Hôm nay,  

19/12/202011:25:00(Xem: 4382)


 Đi làm về, giày chưa kịp tháo, túi ăn vứt ngoài sân, y khệ nệ bê thùng sách vào nhà rồi vội vàng mở bung ra. Những quyển sách xếp ngay ngắn trong thùng, mùi giấy mới thơm thơm, y lấy một quyển nâng niu tựa như người ta nâng hoa. Đoạn y hít hít mùi giấy và hôn lên bià sách. Y lật ngược lật xuôi, lật xem lướt qua bên trong rồi ôm lấy quyển sách như thể một báu vật của trần gian.   Đây chẳng phải là lần đầu y in sách, nhưng cái cảm giác hồi hộp, háo hức vẫn như thuở ban đầu.

Y còn đang sung sướng lâng lâng thì nghe tiếng vợ càm ràm:

- Vậy là chuẩn bị thêm tiền để gởi sách đi, sách vở chữ nghĩa vô tích sự, chỉ tổ tốn tiền, tốn thời gian mà chả được gì! Thi sĩ, văn sĩ là cái giống gì  hổng biết? người ta làm bác sĩ, dược sĩ, nha sĩ tiền ròng bạc chảy. Bạn bè đồng trang lứa có đứa vào hàng tướng sĩ, nghị sĩ gia thế lớn, quyền lực mạnh, vợ con sung sướng nở mặt nở mày. Ông thì lẹt đẹt hậu đậu với cái mớ chữ nghĩa văn chương ấm ớ, thà rằng làm quân sĩ còn có lương lậu, làm tu sĩ được cúng dường, thậm chí làm liệt sĩ cũng còn có tiền tử tuất.

Đằng này ông làm thi sĩ, thấy mà phát rầu! 

 Cơn hưng phấn của y tự nhiên tụt xuống, mặc dù từ lâu y không tranh cãi với đàn bà, nhất là với vợ. Chuyện nhà cửa tiền nong y để mặc cho vợ làm gì thì làm, tiền lương vợ quản lý, y chỉ mỗi đi cày, cày về rồi rị mọ viết. Nhiều lần vợ bảo dẹp ba cái chuyện văn chương chữ nghĩa đi, nhưng y chẳng thể nghe theo:

 - Em bảo gì cũng được, riêng việc này thì tôi không thể chìu em được, viết lách chẳng phải là công việc, càng không phải để kiếm tiền. Nó là sự đam mê, nó là cái nghiệp, đã là nghiệp thì muốn hay không muốn cũng không được. Con chim bay được là nhờ đôi cánh, con cá lội được là nhờ vây, anh sống được là nhờ chữ nghĩa, nếu bỏ chữ nghĩa đi thì đời này vô vị lắm! Em muốn làm gì cũng được nhưng đừng can thiệp cái thú vui này của anh! 

 Vợ y lầu bầu:

 - Bọn gái lầu xanh bán thân cho khách mua vui còn có tiền, mấy ông thi sĩ vắt sức vắt hồn ra viết làm vui cho thiên hạ, chẳng những chẳng có xu nào mà còn phải bỏ tiền túi in sách, gởi tặng thiên hạ. Đời sao có thú vui lạ lùng, đem cái vui đến cho thiên hạ mà mình laị hao tài tốn của? trong muôn người may ra có vài người kiếm được chút cháo từ những giải thưởng nọ kia.

Y bảo vợ:

 - Người ta viết không phải mong đợi giải thưởng, cái được của những kẻ viết, người ngoại đạo không thể hiểu được đâu! Tỷ như đàn bà mang thai, cái mệt nhọc khổ sở ấy đàn ông không sao cảm nhận nổi. Rồi khi sanh con ra, tình thương của người mẹ dành cho hài nhi đó lớn như thế nào bọn đàn ông cũng vô phương thấu hiểu! 

