Hôm nay,  

Ngày Tết

10/02/202109:49:00(Xem: 3724)

Hôm nay thứ Sáu, còn đúng một tuần nữa là Tết, vì thế mà ra khỏi sở sớm để ghé chợ mua vật dụng về nấu bánh chưng cuối tuần nầy. Coi đi coi lại cái list đã làm không biết bao năm trước. Cũng chừng đó thứ thôi: nếp Nhật hạt tròn, đậu xanh, thịt ba rọi, lá chuối, đủ nấu chừng mười lăm cái mà khi nào cũng dư lại một ít đậu xanh. Nhưng cũng nhờ thế mà nấu được thêm mấy chén chè bông cau, để nhớ ngày xưa…

Đã mấy mươi năm nay chưa bao giờ mua một cái bánh chưng ngoài chợ và không nhớ lần cuối ăn một miếng là lúc nào. Có người em năm nào cũng cho một cặp bánh chưng từ một  tiệm nổi tiếng ngoài Bolsa, rất to, vuông vắn, lá xanh tươi, nơ thắt ngay ngắn… nghe đâu bây giờ tới hơn hai mươi đồng mỗi cái, nhưng mở ra, thấy rồi thì hết muốn thử. Năn nỉ anh nầy đừng cho nữa nhưng Tết nào cũng nhận một cặp, chắc anh sợ mình tủi thân vì trong nhà ai cũng có mà mình thì không. Không có những thứ người khác có chưa chắc là chuyện không hay!

Năm nào cũng nấu. Có năm nói thôi, có ăn uống chi đâu mà phải mất công, nhưng rồi gia đình, bạn bè nhắc, nay lại thêm hai người con đang “về nguồn”, biết “quý” cái bánh chưng ngày Tết vì thế mà cứ tiếp tục. Có cô em người bạn ăn bánh chưng ở nhà anh chị, gặp mình nói em biết là anh chỉ nấu ít thôi nên em không dám xin nguyên cái, năm tới anh cho em nửa cái cũng được. Cô nầy đam mê nấu ăn, nhất định phải nấu đêm nấu ngày nồi bún bò Huế cho đến khi nào “tới” mới thôi. Chắc bây giờ “tới” rồi nên hai vợ chồng ra mở tiệm. Cô biết thức ăn “ngon” không nằm ở lượng mà ở phẩm. Thức ăn dù ngon đến mấy cũng chỉ ngon vài ba miếng đầu, càng ăn thêm càng dở. Tiệm ăn càng cao cấp thì portion càng nhỏ, dọn ra một cái dĩa rất lớn mà chỉ có vài ba miếng lèo tèo ở giữa.

Nói là mất công nhưng không phải là không có phần trông ngóng. Im lặng hằng giờ, thong thả vò nếp, vò đậu, lau lá, nấu bánh, vớt bánh, ép bánh…mà lòng nhẹ như mây!  Thiếu cái cảm giác ấm áp khi ngồi canh lửa cạnh nồi bánh, có khi suốt đêm, như ở bên nhà, nhưng vẫn còn cái tỉnh lặng nhẹ nhàng trong lòng. Những lúc như thế nầy, bên tai như vẫn còn nghe tiếng mưa rơi trên mái tranh lẫn trong tiếng chuông chùa sáng sớm, khi ngồi bên bếp lửa chờ nghe tiếng kêu leng keng của cái xách cơm bằng nhôm đụng lên cái ghi-đông xe đạp vọng đến từ rất xa, biết là người bạn học sắp đi ngang, để ra chờ sẵn cùng đạp xe tới trường. Có những chiều tan học đạp xe về nhà thì trăng sớm đã lên, con đường làng êm ả sáng dưới trăng, thơm mùi rạ từ những thửa ruộng vừa xong mùa gặt.

