Hôm nay,  

Yến

28/12/202015:25:00(Xem: 5099)

Thế là được ba năm theo nghề, An bây giờ đã là một thợ leo giỏi có tiếng của công ty. Ngày mới vào nghề, ai cũng cười An, chê nó không thể leo được. Anh Bàn, người giới thiệu dẫn dắt nó vào nghề nhiều lúc cũng gắt:

 - Mầy nhát hít, làm sao làm được đây?

 Chú Bội an ủi

 - Từ từ sẽ dạn thôi, khi xưa chú mới vào nghề cũng vậy! 

 Mấy tháng đầu người ta cho nó theo làm phụ những việc vặt vãnh, tập leo dưới thấp, nhớ lần đầu leo lên giàn. An run cầm cập, những cây tre trông nhỏ bé và mong manh quá, sóng dưới chân vỗ ì oạp, vách đá chỗ thì nham nhở, chỗ thì trơn trượt, từ trên giàn nhìn xuống muốn chóng mặt. Nhưng vào nghề rồi thì phải chịu, mỗi ngày leo cao hơn chút nữa, có không ít lần An muốn bỏ cuộc, nhìn vách đá thấy ớn lạnh sống lưng, gió rít rần rật, sóng biển ầm ầm vậy mà mồ hôi mặt chảy xuống môi mằn mặn. An cũng chẳng còn tâm trí nào để phân  biệt cái mặn do hơi nước biển đọng laị hay do mồ hôi. Tập riết rồi quen, ngày An gỡ được ba mươi tổ yến đầu tiên, Anh mừng lắm, coi như đã thạo nghề. Nhóm thợ đi chung vỗ vai An chúc mừng:” chú em khá lắm”.

 Thời gian vẫn vô tình trôi qua, con nước cứ đầy rồi vơi, hết muà gió chướng thì xuân laị về. Đàn yến bắt đầu làm tổ để chuẩn bị đẻ trứng. Những người thợ laị dong thuyền ra hang lầy tổ yến về cho công ty. Yến bay rợp trời, trông nhỏ xíu vậy nhưng sức dẻo dai khó có ai bì kịp, mỗi ngày nó bay cả trăm dặm để kiếm thức ăn. Sự kiên nhẫn của yến cũng không ai sánh bằng, không từ ngữ nào mô tả trọn vẹn. Yến khạc nước dãi từ trong thân của mình để trét thành tổ, An và những người thợ leo gỡ lấy tổ của nó. Nó laị kiên nhẫn vắt kiệt nước trong thân để làm tổ lần thứ hai, rồi cũng bị con người cướp đi. Lần thứ ba thì nước trong người nó không còn đủ, nó phải khạc cả máu để làm tổ, những cái tổ lần thứ ba này có những sợi màu đỏ của máu nên gọi là huyết yến. Con người ta qúy lắm, giá mắc kinh khủng, Người ta cho huyết yến là cực kỳ bổ dưỡng và sung sức. An và những người thợ lấy tổ yến đem về cho công ty, người ta sơ chế rồi đóng hộp để bán cho giới nhà giàu và phần nhiều là để xuất khẩu. Tổ yến là một trong những món ngon bổ dưỡng hàng đầu, là món mà những người nhiều tiền ưu tiên chọn, bọn họ dùng yến bồi bổ thân để hưởng thụ lạc thú cuộc đời. Nếu ngày xưa chỉ có vua và hoàng gia mới được dùng, bây giờ thì giới quan gia, đaị gia nhiều tiền lắm của xài thoải mái,