 Vợ quày quả bỏ đi xuống bếp lo bữa cơm chiều, y vẫn ngồi bên thùng sách mới, mân mê, ve vuốt những quyển sách. Đoạn y lật một trang sách mà không có chủ ý lựa chọn rồi đọc:”… Chữ nghĩa muôn đời vẫn ảo diệu lắm, nó có sức hút đầy ma lực, dính vào khó mà bỏ được. Có kẻ vì chữ nghĩa mà danh nổi như cồn, cũng có kẻ vì chữ nghĩa mà vướng họa. Người đẻ ra chữ nghĩa, chữ nghĩa vận vào người, đừng lấy làm chơi! Mà rõ ràng chữ nghĩa là một cuộc chơi, cuộc chơi nhọc nhằn nhưng nhiều hứng thú. Cuộc chơi này có kẻ thanh cao nhưng cũng có không ít kẻ làm ô uế chữ nghĩa, xấu cả người chơi. Những kẻ nhân cuộc chơi chữ nghĩa để xu phụ quyền thế, uốn gối khom lưng trước thế lực chính trị, viết lời xu nịnh để kiếm rượu thịt, hoặc giả đổi trắng thay đen, ngậm máu phun người, đánh phá kẻ sĩ để kiếm lộc từ chốn quan trường, đem thân dựa quan quyền hòng được chiếu cố…” y đọc say sưa mấy trang liền, còn đang sung sướng với những con chữ trên trang giấy, tâm tư như hoà vào những dòng chữ ấy thì giật mình nghe tiếng vợ.

 - Đi tắm rửa thay đồ để ăn cơm, đọc sách không làm no bụng được đâu! 

 Lần này thì y không phân bua  gì cả, gấp trang sách laị và lặng lẽ đi vào nhà tắm.

 Nửa đêm y mơ màng, những quyển sách lung ling chấp chới như muôn ngàn cánh bướm lớn và đầy màu sác. Những quyển sách lung linh vây quanh y, ánh sáng diệu kỳ từ những trang sách tỏa ra làm cho gương mặt y rạng rỡ. Y với tay toan chạm vào những quyển sách ấy, ngón tay vừa chạm vào thì lập tức luồng ánh sáng truyền thẳng vào người y, cả thân y sáng như điện, từng tế bào loé lên, nhấp nháy liên lỉ, những tế bào sanh diệt cứ sáng tắt thay nhau. Thân thể y ảo diệu như con sứa dưới ánh đèn phản quang ở thuỷ cung. Tâm thần y sảng khoái cực độ, y như hoàng tử lạc giữa vườn địa đàng, mặc dù đang ngủ nhưng y thoáng nụ cười hạnh phúc trên môi. Khi y với tay chạm vào hình ảnh những quyển sách lung linh và ánh sáng xuyên qua người y, cứ ngỡ như cảnh tượng ngón tay của chuá chạm ngón tay Adam để tạo linh hồn cho con người, cái phút giây ảo diệu siêu thực tràn đầy hoan hỷ. Y còn ngất ngây trong cơn mơ thì nghe tiếng thì thầm.

 - Cậu chủ đã thổi hồn vào những trang giấy, cậu chủ cho ta sự sống. Mỗi cuốn sách có một sinh mệnh riêng, nếu con người thiên sai vạn biệt thì bọn sách chúng mình cũng thế, có cuốn nào giống cuốn nào đâu, đó là sự phong phú của thế giới chữ nghĩa. 

 Một quyển sách có bìa màu xanh da trời với hình minh họa của một họa sĩ nổi tiếng vẽ hình một chàng trai nằm dài trên thảo nguyên, miệng ngậm cộng cỏ, xa xa cô gái tết hoa dại đội đầu. Quyển sách thì thầm.