**    


Nấu bánh chưng có chi là khó! Vo nếp, đậu như cách người Nhật vo gạo. Phải nói là “rửa” gạo mới đúng. “Rửa” nhiều lần, mỗi lần phải quay qua quay lại quanh cái thau ba mươi hai lần (?) cho dến khi nước trong như nước mưa. Rồi phải đợi cho nếp và đậu thật ráo nước. Gói không chặt quá để nếp và đậu có chổ nở ra và dính lại với nhau, nhưng không lõng quá để nước thấm vào làm nhão bánh. Sắp những miếng thịt như thế nào để khi chín, có chút mỡ chảy ra nhưng không dính tràn ra ngoài nếp. Úp mặt ngoài miếng lá chuối vào là cái bánh chưng xanh như ngọc khi mở ra. Có điều vì làm thế mà mặt ngoài chiếc bánh không xanh như bánh ngoài chợ. Nếu được đẹp cả trong lẫn ngoài thì quá quý, nhưng nếu chỉ có một thì mình chọn giữ cái đẹp phía trong. Để bánh có màu xanh nhiều nơi dùng phẩm màu trộn vào nếp, có khổ tâm không. Một người có nhan sắc, khôn ngoan và tự tin thì bôi son quét phấn, mang vòng vàng cà rá đầy người làm chi cho nhiều!
Trúc xinh trúc đứng một mình cũng xinh!

Cái khó của bánh chưng nằm ở chổ tìm ra cái balance giữa nếp, đậu và thịt. Người thích nhiều nếp, người thích nhiều đậu. Người thích có chút mỡ, người tìm bỏ ra. Sở thích ăn uống là chuyện rất “cá nhân”, không có chuyện “rành ăn” hay không “rành ăn” ở đây. Chín người mười ý. Thôi cứ nấu theo ý mình, bởi vì nấu ăn cũng là chuyện “cá nhân”. 

Một bà làm cùng sở có chồng người Nhật mở một tiệm ăn chuyên về thịt gà rất nổi tiếng trên Los Angeles, một ngày kia Jane Fonda đến ăn. Jane Fonda muốn lấy da gà ra trước khi nấu và người bếp làm theo, nhưng rồi ra gặp Jane Fonda sau khi xong bữa ăn và nói vì bà lần đầu đến đây nên tôi chìu bà mà lấy da gà ra, nhưng lần tới tôi không làm như thế nữa vì đó là cách tôi nấu thịt gà, nếu bà không thích thì bà không cần phải trở lại. 

Mấy mươi năm trước khi cuộc chiến Việt Nam bùng phát dữ dội, “chị Jane” qua thăm Hà-Nội, mặc đồ bà ba, đội mũ cối, tươi cười ngồi trên dàn súng phòng không. Dĩ nhiên là chị được chiêu đãi hoành tráng, nhưng không biết có thịt gà không và “chị Jane”có bảo họ bỏ da gà ra vì ăn da gà không tốt cho sức khỏe của chị! 

Ngày xưa, người ta nhớ tới Ông Đồ Già mỗi lần Tết đến, ngày nay mình nhớ mấy cái YouTube của những nhóm sinh viên ở Sài-Gòn, tụ lại với nhau nấu bánh chưng bánh tét rồi đêm đến đem phân phát cho những người không nhà không cửa sống lây lất trên vĩa hè. Thấy người nào cũng vui, cũng đẹp và gói bánh cực kỳ giỏi. Chỉ mong một ngày nào về cùng gói bánh với họ, rồi theo họ đi “giao hàng”. Mình không biết gói bánh tét nhưng chắc học cũng mau thôi vì đã có “căn bản” rồi. Và chắc là sẽ rất “vui”.