 Tổ yến đầu tiên mà An gỡ khỏi vách đá là yến loại hai, trong tổ còn có hai con chim non đang há mỏ chờ mẹ mớn mồi. An lúng túng không biết đặt hai con chim non kia vào đâu để gỡ tổ. An đeo mình trên giàn tre, bám sát vách đá, bên dưới sóng biển vỗ ào ạt, vực sâu thăm thẳm, trên đầu bầy yến bay loạn xạ. Yến thấy những người thợ leo lên vách đá cướp tổ của nó, chúng nó bay lượn quanh những người thợ, kêu rít rít liên hồi, cái âm thanh nhỏ nhưng cộng hưởng của cả chục ngàn con và hồi hưởng của vách đá làm cho âm ấy như mũi dùi xoáy vào tai. Cái âm thanh của sự tuyệt vọng, sự cầu cứu mà những con yến bé nhỏ hiền lành đành chịu bất lực, chỉ còn biết cất tiếng kêu bi thương. Trong khoảng khắc cực kỳ ngắn, An nhớ lời những người thợ lành nghề truyền dạy:” Cứ vứt trứng và chim non để lấy tổ”, với trứng chin thì An vứt mà không có bất cứ vấn vương gì, nhưng đây là hai con chim non, nó đang chờ mẹ nó mớn mồi, nó hiền lành và vô tội, nỡ nào ném xuống biển? Lòng An thấy bất nhẫn không đành, An đu mình lòn qua mấy cây sào tre tìm đến những cái tổ khác, càng leo cao, lòng hang càng hẹp và tối dần, mức độ nguy hiểm cũng tăng theo độ cheo leo, được cái lên cao thì tổ yến mới nhiều, những ngóc ngách nguy hiểm thì tổ yến dày đặc, những cái tổ trắng trắng xinh xinh như bàn tay, như miếng bánh hỏi. An với tay tới một tổ yến trước mặt, laị đụng phải chim non, rướn thêm tí thì thấy rõ hai con chim con còn chưa mở mắt, nằm gọn cái tổ xinh xinh. Anh rụt tay laị, cứ như thế suốt cả buổi, tổ nào cũng có chim non. Đến buổi nghỉ để ăn, An đếm số tổ lấy được quá ít. Anh Bàn la lối:

 - Làm ăn như vậy thì tiêu tùng! Có nhiêu đó sao đủ sở hụi chi tiêu trong ngaỳ, còn nói chi đến vợ và con ở nhà trông đợi!

 Anh Bàn vào nghề đã lâu, anh thấu hiểu vì sao An chỉ lấy được nhiêu đó. Anh cũng đã trải qua những giây phút ban đầu khi gỡ tổ yến gặp chim non, cũng ngần ngại, cũng dằn vặt không nỡ ném, rồi một lần nhắm mắt tặc lưỡi ném, cứ thế làm tới nên cảm giác chai sạn dần, lâu riết chẳng còn xúc cảm nữa, cứ gặp là ném thôi, giờ thì anh cũng như những người thợ khác, cứ ném chúng như ném hòn sỏi xuống biển. Anh tâm sự:

 - Cũng vì cơm áo gạo tiền nên phải làm thế thôi, mình không cố ý haị nó, nhưng không làm thì vợ con sống sao đây?”

 Chú Bội rít một hơi thuốc lá rồi ném tàn thuốc xuống biển, chú laị hớp một chút nước mắm nhĩ để giữ ấm thân. Chú là người có thâm niên lâu nhất nhóm thợ, nhiều anh  em được chú dạy cho cách dựng giàn tre, cách leo và cả cách đối phó với những con rắn biển khi gỡ tổ yến gặp phải. Chú Bội khô đét, đen nhẻm, cái khô rắn rỏi của dân biển, cái thân thể ấy được trui rèn qua nước mặn, gió biển và sự leo trèo bao nhiêu năm nay. Chú bảo An:

 - Trước khi ra hang đã cúng tổ rồi, mình làm nghề này thì phải vậy thôi, mình không cố ý hại chúng nhưng mình và người nhà cần phải sống!