 - Gần đây cậu chủ làm thơ rất ít, thậm chí không muốn làm thơ nữa. Cậu chủ bảo bây giờ thơ nhiều quá, nhiều như lá thu đổ nhưng nhạt, phần nhiều tả tình vu vơ nhăng nhít, tả cảnh rất xoàng…Bọn dựa hơi chính trị thì không đáng để nói, chỉ viết ca tụng tâng bốc chứ chẳng có giá trị nghệ thuật. Cậu chủ phàn nàn bọn làm thơ tân hình thức, hậu hiện đại, siêu tưởng, trừu tượng  là những kẻ phá hoại thơ. Những loại thơ ấy đọc nghe lôm côm, chữ nghĩa lởm chởm nhưng bánh xe bị xì hết hơi mà chạy trên mặt đường sỏi đá. Bọn họ phá bỏ quy tắc ngữ pháp tối thiểu, viết tùy tiện, ngắt câu, xuống hàng lộn xộn, tên riêng cũng chẳng cần viết hoa…Bọn họ cho những cái sai ấy là sáng tạo, là hiện đaị. Hình thức là thế, nội dung thì vô nghĩa, ngô nghê, dung tục thậm chí rất bẩn thỉu… Ấy thế mà bọn họ đắc ý cho là xuất chúng, là phát minh mới…Có lẽ từ đây mà cậu chủ không muốn làm thơ nữa, khi có cảm hứng cũng viết nhưng cậu chủ giấu đi chứ không phô bày ra như trước đây.

 Một quyển sách khác với bià màu vàng tươi, những bông hoa li ti lấp lánh như hoa nắng, những đoá hoa nhỏ xíu nhưng đủ màu sắc góp lời:

 - Cậu chủ thường viết bài với khí vị thời gian và phong thái vô cùng lãng đãng, man mác tình sầu, nước non u mặc… nên không được nhiều người thích. Thời đại hôm nay người ta thích sắt đá máu lửa, mãnh lực quyền tiền, tình thù bá đạo… không chạy theo thị hiếu thị trường, cậu chủ đi con đường riêng của mình, dẫu có vắng vẻ độc hành nhưng cậu chủ quyết không đổi thay.

 Cứ thế, các quyển sách lần lượt nêu tâm sự, giấc mơ hồng cứ kéo dài cho đến khi đồng hồ báo thức reo vang. Sáng chủ nhật trời thật đẹp, quán cà phê đầy nhóc khách. Y cùng với nhóm bạn thân ngồi nhâm nhi ly cà phê và tán gẫu, một người trong nhóm nói.

 - Nghe nói văn sĩ in sách mới, có bán được quyển nào chưa vậy? thời đaị công nghệ thông tin bùng nổ, mạng Internet phủ sóng khắp mọi nơi, thế mà các ông văn sĩ, thi sĩ còn in sách làm chi hổng biết nữa? quả là gan như chiến sĩ. Nếu bọn họ viết chuyện cười, chuyện hài hước, tiếu lâm, chuyện cà kê dê ngỗng thì là tếu sĩ. Còn giả như bọn họ dám viết về dân oan nước loạn, quan quyền nhũng nhiễu, côn đồ kết cấu với các thế lực chính trị, triều đình khi dân, đạo đức suy đồi, văn hoá lai căng… thì bọn họ quả là có tấm lòng nghĩa sĩ, can đảm như dũng sĩ, chí khí tựa tráng sĩ, sử sẽ nhìn nhận họ là kẻ sĩ. 

 Một người bạn khác thêm vào

 - Trong số các thi sĩ, văn sĩ ấy cũng có một số ít trở thành tử sĩ vì ngòi bút của họ 

Có một người bạn xưa nay vốn ít nói, kiệm lời, phần nhiều bạn bè gặp nhau ai cũng nói tràng giang đại hải mà anh ta chỉ lắng nghe, đôi khi tủm tỉm cười chứ anh ta chẳng bao giờ phân trần hay nói năng chi. Mấy người bạn kia lắm lúc bực mình, quát

 - Ai cũng góp lời cho vui, sao mày chỉ biết nghe mà không chịu nói? Mày có phải con cò đâu mà chỉ biết lắng cổ nghe.

 Bị chửi mà anh ta vẫn cười chứ chẳng cãi, vậy mà hôm nay bất thình lình lên tiếng:

 - Bọn họ đa phần chỉ viết chuyện tình, chú trọng nghệ thuật, ca ngợi cái đẹp, tạo tác cái đẹp để dâng cho đời kể cũng là nghệ sĩ. Tôi biết trong số họ có một số người sáng tác để thể hiện cái tâm, nói lên cái chí của mình. Những người ấy xem nhẹ cuộc đời này, tự coi mình như kẻ lãng du, đến ở tạm rồi đi. Họ chẳng tranh đua giành giật gì với người đời, có những thứ người đời cho là quý thì những tay du sĩ ấy cười khẩy. Bọn họ là những tay du sĩ trong cõi đời nhiễu nhương ô trọc này. 