**


Ông
manager phụ trách một shopping center của công ty vừa ghé lại hỏi tại sao không ghé lại lấy cái nồi đã để sẵn ở office của Ông. Có một tiệm ăn ở shopping center nầy dọn ra nhiều năm trước để lại nhiều vật dụng, trong đó có cái nồi nấu xúp rất lớn mà Ông giữ lại để dành cho mình, đủ để nấu mười mấy cái bánh chưng mà không sợ nước tràn ra ngoài và khỏi phải canh chừng để châm thêm nước mỗi vài giờ. Ông tử tế vì ông là người…tử tế, không phải vì có lần ông ghé qua bàn công chuyện, thích tấm ảnh hai vợ chồng đang bắt ốc giữa giòng sông Irrawaddy ở Miến Điện mình phóng lớn treo trên tường và muốn một tấm, rồi mấy hôm sau ghé lại cám ơn tấm hình nhận được, thấy cái khung hình trống trơn nằm trong góc phòng. Ông nói năm nầy cho ông một cái để biết nấu cái gì mà năm nào cũng hăm hở nấu. Chắc gói riêng cho ông một cái nhỏ thôi, vì nghe đâu ông ở một mình sau ba lần ly dị.


blank

Sông Irrawaddy, Miến-Điện.


Tuần rồi mấy ông tướng Miến-Điện lại đảo chánh. Đây là xứ sở Phật Giáo, với những ngôi chùa đồ sộ thay lớp vàng dát trên tháp mỗi bốn năm, với cả hàng ngàn ngôi đền chen chúc ở Bagal. Thế mà, bên ngoài những bức tường cao kiên cố vây bọc dinh thự của mấy ông tướng là những người phụ nữ ốm yếu, đội trên đầu thúng đá vá đường với mức lương nghe đâu khoảng bốn mươi xu Mỹ mỗi ngày và còn cho là
overpaid! Những ông tướng nầy và gia đình họ chắc là đi chùa, tụng kinh niệm Phật thường xuyên, thế thì họ cầu nguyện, tu tập điều gì? 



Giữa sân một khách sạn ở Mandalay, xứ sở của những ngọn núi đá cẩm thạch mà những viên tướng nầy đang cấu kết với thương lái Trung Quốc cướp bóc, có một tảng đá lớn với tấm bảng bên cạnh ghi trị giá hơn hai triệu đô la Mỹ. Nếu không cắt ra thì đó chỉ là một tảng đá thô, không ai biết cẩm thạch. Phải chi thay tảng đá vô dụng xấu xí, choán chổ nầy bằng một trường học, trường dạy nghề hay bệnh xá thì phước đức biết bao. 

Đến thăm người bạn có công ty du lịch ở Miến Điện và nhiều nước Đông Nam Á.  Anh nói anh thích người Miến nhất vì họ rất thông minh và hiền hòa. Mấy năm trước qua đây hơn một tuần mà ở trên tàu chạy dọc theo ông Irrawaddy mất mấy ngày rồi, nhưng cũng có dịp tiếp xúc với nhiều người Miến, trở về sống trên đất nước mình sau thời gian làm việc ở Singapore dù có chức vụ cao và lương bỗng hậu hĩ. Một xứ sở như thế mà chịu quá nhiều tai ương. Sau một thời gian dài tự phong tỏa, vừa khá lên chút là bị thế giới lên án vụ Rohingya, rồi COVID và nay đảo chánh…Những người làm việc cho người bạn vô cùng khốn đốn.  Mình quá hoang mang, hay là Chúa đã bỏ loài người, Phật đã bỏ loài người…(t.c.s.)



 blank

Bagal, Miến-Điện


**


Ông
manager tử tế nhớ đến ngày Tết để cho mình mượn cái nồi nấu bánh chưng còn dạy mình không biết bao nhiêu điều: nuôi cá koi ra sao, làm cái biological filter như thế nào mới đúng để nước cho trong. Có lần làm cây cầu bắt qua hồ cá, chỉ mua gổ, design chút ít rồi đem vào nhờ ông cắt, mình chỉ đem về đóng lại, sơn lên là xong. Nhưng ông đâu phải là người tử tế duy nhất ở đây. Ở đây ai cũng tử tế. Mình ngồi thấp mà nước thì chảy chổ trũng nên may mắn mọi bề. Ra khỏi cửa bên tay phải là mấy ông kiến trúc sư, có ông giúp design cái studio của mấy người con thành hai cái sleeping compartment. Bên trái là mấy người CPA, có thắc mắc gì việc thuế má, vay nợ mới, đầu tư…cứ “vô tư” hỏi. Cách mấy phòng là chổ của mấy người luật sư, có người giúp sửa lại tờ thỏa thuận với người tông xe mình để bảo đảm là mình không gặp rắc rối về sau. Bên kia parking lot là nông trại, cần ít đất trồng cây là họ xúc vào mấy cái container đễ sẵn cho. Có lần rũ người làm vườn trồng thử dưa hấu vuông như nên Nhật coi ra sao. Ai cũng giỏi trong lãnh vực của mình mà không lấy việc hơn người khác làm mục tiêu ở đời. Nhiều khi không khỏi lo bởi mình chẳng có chi đền bù cho sự tử tế của họ. 

