân hình diệu dẻo theo cảm hứng. gần như mê cuồng, không biết mình là ai. Tôi cảm nhận được cái hay xuất thần nhưng không hiểu. Khang nói: -- “Cậu Út biết không, cái hay của âm nhạc làm cho lòng sung sướng nhưng cái đẹp của âm nhạc làm cho hồn cảm động. Khi món quà quá lớn, quá sức yêu, không thể cười, chỉ có thể khóc.” Tôi nghĩ, những lúc như vậy, Khang không chơi đàn, mà múa với hồn oan.
Tôi làm việc giữ xe cho một casino ở ngoại ô Toronto, gọi là parking attendant. Đó là nghề mà thanh niên ít chịu làm, phần vì lương thấp, mức tối thiểu, hồi đó 5 đồng một giờ, nhưng lý do chính là vì nó buồn. Bãi đậu xe nằm dưới hầm tối, không nhìn thấy người qua lại, nếu ở ngoài trời cũng sau lưng nhà cao tầng. Không ai làm chỗ đậu xe ở khung cảnh xinh đẹp, nơi ấy dành cho hàng quán. Đi học ban ngày, tôi làm thêm ban đêm là việc thích hợp, có thể thỉnh thoảng ngồi học bài. Nhân viên trong phiên gác trước tôi là cô gái bằng tuổi hoặc cùng lắm lớn hơn một hai tuổi, nhưng không hiểu sao cô vẫn có thói quen gọi tôi là em và xưng chị.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.