 Một người bạn khác vốn là đaị gia mới nổi, anh ta thành công trên thương trường. Hôm nay bạn bè gặp mặt, anh ta cũng tranh thủ đến tham gia và cái chính là để khoe sự giàu có của mình, nghe mọi người bàn về sĩ, anh ta hợm mình:

 - Sĩ gì thì sĩ, nhưng có thực mới vực được đạo. Đời cũng thế, phải có tiền, không tiền thì đời khi dễ mình. Văn sĩ, thi sĩ là cái danh hão, hữu danh vô thực, chi bằng anh theo tôi chơi chứng khoán, làm đại lý buôn sỉ thì may ra mới ngóc đầu dậy được, lúc đó thì anh tha hồ in sách, cầm bằng cứ rị mọ viết lách thì suốt đời chỉ là anh hàn sĩ mà thôi! 

 Y chiêu một ngụm nhỏ cà phê, cái đắng thấm đầu lưỡi lan toả vào từng tế bào, may nhờ cái vị ngọt của sữa đặc dung hoà bớt cái đắng, mùi thơm của cà phê quả thật khó cưỡng, dù đắng, dù cồn cào trong bụng nhưng y vẫn thích uống cà phê mỗi sáng. Cứ như thế, y cầm ly cà phê trên tay, thỉnh thoảng laị hớp ngụm nhỏ và lắng nghe đám bạn bàn luận, góp ý. Lâu lâu y cũng thốt lên:” thế à” để mọi người biết là y còn uống cà phê chứ chưa ngủ gục. Y tuyệt nhiên không bàn luận dù là đồng tình hay phản đối, những lời góp ý dù nghịch tai hay thuận tai y cũng cười khì mà thôi. Kể cũng lạ, đám bạn thao thao bất tuyệt, người nào cũng cho là mình phải, nói lời thật, mà hình như bọn họ cứ nói chứ không hề quan tâm có ai nghe hay không nghe. Những bàn bên cạnh khách khứa cũng oang oang không kém, tiếng nói, tiếng cười hoà với tiếng nhạc xập xình, màn hình ti vi loang loáng cảnh ca sĩ 8x, 9x nhảy múa uốn éo loạn xà ngầu. Nhóm ca sĩ nhuộn tóc vàng, đeo kính áp tròng mắt xanh, quần áo te tua, giọng lớ lớ, ngọng nghịu, ca từ ngô nghê… y cố nghe để hiểu nhưng không biết bài hát muốn nói gì. Những ca sĩ, kịch sĩ, vũ sĩ cứ như hình nhân nhân bản hàng loạt, tất cả  na ná như nhau cả. Y không tài nào phân biệt được ai với ai, nghe giọng hát thì càng chịu thôi, cứ ngỡ từ một họng mà ra. Những nhạc sĩ bây giờ vốn sống không có, vốn từ nghèo nàn, ngôn ngữ lệch lạc hiểu biết ít ỏi… cho nên sáng tác ra những ca khúc dú ép chín non. Người nghe đôi khi cũng ư ử hát theo chứ thực tình cũng chẳng để ý ca từ hay nội dung. Người nghe ở quán này hay quán khác, ở thành phố này hay thành phố khác của xứ sở này cũng đều như thế cả! Nghe có mà nghe, miễn có âm thanh xập xình, tưng tưng là đủ rồi. Đôi lúc y cũng lẩm nhẩm theo lời nhạc, cũng gật gật như thẩm thấu nhưng thực tình y cũng mù âm nhạc, có biết gì nhạc lý đâu, chẳng qua y lắng nghe ca từ thôi. Y còn miên man nghĩ vẩn vơ, đời bây giờ nhiễu nhương lắm, đòi hỏi chất lượng là việc không thể có. Những bậc nhân sĩ, chí sĩ như sao buổi sáng, người liêm sỉ càng hiếm, duy có bọn bệnh sĩ ( diện) thì nhiều vô số. Bạn bè của y đa số cũng là những tay bệnh sĩ nặng nề, nào khoe nhà to xe lớn, làm ăn phát đạt, con cái thành tài, du hí đông tây…cái bọn bạn bệnh sĩ ấy nhìn y cũng khác, có kẻ còn tế nhị giữ cái sĩ cho người khác, nhưng cũng có đứa thô lỗ lắm.