Chính vì thế mà đã mấy mươi năm qua, ít có ngày nào thức dậy lại không muốn vào sở làm. Có quá nhiều điều mới để được hỏi, được học, được làm hằng ngày, để cải thiện bản thân, để hơn chính bản thân hôm qua, như cái mantra một người bạn vừa text cho và đã in ra treo trên cái pc monitor: Don’t try to be perfect. Just try to be better than you were yesterday!

Đến tuổi nầy “mà lòng phơi phới dậy tương lai (t.h.)” thì mất nết quá. 


**


Mấy tháng ở trại tỵ nạn sau khi tàu chìm tạt vào Thai Lan là dịp Tết. Thấy có gia đình bên cạnh sửa soạn nấu bánh chưng nên hỏi xin mượn cái thùng khi họ nấu xong. Cái khuôn thì đã có rồi, làm bằng một miếng gổ lấy từ chiếc tàu mình đi vượt biên bị vỡ chìm nằm nửa trên nửa dưới trên bờ và vẫn còn giữ tới bây giờ. Người hàng xóm có cái nồi nấu bánh chưng, nghe giọng mình nặng nề trọ trẹ, nói: “thôi cậu ơi, bày đặt học nấu bánh chưng làm gì cho mất công. Bánh chưng là của chúng tôi. Để tôi nấu xong cho mấy cô cậu một cái ăn cho biết…” Không thể không đồng ý với ông hàng xóm nầy, ẩm thực là vấn đề văn hóa. Thử tưởng tượng mình học được cách nấu phở, bạn bè đến ăn khen ngon khuyên nên mở tiệm kẻo bỏ phí “tài năng”, thế là mở tiệm phở, lại còn treo một cái bảng quãng cáo “
Phở Bắc chính gốc” thì có chướng không. Như có người đã nói như thế nầy khi so sánh phim cao bồi Mỹ với phim cao bồi Ý: “Phim cao bồi Ý súng nổ nhiều hơn, đào đẹp và sexy hơn, ngựa phi nhanh hơn…nhưng thiếu một thứ không bao giờ có thể có: bụi Texas…

Nhưng bánh chưng thì có thể là chuyện khác, ngoại lệ. Người hàng xóm nấu xong gọi qua lấy thùng và cho một cái bánh chưng. Tới phiên mình nấu xong đem thùng qua trả và “lại quả” ông một cái. Không nghe ông nói chi về bánh chưng từ đó…  


 **


Đi ra
park có sân tennis đánh vào tường kiếm chút mồ hôi trước khi tới sở làm. Mừng gặp lại hai anh Việt-Nam hiền lành, vui vẻ.

Đây là hai người mình gặp lần đầu ở đây mấy tuần trước. Một anh đứng nhìn mình tự tập một hồi lâu rồi bước đến nói mình đánh sai ở chỗ nào, tại sao sai. Chi cũng sai cả: forehand, backhand, volley, drop shot, down the line…Té ra, đánh đã mấy chục năm, đọc bao sách vở, coi bao nhiêu video mà vẫn không biết cái sai, cái dở của mình. Từ đó, mỗi khi ra đây may mắn gặp anh, anh chỉ dạy tận tình. Có khi mình đánh trả lại bị hư, banh ra ngoài hay dính lưới, anh lại còn xin lỗi, nói là tại anh đưa banh qua không chính xác! 