 An ngồi lặng lẽ không nói lời nào, nó co ro mắt nhìn đăm đăm ra biển. Nó vốn không nghề nghiệp gì, lông bông riết vừa chán đời vừa không có tiền chi tiêu. Anh Bàn là anh họ của nó, xin cho nó vào công ty để đi lấy tổ yến, từ ngày vào nghề, vừa có tiền cho vợ con vừa bớt phải nhậu triền miên. An thấy vui hẳn lên, cái vui chưa được bao lâu thì nó phải đối mặt với sự nghiệt ngã của nghề này. Bản tâm nó còn trong sáng và hiền thiện, nó không nỡ quăng chim non xuống biển. Ngày trước khi chưa vào nghề, trong những cuộc nhậu nó vẫn thường nghe người ta kháo nhau về cái chuyện lấy tổ yến quăng chim non. Bạn nhậu nhiều người cho là ác, thất đức, nào ngờ bây giờ nó laị ở vào hoàn cảnh oái ăm này. An suy nghĩ mông lung về những tổ yến với chim non; về những người thợ làm chung như anh Bàn, chú Bội; rồi còn vợ con nó đang ở nhà trông ngóng… Không biết định mệnh thế nào mà người vợ yêu thương của nó laị mang tên của loài chim nhỏ bé hiền lành kia. Nó đang tham gia phá tổ của loài chim mang tên vợ nó, vợ An không đẹp nhưng được cái hiền và thủy chung, laị chu đáo trong ngoài, những ngày An chưa có việc làm, vợ nó vẫn bươn chải lo ba bữa cơm cho cả nhà, nhiều lần nó nhậu say về quậy phá nhà cửa  nhưng vợ nó vẫn nhẫn naị chịu đựng. Thế rồi đứa con ra đời, túng thiếu laị càng thêm ngặt hơn, từ ngày vào công ty đi lấy tổ yến, nó có tiền để vợ con chi tiêu, lòng nó vui và trở nên nhẹ nhõm làm sao. Lúc mới vào làm, lương bổng chẳng bao nhiêu, vì người ta trả lương theo sản phẩm, dần dà thạo việc nên lương cũng tăng lên, tuy chẳng thể gọi là dư dả nhưng tạm đủ trang trải cho vợ con, ngoài ra cũng có dư chút đỉnh để dành phòng khi đau yếu, những tưởng suôn sẻ xuôi chèo mát mái. Bây giờ An đối diện với việc ném chin non xuống biển, lòng An thật bất an, không ném chim non thì không có sản phẩm, bỏ việc này thì biết làm gì bây giờ? rồi vợ con và cuộc sống ra sao? cả trăm mối ngổn ngang. Giờ lên giàn laị đến, anh Bàn vỗ vai An:

 - Đành vậy thôi, bằng không thì vợ con sẽ ra sao? Chim cũng chỉ là loài vật, người ăn súc sinh chim muông là chuyện thường tình! 