 - Sách của anh có nấu chín nổi nồi chè không? tiền của tôi thì có thể đấy! 

 Y không trách gì kẻ ấy nhưng y biết anh ta cũng có chút thật, quả thật anh ta có thể lấy tiền nấu chín nồi chè như chơi, anh rất giàu. giàu kinh khủng lắm, bao nhiêu rừng cây cạo sạch, núi đồi san xẻ để bán, sản vật tự nhiên biến thành biệt phủ, thành tài khoản lớn trong nhà băng…Việc anh ta đem tiền nấu chè quả thật dễ như chơi. Thói đời càng giàu bệnh sĩ càng cao, càng mạnh vì gạo bạo vì tiền, biết thế nên y chẳng thèm trách chi. Khi mới viết lách, y những tưởng sách mình sẽ được bạn bè ủng hộ, sẽ được thiên hạ trân qúy nào ngờ sự thật phũ phàng quá, từ đó y không còn dám khoe sách nữa, có in thì cũng chỉ in chút chút để giải toả cái tình mê sách mà thôi! 

 Một đêm nọ, khi còn mơ màng trong cơn ngái ngủ, y nghe tiếng vợ cảnh báo:

 - Tiền lương tháng rồi anh giấu ở đâu? có phải đem in sách mới? em xin ông văn sĩ tha cho em, đừng lấy tiền lương in sách nhé! Em không muốn bọn chủ nhà băng thâu hồi nhà, xe đâu! đời em lỡ lấy anh rồi, không chừng sẽ thành khất sĩ thì tội thân em.

 