Anh kể vừa mới đươc chích COVID vaccine dù anh chưa tới sáu mươi lăm tuổi vì anh đưa đón bệnh nhân tới phòng mạch hay nhà thương  nên có phòng mạch nào đó cho anh chích. Chắc anh làm thiện nguyện thôi, có lần anh nói anh về hưu rồi vì không có “nhu cầu”. Nói chuyện vaccine rồi qua chuyện Pfizer, Moderna stock. Anh nói mỗi ngày anh mua bán năm bảy cổ phần cho vui thôi. Mới đây, anh có một niềm vui lớn hơn. Anh mua Moderna $140 một cổ phiếu và bán lại $120, chỉ lỗ có $20 một cổ phiếu thay vì lỗ $35 vì trước đó một ngày Moderna xuống còn $105.

Cần đi đâu cho xa để tìm Bồ Tát!


**


Từ nhiều năm nay, chổ làm luôn tổ chức một “sự kiện” rất lớn cho ngày Tết,
Lunar New Year, không phải Chinese New Year. Năm ngoái có cả một ngàn năm trăm người được mời. Rất may mắn vì COVID sập tới chỉ một tuần sau đó. 

Năm nay, vì không thể tổ chức “sự kiện” nên họ làm một cái virtual show và người phụ trách hỏi là nên làm gì cho phần của  cộng đồng Việt-Nam. Đề nghị họ mời vài ca nhạc sĩ Việt-Nam ở đây trình diễn bài Ly Rượu Mừng.  Có phần phụ đề tiếng Anh, để người của các nền văn hóa khác nghe người Việt chúng tôi chúc gì nhau trong ngày Tết, ngày thiêng liêng nhất trong mỗi một người chúng tôi.


Ngày xuân nâng chén ta chúc nơi nơi
Mừng anh nông phu vui lúa thơm hơi
Người thương gia lợi tức
Người công nhân ấm no
Thoát ly đời gian lao nghèo khó
Nhấp chén đầy vơi
Chúc người người vui
Muôn lòng xao xuyến duyên đời
Rót thêm tràn đầy chén quan san
Chúc người binh sĩ lên đàng
Chiến đấu công thành
Sáng cuộc đời lành
Mừng người vì Nước quên thân mình
Kìa nơi xa xa có bà mẹ già
Từ lâu mong con mắt vương lệ nhòa
Chúc bà một sớm quê hương
Bước con về hòa nỗi yêu thương