 An không ừ hữ chi, uể oải đứng dậy đi theo anh Bàn, thật tình An chẳng thấy mình có đồng ý hay không đồng ý lời anh Bàn vừa nói. An biết việc người ăn súc sinh là thường, nhưng ném chim non xuống biển laị là việc khác. Leo lên giàn mà lòng An trống trải lạ thường, tâm tư dường như lúc này ở đâu đâu, xa xa bên kia vách đá là chú Bội, còn anh Bàn thì gần như chạm trần hang. Hàng vạn con yến bay loạn xà ngầu, tiếng kêu lích rích va vách đá dội laị nghe nhức cả tai. Cái sóng âm của kẻ thấy hiểm nguy, tiếng kêu của kẻ biết sắp mất tổ, mất con xoáy vào trong tâm những con người khốn khổ kia. Họ cũng đang kiếm cơm cho vợ con họ, họ cũng lo cho tổ ấm của họ, biết làm sao bây giờ, cuộc chơi nghiệt ngã của dòng đời! Sóng biển ào ạt nhưng không át nổi sóng âm rít rít của loài chim yến. An vói tay gỡ cái tổ bên phải, vì xa quá và chất nhờn gắn chặt nên cái tổ rách ra, mấy cái trứng rơi xuống như hạt bụi, trứng chim quá nhỏ mà không gian bao la nên mấy cái trứng rơi xuống là mất hút ngay. An gỡ tiếp một cái tổ trên đầu, hai con chim non rơi xuống, tiếng kêu chíp chíp vừa lọt tai là cái thân chim mất hút không còn thấy đâu cả, tiếng kêu cũng bị gió bạt đi. An cắn răng làm tới, những cái trứng và những con chim non cứ thế rơi xuống biển, không còn suy nghĩ gì nữa, An cứ gỡ tổ yên như một người máy. Lòng nó khép laị để khỏi phải phân tâm, thả những con chim nhỏ xuống biển mà lòng trống không, đơn giản chỉ là cái tay làm mà thôi, mắt không còn nhìn theo cái cục thịt bé tí hon rơi như lần đầu nữa. Mắt An giờ đang bận soi bói tìm kiếm những tổ yến khác trong những kẹt đá, những lỗ hổng hay ẩn sau lớp vách lởm chởm. An leo lên một cái ngách khác, ở đó có vô số tổ yến ken trắng vách. Những con chim yến thấy người vụt bay ra ào ạt, cũng có những con ở xa hơn một chút thì bám vách đá nghiêng nghiêng đầu thám thính. An thấy rõ nhiều con khác vẫn miệt mài quệt nước dãi làm tổ, vệt nước dãi sền sệt từ miệng chúng chảy xuống và quyện vào cái tổ còn dở dang. An trườn người tới, gỡ thêm khá nhiều tổ yến, có tổ còn hơi âm ấm của thân chim, của chất nhờn chưa kịp khô. Cái túi An đeo cũng gần đầy, An nhủ lòng gỡ thêm tí nữa sẽ xuống. An đu mình leo lên chừng hai mét nữa, những tổ yến như bàn tay nhỏ nhắn trắng trẻo của cô gái, một cái tổ khá to so với những tổ chung quanh, An nhìn thấy hai cái mỏ nhỏ xíu đang há to, kêu chíp chíp, bỗng hai con chim trống và mái, có lẽ bố mẹ chúng, bay vụt qua mặt An, chúng nó cứ bay xà quần quanh An , vừa bay vừa kêu rin rít. Anh không hiểu là chúng tấn công mình hay chúng van xin mà tiếng kêu thảm thiết quá.  An, một tay bám chặt ngách đá, một tay vung xua đuổi chim, hai con chim kia dường như quyết liệt bảo vệ tổ và chim con. An cũng quyết lấy tổ để lo cho tổ ấm của mình, cả hai cùng quyết liệt nhưng cái quyết liệt của chim sao bằng được cái quyết liệt của người. An cheo leo trên vách đá, trông vô cùng nhỏ bé, nhìn từ xa thì An cũng không khác cái tổ yến dính trên vách đá kia. So với An thì con chim kia còn nhỏ biết là bao giữa cái không gian mênh mông này. Nó đã nhỏ máu để làm tổ, nó đã bay hàng trăm dặm để kiếm mồi nuôi con, nó đã mang nặng và đẻ đau nhưng muôn loài khác, sức nó chưa kiệt nhưng tánh linh nó đau đớn đến cùng cực. Khi An ném hai con chim con của nó xuống biển và gỡ cái tổ bỏ vào túi thì cũng là lúc An nghe tiếng rít chít chít bén như dao xoáy bên tai. Hai con chim cả trống và mái lao thẳng vào vách đá như mũi tên bắn, hai cái xác lập tức rơi xuống biển, một vài cộng lông chim phất phơ theo gió giữa hư không. Vách đá xám xịt in một vệt máu tí xíu. An há hốc mồn kinh ngạc trước sự việc diễn ra quá nhanh và khốc liệt, trong khoảng khắc vô tình, An buông tay bụm miệng thì cả thân thể An rơi theo hai con chim kia. Thân chưa chạm đáy hang hay sóng nước, thân An còn lơ lửng giữa không trung. An như ngủ mê, thấy thằng cu tí đang há miệng chờ mẹ nó đút cơm, thằng cu tí háu ăn, cơm đút không kịp nó la hét ầm ĩ, tiếng hét tắt lịm khi An chạm tảng đá đáy hang. Những tiếng hét khác của chú Bội, anh Bàn và những người thợ khác đồng loạt vang lên, tiếng hét cộng hưởng từ vách đá của hang dội laị như kéo dài ra trước khi tan loãng vào hư không.

 Cuối năm ấy yến sào hút hàng, có bao nhiêu cũng không đủ bán, giá laị cao ngất ngưỡng, một ký lô lên đến bốn ngàn đô la Mỹ, đó là loại hạng hai, loại huyết yến thì phải đến năm ngàn hoặc hơn nữa. Nhà hàng Đại Phúc Trung là một mối làm ăn quan trọng của công ty, có bao nhiêu họ thầu hết, với hệ thống chân rết của mình, Đaị Phúc Trung không chỉ dùng yến để phục vụ thực khách lắm tiền của trong nước mà còn để xuất khẩu qua Hồng Kông, Đài Loan, Singapore, Mỹ, Canada. Những nhà hàng thường bậc trung và giới bình dân khó mà với tới những món hàng đắt tiền này. Nhà hàng Đaị Phúc Trung, ngoài những món có tiếng xưa nay như: Nhân sâm bát bửu, hùng chưởng, tinh tượng, pín cọp… thì món huyết yến chưng đông trùng hạ thảo là một bí quyết ẩm thực riêng biệt. Dân chơi đồn đaị món ấy cực bổ dưỡng, người suy kiệt chỉ cần hai chén là phục hồi, khách huê tình ăn chơi trác táng nhất định phải dùng món này mới trụ được dài lâu. Một chén huyết yến với đông trùng hạ thảo có thể giúp khách làng chơi hành lạc cả đêm mà không mệt mỏi. Huyết yến chưng của Đaị Phúc Trung còn được đồn đaị là làm cho cơ thể tươi nhuận trẻ trung, da dẻ hồng hào, xanh tóc sáng mắt, sống thọ dài lâu… Bởi vậy, thực khách không chỉ là qúy ông mà còn là quý bà nhiều tiền lắm của, những phu nhân của quan gia, nữ đaị gia đều là thực khách thường xuyên của Đaị Phúc Trung. Giá của một chén huyết yến có thể lên đến hai trăm đô, tùy theo những món chưng kèm theo. 