TIỂU LỤC THẦN PHONG

Ất Lăng thành, 12/2020

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Rứa là tui được hưởng hai cái bánh nhỏ thanh tao dòn rụm, bột họ pha răng mà mê rứa không biết, kèm mấy lát vả, lát khế, rau sống chấm nước tương pha chế ngon ơi là ngon. Tỉnh táo bao tử rồi hắn chở tui đi vòng thành phố Huế, qua khu Thương Bạc, ủa bữa ni răng mà người đông rứa, bớt vẻ yên tĩnh như ngày xưa, tiệm quán cũng mọc lên khó còn đất trống. Vừa đi hắn vừa kể nỗi gian khổ lúc trẻ, nay thì hậu vận quá tốt, con có địa vị thành công, chồng cưng yêu nhiều hơn lúc tuổi xế chiều, mà nhìn kỹ hắn tươi đẹp mặn mà ghê, chắc hạnh phúc gia đình biến sắc thêm xinh hè. Đi nửa ngày hắn thả tui về nhà” tau bận chút chuyện, sẽ gặp mi sau nữa nghe. Tui cám ơn hắn, gần 50 năm tuy xa mà hắn vẫn nhớ, vẫn đầy tình bạn thân thiết như hồi mô.
Sàigòn cũng như Phan Rang không có 4 mùa, nhất là mùa Thu. Nhưng Sàigòn cũng như Phan Rang đều có những đêm trăng Thu mờ ảo đẹp và buồn giống như mắt của em.
Cuộc điện thoại đã dứt mà Tử Linh vẫn còn đứng tần ngần một lúc rồi mới quay trở ra hiên, ngồi xuống cái ghế gỗ mà khi nãy cô đang ngồi, vừa đọc sách, vừa nhâm nhi tách trà nóng và những chiếc bánh madeleine thơm mùi vanilla trước khi tiếng chuông điện thoại từ trong phòng khách buộc cô phải chạy vào...
Ba đứa chơi thân với nhau tự thuở nào, thiên hạ ai cũng bảo ba đứa ấy như hình với bóng, họ còn kháo nhau là mật thiết hơn cả tam tinh, tam điểm, tam tụ, tam anh… Chẳng cần kết nghĩa đào viên nhưng chúng sống chết có nhau, chưa bao giờ rời nhau một li hay một khoảnh khắc nào. Thỉnh thoảng cũng có xung đột giữa ba đứa nhưng rồi cũng trôi qua êm thấm. Cả ba nương tựa nhau, hỗ trợ nhau, sinh hoạt qua lại với nhau. Thật tình mà nói thì chỉ có hai mới đúng, vì thằng Tưởng vốn là đệ tử ruột của thằng Tâm mà ra, tuy nhiên vẫn có sự khác biệt nào đó nên thiên hạ cho là ba, nói cho cùng thì là bộ bà cũng đúng hay khắt khe bảo bài trùng cũng không sai.
Lật bật đã tới tháng 9 mùa tựu trường. Lòng nao nao nhớ thời học sinh nhỏ nhít đất thần kinh xưa. Ở Huế, mùa tựu trường cũng tưng bừng rộn rịp như bất cứ nơi nào khác trên đất quê nhà. Cũng bâng khuâng luyến tiếc những ngày hè tươi đẹp chóng qua. Cũng nao nức trở lại trường lớp gặp bạn thầy cũ, mới. Có khác chăng mặt mũi mấy cô mấy cậu học trò đều phảng phất một vẻ nghiêm trọng. Làm như mình đã trưởng thành tới nơi!
Cách đây 5 năm ông bà này có cho một cậu sinh viên Việt nam trẻ tuổi, đáng tuổi con cháu xin mướn phòng ở trọ học tại nhà ông bà cho đến đầu năm tới 2025, cậu sinh viên này sẽ tốt nghiệp đại học 4 năm với văn bằng cử nhân
Cũng như các trại tỵ nạn khác, ở Thailand cũng có một khu “nhà tù” dành cho những người tỵ nạn không chấp hành quy định của Bộ Nội Vụ Thái hay của Cao Ủy tỵ nạn. Thời hạn ở tù tùy theo mức độ phạm quy, có khi từ một vài ngày cho tới một hai tuần. “Tù nhân” cũng đủ loại, nhẹ thì có những người mua lén đồ ngoài hàng rào, thức quá giờ giới nghiêm, quên làm vệ sinh khu nhà được phân công, nặng hơn là thành phần đánh lộn, gây mất trật tự trong trại, trộm cắp vặt, trốn ra ngoài trại đi chơi.