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Chị nhớ lại, vào một buổi sáng ngày cuối tháng 1 năm 1973, khi Chị đi lấy bản tin ở bên Macv về cho AP, chị thấy sao hôm nay văn phòng đông thế. Ký giả của AP và cả của NBC News bên cạnh cũng chạy qua chạy lại, Chị nghe ông chánh văn phòng nói: Viêt Nam sắp ngưng bắn rồi, sắp hòa bình rồi…” Văn phòng Associated Press xôn xao, từ ông chánh văn phòng đến các ký giả, nhân viên của AP đều hứng khởi với cái tin “Nóng bỏng” này. Chị thấy các phóng viên của các hãng thông tấn, hãng truyền hình ngoại quốc chạy hối hả sang nhau và chạy qua cả đài phát thanh Quân Đội Việt Nam để cập nhật tin tức viết bài…
Chị đi bằng xe hàng. Là dân Đà Lạt gốc Huế nên chị gọi xe đò là “xe hàng”. Đi xe hàng, tức là xe đò, là xe chở người và cả hàng chứ không chở riêng hàng. Tiếng Việt hay như vậy đó! Đến Gò Công rồi đi xe lam vào Đồng Nguơn. Ấp Đồng Nguơn. Không phải đây là lần đầu tiên chị được thấy cảnh đồng quê. Đồng quê miền nam hầu như đâu đâu cũng giống nhau. Nhưng có đi nhiều mới thấy mỗi nơi có một chút khác. Phải thế không? Hay chính là cảm giác của chị mỗi lần một khác?
Tôi ước mơ có một ngày nào đó, khi thanh bình thật sự trở về trên nước VN, khi chính thể CS hoàn toàn tan rã, khi con người công chính trở lại làm nền tảng trong xã hội mới, chúng ta sẽ trở về, những ngưới bạn từ thời xa xưa, cùng nhau làm lại một bữa tiệc Tất Niên, mời vong linh các thầy, các bạn, các anh em đồng đội đã chết trong khói lửa chinh chiến, trong các biến cố tang thương của đất nước, trong các trại tù, trên biển…cùng nhập tiệc. Kẻ đang sống cùng người thiên cổ bên cạnh nhau hoài niệm đến một miền thùy dương ngọt ngào nhân tính, một ngôi trường thân yêu giàu truyền thống giáo dục và y đức, một thành phố mến yêu thơ mộng. Để nghe những người quá cố tâm sự về cái chết oan khiên của mình. Được như vậy, hương hồn các vị đó sẽ sớm được siêu thoát và vĩnh viễn an nghỉ chốn nghìn thu. Và chúng ta đây giảm khắc khoải đau thương…
Tôi đã có bốn cái Tết trong trại Panatnikhom và Sikiew, Thailand. Tết đầu tiên thật nhiều kỷ niệm và bất ngờ, vì lúc đó chúng tôi vừa nhập trại trong khi còn hơn một tuần nữa là Tết. Tôi và ba cô bạn đi chung chưa kịp gửi thư cho thân nhân ở nước ngoài để ca bài ca “xin tiền”. Ai lo bận bịu đón Tết thì lo, còn chúng tôi thì lo đi mượn tiền để mua vài vật dụng cần thiết như tấm trải nhựa, tre nứa, dây nilon để làm “nhà” (phải “an cư” mới “lập nghiệp” tỵ nạn được chớ).Khoảng một tuần trước Tết, có một nhóm mấy thanh niên đến thăm vì nghe nói chúng tôi là dân Gò Vấp, nên muốn nhận “đồng hương đồng khói”. Họ là những người trẻ như chúng tôi, nên câu chuyện mau chóng trở nên thân mật và rôm rả
Hỏi thăm ông Hai bán hoa lay-ơn gốc Bình Kiến, nhiều người ngơ ngác hỏi nhau. Tôi lại rảo qua thêm mấy vòng chợ hoa, cũng vừa đi tìm ông Hai, cũng vừa ngắm hoa và ngắm những chậu bonsai bày bán cuối năm, cũng tìm lại mình của gần 20 năm trước, năm nào cũng cứ vào những ngày này, tôi theo ba tôi hóng gió đón sương không hề chợp mắt cùng gian hàng cây kiểng rất bề thế của ba ở đây.