 Ngày tất niên đến, Trần Nhất Thế, một ông trùm của thành đô vừa là cổ đông chính của nhà hàng, tổ chức tiệc chiêu đãi quan gia và những mối lái làm ăn ở Đaị Phúc Trung, những món sơn hào hải vị đã quá tầm thường với bọn họ. Nhà hàng bày chế ra món mới đặc trưng chưa có nhà hàng nào ở thành phố này nấu được, đó là món huyết yến chưng bạch noãn đồng trinh. Món này chỉ phục vụ cho một nhóm thực khách đặc biệt mà thôi. Những lời ca tụng cho sự bổ dưỡng và sung sức của món này thì khỏi phải nói, có thể coi như thuốc tiên, đẹp da, sung mãn, trường thọ…Thực khách đủ điều kiện để nếm thử món này không nhiều, nhất định phải là những người ngoài tiền bạc, thế lực còn phải là quen biết thâm sâu với Đaị Phúc Trung mới có cơ hội nếm qua. Khách của buổi tiệc toàn những tay có máu mặt như Lê Kim Ngân, một tay bán trời không văn tự, hàng hoá muốn xuất nhập đều phải qua tay y. Nguyễn Công Vụ, một ông trùm kinh tài, của chìm của nổi của các quan gia không thể thiếu sự tiếp sức của y. Lý Thừa Lệnh, ông trùm của những phi vụ giàn xếp, những rắc rối từ pháp luật cho đến xã hội đen, nếu không có y thì không thể yên…Đàn em xã hội đen của nhà hàng cùng với mật vụ của các quan bố trí mấy vòng để bảo đảm an toàn tuyệt đối cho cuộc vui của các đaị ca và quan gia. Với thế lực và tiền bạc của họ, những món ăn dầu cầu kỳ và đắt nhất thiên hạ, những trò chơi thác loạn đến loài vật cũng không thể bằng đều có cả trong đêm nay. Giang hồ đồn rằng, bọn nhà giàu Âu - Mỹ tuy giàu hơn nhưng không thể sướng bằng bọn quan gia và đaị gia trong nhà hàng Đaị Phúc Trung này.

 Sau bữa tiệc ấy, ngày kế tin tức nóng hổi từ báo chí đăng một cái tin ngắn gọn:” Ông Lê Kim Ngân bị chết vì té lầu hôm tiệc tất niên”, ngoài ra không có bất cứ bình luận hay thông tin nào khác. Thiên hạ xì xầm đoán già đoán non nguyên nhân chết, nào là: say rượu bất cẩn, thủ tiêu diệt khẩu, tranh ghế hạ độc thủ, nhóm đối đầu nhanh tay hơn…dù xôn xao vậy nhưng gia đình và cơ quan chủ quản vẫn giữ im lặng theo đúng câu ngạn ngữ “ thủ khẩu như bình”. Chuyện ông trùm Ngân chưa yên thì dân mạng laị dậy sóng vì cái tin ông Nguyễn Nhất Thế bị bệnh lạ. Người ta bảo sau bữa tiệc huyết yến chưng bạch noãn đồng trinh ấy, ông Thế tự dưng da thịt trương phù và nhiều vết nứt rỉ ra những tia máu, trông giống như những sợi huyết trên tổ huyết yến, hai tay và chân thì quắp laị như đôi cánh yến gãy nhưng có kẻ laị bảo giống hình dạng bào thai trong bụng mẹ. Có vô số bình luận trên mạng, nhiều người ra vẻ rành đông y bảo:” Huyết yến đã bổ, laị chưng với bạch noãn đồng trinh nên chất bổ bộc phát mạnh, làm cho những mạch máu xung huyết nên vỡ, vả laị nhiều chất khác xung khắc nhau cùng nạp vào cơ thể cùng lúc nên kỵ nhau…”. tất nhiên cũng có không ít những ý kiến thiên về tâm linh tỷ như báo oán của nhau thai. Có người khẳng định:”Những con yến non chết oan và những con chim yến mất tổ, mất con đã báo oán”. Ngoài ra còn có vụ ông trùm giàn xếp họ Lý bị ngã ngựa phải xộ khám, gia đình phải bồi hoàn hàng triệu Mỹ kim…Thiên hạ hả hê, dân mạng khen chê không tiếc lời, giữa một rừng tin tốt có, xấu có, giả có, thiệt có, đúng có, sai có… nhưng chuyện mấy ông trùm sau bữa tiệc huyết yến tưởng chừng như nhất thiên hạ kia laị hoá ra là tiệc hoạ. 