Tháng 7 năm 1954, hiệp định Genève chia đôi đất nước Việt Nam, người Pháp thất bại ở mặt trận Điện Biên Phủ, trả lại chủ quyền miền Bắc cho việt cộng. Việt Minh kéo từ mạn ngược và khắp nơi chúng đã ẩn náu về tiếp thu thủ đô Hà Nội và sau đó, toàn thể các tỉnh thành phía Bắc cho vào tới vĩ tuyến 17. Chúng ta mất một nửa giang sơn. Pháp có 80 ngày chuyển giao Hà Nội, 100 ngày giao Hải Dương, 300 ngày trả Hải Phòng, rồi chấm dứt. Việt cộng nằm vùng trong miền Nam cũng tự do ra Bắc tập kết, dù rất ít, nhưng làn sóng người miền Bắc di cư vào Nam thì đông nườm nượp… như nước vỡ bờ, họ chạy trốn, họ sợ cộng sản, họ sợ cái chế độ tam vô đang rượt đuổi sau lưng. Họ ra đi lánh nạn, đa phần phải bỏ lại gia sãn của cải, mồ mả cha ông… họ ra đi nhanh, mau lẹ nhất là các thành phố Hà Nội Hải Phòng, các xứ họ đạo công giáo Bùi Chu, Phát Diệm… có người vội vã đến chỉ ôm theo một tấm ảnh đức mẹ Maria… họ rủ nhau cứ xuống Hải Phòng là có tàu há mồm, há mồm chờ sẵn, chờ họ lên tàu và chở họ vô miền Nam.
Hà Nội có mùa Thu, Ninh Thuận quê tôi ở đó chỉ có hai mùa nắng gió. Buổi sáng mai hôm ấy mẹ tôi âu yếm nắm lấy tay tôi dẫn tôi đi qua con đường làng Xóm Động, rồi đến con đường cái quan tráng nhựa. Mẹ tôi nắm lấy tay tôi dẫn tôi đi qua cầu "Ông Cọp", rồi cầu "Nước Đá" và đến tận cửa trường tiểu học Phan Rang. Tôi cúi đầu đi qua cổng trường có tấm biển lớn có hàng chữ Tây: "Indochine Francais- École Primaire De Phanrang"...Giữa sân trường có cột cờ với lá cờ ba màu của Pháp treo tận chót vót. Trường của tôi hình như vừa quét nước vôi và có cửa kiến, tôi thoáng nghe mùi cửa sổ mới sơn.
Trước năm 1975, ngày đó tôi còn là một cậu thiếu niên ham thích đọc tiểu thuyết trinh thám mạo hiểm của Người Thứ Tám với nhiều câu truyện phiêu lưu, hồi hộp của chàng điệp viên Z-28 đào hoa, đẹp trai Tống Văn Bình. Tôi còn nhớ chàng điệp viên tài giỏi, võ nghệ siêu quần của chúng ta được phái đi thi hành một nhiệm vụ tình báo tại Maldives, một đảo quốc mà khi chúng ta nhìn về phía chân trời, nơi Trời và Biển gặp nhau, vì chính chúng ta cũng đang sống trên mặt nước...
Khoảng gần ba giờ chiều tôi rời khách sạn Ninh Kiều, cuối đường Hai Bà Trưng, nhìn ra sông Cần Thơ. Trời hanh nóng và đứng gió. Giấc ngủ trưa dài sau bữa ăn nhẹ, khiến tôi tỉnh táo và phấn chấn hẳn lên. Hãy còn sớm, hai giờ nữa tôi mới có hẹn với gia đình người bạn thân ở nhà hàng Hoa Sứ. Thời gian đủ để tôi dạo chơi và ghé chợ Cần Thơ tìm mua một vài thứ đồ lưu niệm… Vài cơn gió nhẹ mang theo hơi nước từ dòng sông thổi dọc theo công viên thật dễ chịu. Bến Ninh Kiều ngày nay thật khang trang và đẹp. Đi dọc mé sông, từ đây tôi có thể nhìn thấy chiếc cầu treo Cần Thơ sừng sững, hiện đại. Phía trước khách sạn là nhà hàng nổi và không xa là chiếc du thuyền nhà hàng lộng lẫy về đêm. Du khách vừa ăn tối vừa dạo cảnh quanh sông và có cảchương trình văn nghệ thật đặc sắc của miền Tây sông nước
Nàng tỉ tê với nhỏ bạn về những cuộc “thảo luận” sôi nổi của vợ chồng nàng. Bằng mọi giá, nàng muốn giữ cho đứa con có tuổi thơ tươi đẹp, hạnh phúc. Bao năm qua, đã có lúc nàng buồn rầu nghĩ, mình như con gà đẻ trứng vàng. Chỉ được việc, nhờ biết đẻ trứng vàng. Nàng không dám đề cập đến chuyện tiền bạc, sợ làm chồng buồn, cho rằng nàng cậy sức mạnh kim tiền lấn áp chồng. Nàng rất may mắn trong cuộc sống ngoài xã hội. Chưa ra trường, nàng đã nhận được hợp đồng làm việc với một trong những hãng hàng đầu của nước Đức. Ngược lại, chồng nàng quá lận đận. Cả năm trời, anh chạy đôn, chạy đáo tìm việc, mà vẫn phải nằm nhà. Nàng tự nhủ, tài lộc trời ban, gia đình sống thoải mái, chứ tính toán chi mà mất hòa khí vợ chồng. Tháng tháng, nàng thanh toán nợ to, nợ nhỏ, hàng hàng lớp lớp chi phí tất yếu của xã hội văn minh.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.