 Mùa xuân rồi laị đến, đất trời như tươi mới hơn, muôn hoa đâm chồi nảy lộc. Chị Yến dắt cu tí ra nghĩa địa bên chân núi giáp biển để tảo mộ cho anh An. Chị chú tâm đốt hương khấn vái rì rầm, cầu anh sống khôn chết thiêng phù hộ cho cu Tí. Cu Tí thì chạy lúp xúp dọc mép biển rượt đuổi những con hải âu. Từng bầy chim yến bay rợp cả khoảng trời, bay xập xoè trên mặt biển, cánh yến chao lượn giữa muôn trùng nước non, chúng laị tìm về hang cũ miệt mài nhỏ dãi xây tổ. 


TIỂU LỤC THẦN PHONG

Ất Lăng thành, 12/2020

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Chị nhớ lại, vào một buổi sáng ngày cuối tháng 1 năm 1973, khi Chị đi lấy bản tin ở bên Macv về cho AP, chị thấy sao hôm nay văn phòng đông thế. Ký giả của AP và cả của NBC News bên cạnh cũng chạy qua chạy lại, Chị nghe ông chánh văn phòng nói: Viêt Nam sắp ngưng bắn rồi, sắp hòa bình rồi…” Văn phòng Associated Press xôn xao, từ ông chánh văn phòng đến các ký giả, nhân viên của AP đều hứng khởi với cái tin “Nóng bỏng” này. Chị thấy các phóng viên của các hãng thông tấn, hãng truyền hình ngoại quốc chạy hối hả sang nhau và chạy qua cả đài phát thanh Quân Đội Việt Nam để cập nhật tin tức viết bài…
Chị đi bằng xe hàng. Là dân Đà Lạt gốc Huế nên chị gọi xe đò là “xe hàng”. Đi xe hàng, tức là xe đò, là xe chở người và cả hàng chứ không chở riêng hàng. Tiếng Việt hay như vậy đó! Đến Gò Công rồi đi xe lam vào Đồng Nguơn. Ấp Đồng Nguơn. Không phải đây là lần đầu tiên chị được thấy cảnh đồng quê. Đồng quê miền nam hầu như đâu đâu cũng giống nhau. Nhưng có đi nhiều mới thấy mỗi nơi có một chút khác. Phải thế không? Hay chính là cảm giác của chị mỗi lần một khác?
Tôi ước mơ có một ngày nào đó, khi thanh bình thật sự trở về trên nước VN, khi chính thể CS hoàn toàn tan rã, khi con người công chính trở lại làm nền tảng trong xã hội mới, chúng ta sẽ trở về, những ngưới bạn từ thời xa xưa, cùng nhau làm lại một bữa tiệc Tất Niên, mời vong linh các thầy, các bạn, các anh em đồng đội đã chết trong khói lửa chinh chiến, trong các biến cố tang thương của đất nước, trong các trại tù, trên biển…cùng nhập tiệc. Kẻ đang sống cùng người thiên cổ bên cạnh nhau hoài niệm đến một miền thùy dương ngọt ngào nhân tính, một ngôi trường thân yêu giàu truyền thống giáo dục và y đức, một thành phố mến yêu thơ mộng. Để nghe những người quá cố tâm sự về cái chết oan khiên của mình. Được như vậy, hương hồn các vị đó sẽ sớm được siêu thoát và vĩnh viễn an nghỉ chốn nghìn thu. Và chúng ta đây giảm khắc khoải đau thương…
Tôi đã có bốn cái Tết trong trại Panatnikhom và Sikiew, Thailand. Tết đầu tiên thật nhiều kỷ niệm và bất ngờ, vì lúc đó chúng tôi vừa nhập trại trong khi còn hơn một tuần nữa là Tết. Tôi và ba cô bạn đi chung chưa kịp gửi thư cho thân nhân ở nước ngoài để ca bài ca “xin tiền”. Ai lo bận bịu đón Tết thì lo, còn chúng tôi thì lo đi mượn tiền để mua vài vật dụng cần thiết như tấm trải nhựa, tre nứa, dây nilon để làm “nhà” (phải “an cư” mới “lập nghiệp” tỵ nạn được chớ).Khoảng một tuần trước Tết, có một nhóm mấy thanh niên đến thăm vì nghe nói chúng tôi là dân Gò Vấp, nên muốn nhận “đồng hương đồng khói”. Họ là những người trẻ như chúng tôi, nên câu chuyện mau chóng trở nên thân mật và rôm rả
Hỏi thăm ông Hai bán hoa lay-ơn gốc Bình Kiến, nhiều người ngơ ngác hỏi nhau. Tôi lại rảo qua thêm mấy vòng chợ hoa, cũng vừa đi tìm ông Hai, cũng vừa ngắm hoa và ngắm những chậu bonsai bày bán cuối năm, cũng tìm lại mình của gần 20 năm trước, năm nào cũng cứ vào những ngày này, tôi theo ba tôi hóng gió đón sương không hề chợp mắt cùng gian hàng cây kiểng rất bề thế của ba ở đây.
Có lẽ những rộn ràng, hân hoan nhất trong năm không phải là "ba ngày tết", mà là những ngày cận tết. Bắt đầu vào ngày 23 tháng chạp, tối đưa ông Táo về trời. Tất cả mọi sinh hoạt đều hướng về việc chuẩn bị để đón một mùa xuân mới, chào đón nguyên đán và mấy ngày xuân trước mặt. Lúc nhỏ là mùi vải thơm của bộ đồ mới, mùi gạo nếp ngâm cho nồi bánh và hương thơm ngào ngạt cho sàng phơi mứt dừa, mứt bí, mứt gừng ngoài sân. Những đêm ngủ gà ngủ gật ngồi canh bên nồi bánh tét cùng với má, với gia đình xúm quanh. Mùi bếp lửa, mùi khói hương, mùi áo mới lan tỏa của tuổi thơ ngan ngát những ngày xa...
Người ta được nuôi lớn không chỉ bằng thức ăn, mà còn ở lời ru, tiếng hát, và những câu chuyện kể. Chú bé cháu của bà thích được bà ôm vác, gối đầu lên vai bà. Có khi bà mở nhạc từ chiếc nôi cho chú nghe thay cho lời hát, chiếc nôi chú bé đã nằm khi mới lọt lòng mẹ. Có khi bà hát. Bà không ru à ơi, nhưng âm điệu dân gian len vào trong từng lời hát. Chú bé mãi rồi ghiền nghe giọng hát của bà.
Lóng rày tôi hay tẩn mẩn viết về những hồi tưởng tuổi thơ, nhất là những côn trùng ngày xa xưa đó như chuồn chuồn, bươm bướm, ve sầu, dế mèn…Nhiều lúc ngồi nghĩ lẩn thẩn: tại sao vậy? Chắc đó là tâm trạng của người tuổi sắp hết đếm số, tiếc nuối những khi còn cắp sách tới trường. Cắp sách tới trường không phải là chuyện vui nhưng tuổi học trò thì vui thật. Lúc nào, khi nào, chỗ nào cũng toàn thấy chuyện vui chơi. Bạn chơi là người nhưng nhiều lúc là những côn trùng quanh quẩn bên người. Một ông bạn mới gặp nhướng mắt hỏi tôi viết về những bạn chơi nhiều hơn hai chân nhưng chưa thấy nhắc tới bạn của ông ấy. Đó là bọ ngựa. Ông này thuộc loại rắn mắt. Tôi không chung tuổi thơ với ông nhưng chắc ông cũng thuộc loại phá làng phá xóm. Ông kể chuyện ăn me chua trước mấy ông lính thổi kèn trong hàng ngũ khiến mấy ông thợ kèn này chảy nước miếng thổi không được. Tôi thuộc loại hiền nên không có bạn không hiền như bọ ngựa. Ông ta thì khoái bọ ngựa.
“Mày có vợ hồi nào vậy?” chưa kịp chào, mẹ đã ném ra câu hỏi bất ngờ. Tôi lặng thinh. Cục nghẹn trong cổ họng. Tiếng mẹ đã khàn nhưng nghe vẫn quen, vẫn gần gũi, nhưng đặm chút ngạc nhiên và thấp thoáng chút phiền muộn. Hệt như lần hỏi tôi mười mấy năm trước rằng Sao con trốn học. Đường dây điện thoại chợt kêu ù ù, như thể có máy bay hay xe vận tải cơ giới hạng nặng chạy qua chỗ mẹ đứng. Cũng có thể tại tai tôi ù. Tôi cũng không chắc lắm. Giọng nói mẹ chìm vào khối tạp âm hỗn độn. Mẹ lặp lại câu hỏi trong tiếng động cơ rì rầm. Rồi tất cả im vắng bất ngờ. “Hở con?” Mẹ nói.
Bê, con trai của Mẹ, đã theo Mẹ đến giảng đường từ thuở còn trong bụng Mẹ. Suốt thời gian đại học của Mẹ, Bê có nhiều đóng góp khác nhau theo từng thời kỳ. Khi Mẹ làm bài kiểm tra môn Đầu Tư và Tài Chính trong lục cá nguyệt đầu tiên, Bê mới ba tháng tuổi. Mẹ nhẩm tính, bài thi một tiếng rưỡi, đi về từ nhà đến trường thêm một tiếng rưỡi. Như vậy, Bê phải xa Mẹ ít nhất ba tiếng đồng hồ. Mẹ biết tính Bê, mỗi hai tiếng đồng hồ Bê oe oe đòi bú sữa Mẹ. Bê xấu đói lắm, đòi mà không được, Bê nhăn nhó um sùm. Ngày hôm đó, dì Thành đến giữ Bê. Dì Thành rất hồi hộp. Dì chưa có em bé, chẳng biết phải làm sao cho đúng ý Bê. Mẹ thi xong, phóng ra xe về nhà. Mẹ bắt đầu sốt ruột. Mẹ xa Bê đã hơn ba tiếng đồng hồ. Giờ này Bê chắc Bê đã thức giấc. Hy vọng Bê chịu khó nhâm nhi món trà thảo dược cho trẻ sơ sinh trong khi chờ Mẹ về. Thời đó chưa có điện thoại di động. Bởi vậy, có lo cũng để bụng, chứ Mẹ chẳng biết làm sao. Mẹ ba chân bốn cẳng chạy ba tầng lầu. Vừa đến cửa đã nghe tiếng Bê khóc ngằn ngặt.
Khi chơi những bản nhạc hay, Khang khóc theo giai điệu. Mước mắt chảy, tay kéo tình xuống lên, thân hình diệu dẻo theo cảm hứng. gần như mê cuồng, không biết mình là ai. Tôi cảm nhận được cái hay xuất thần nhưng không hiểu. Khang nói: -- “Cậu Út biết không, cái hay của âm nhạc làm cho lòng sung sướng nhưng cái đẹp của âm nhạc làm cho hồn cảm động. Khi món quà quá lớn, quá sức yêu, không thể cười, chỉ có thể khóc.” Tôi nghĩ, những lúc như vậy, Khang không chơi đàn, mà múa với hồn oan.
Tôi làm việc giữ xe cho một casino ở ngoại ô Toronto, gọi là parking attendant. Đó là nghề mà thanh niên ít chịu làm, phần vì lương thấp, mức tối thiểu, hồi đó 5 đồng một giờ, nhưng lý do chính là vì nó buồn. Bãi đậu xe nằm dưới hầm tối, không nhìn thấy người qua lại, nếu ở ngoài trời cũng sau lưng nhà cao tầng. Không ai làm chỗ đậu xe ở khung cảnh xinh đẹp, nơi ấy dành cho hàng quán. Đi học ban ngày, tôi làm thêm ban đêm là việc thích hợp, có thể thỉnh thoảng ngồi học bài. Nhân viên trong phiên gác trước tôi là cô gái bằng tuổi hoặc cùng lắm lớn hơn một hai tuổi, nhưng không hiểu sao cô vẫn có thói quen gọi tôi là em và xưng chị.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.