Có lẽ những rộn ràng, hân hoan nhất trong năm không phải là "ba ngày tết", mà là những ngày cận tết. Bắt đầu vào ngày 23 tháng chạp, tối đưa ông Táo về trời. Tất cả mọi sinh hoạt đều hướng về việc chuẩn bị để đón một mùa xuân mới, chào đón nguyên đán và mấy ngày xuân trước mặt. Lúc nhỏ là mùi vải thơm của bộ đồ mới, mùi gạo nếp ngâm cho nồi bánh và hương thơm ngào ngạt cho sàng phơi mứt dừa, mứt bí, mứt gừng ngoài sân. Những đêm ngủ gà ngủ gật ngồi canh bên nồi bánh tét cùng với má, với gia đình xúm quanh. Mùi bếp lửa, mùi khói hương, mùi áo mới lan tỏa của tuổi thơ ngan ngát những ngày xa...
Người ta được nuôi lớn không chỉ bằng thức ăn, mà còn ở lời ru, tiếng hát, và những câu chuyện kể. Chú bé cháu của bà thích được bà ôm vác, gối đầu lên vai bà. Có khi bà mở nhạc từ chiếc nôi cho chú nghe thay cho lời hát, chiếc nôi chú bé đã nằm khi mới lọt lòng mẹ. Có khi bà hát. Bà không ru à ơi, nhưng âm điệu dân gian len vào trong từng lời hát. Chú bé mãi rồi ghiền nghe giọng hát của bà.
Lóng rày tôi hay tẩn mẩn viết về những hồi tưởng tuổi thơ, nhất là những côn trùng ngày xa xưa đó như chuồn chuồn, bươm bướm, ve sầu, dế mèn…Nhiều lúc ngồi nghĩ lẩn thẩn: tại sao vậy? Chắc đó là tâm trạng của người tuổi sắp hết đếm số, tiếc nuối những khi còn cắp sách tới trường. Cắp sách tới trường không phải là chuyện vui nhưng tuổi học trò thì vui thật. Lúc nào, khi nào, chỗ nào cũng toàn thấy chuyện vui chơi. Bạn chơi là người nhưng nhiều lúc là những côn trùng quanh quẩn bên người. Một ông bạn mới gặp nhướng mắt hỏi tôi viết về những bạn chơi nhiều hơn hai chân nhưng chưa thấy nhắc tới bạn của ông ấy. Đó là bọ ngựa. Ông này thuộc loại rắn mắt. Tôi không chung tuổi thơ với ông nhưng chắc ông cũng thuộc loại phá làng phá xóm. Ông kể chuyện ăn me chua trước mấy ông lính thổi kèn trong hàng ngũ khiến mấy ông thợ kèn này chảy nước miếng thổi không được. Tôi thuộc loại hiền nên không có bạn không hiền như bọ ngựa. Ông ta thì khoái bọ ngựa.
“Mày có vợ hồi nào vậy?” chưa kịp chào, mẹ đã ném ra câu hỏi bất ngờ. Tôi lặng thinh. Cục nghẹn trong cổ họng. Tiếng mẹ đã khàn nhưng nghe vẫn quen, vẫn gần gũi, nhưng đặm chút ngạc nhiên và thấp thoáng chút phiền muộn. Hệt như lần hỏi tôi mười mấy năm trước rằng Sao con trốn học. Đường dây điện thoại chợt kêu ù ù, như thể có máy bay hay xe vận tải cơ giới hạng nặng chạy qua chỗ mẹ đứng. Cũng có thể tại tai tôi ù. Tôi cũng không chắc lắm. Giọng nói mẹ chìm vào khối tạp âm hỗn độn. Mẹ lặp lại câu hỏi trong tiếng động cơ rì rầm. Rồi tất cả im vắng bất ngờ. “Hở con?” Mẹ nói.
Bê, con trai của Mẹ, đã theo Mẹ đến giảng đường từ thuở còn trong bụng Mẹ. Suốt thời gian đại học của Mẹ, Bê có nhiều đóng góp khác nhau theo từng thời kỳ. Khi Mẹ làm bài kiểm tra môn Đầu Tư và Tài Chính trong lục cá nguyệt đầu tiên, Bê mới ba tháng tuổi. Mẹ nhẩm tính, bài thi một tiếng rưỡi, đi về từ nhà đến trường thêm một tiếng rưỡi. Như vậy, Bê phải xa Mẹ ít nhất ba tiếng đồng hồ. Mẹ biết tính Bê, mỗi hai tiếng đồng hồ Bê oe oe đòi bú sữa Mẹ. Bê xấu đói lắm, đòi mà không được, Bê nhăn nhó um sùm. Ngày hôm đó, dì Thành đến giữ Bê. Dì Thành rất hồi hộp. Dì chưa có em bé, chẳng biết phải làm sao cho đúng ý Bê. Mẹ thi xong, phóng ra xe về nhà. Mẹ bắt đầu sốt ruột. Mẹ xa Bê đã hơn ba tiếng đồng hồ. Giờ này Bê chắc Bê đã thức giấc. Hy vọng Bê chịu khó nhâm nhi món trà thảo dược cho trẻ sơ sinh trong khi chờ Mẹ về. Thời đó chưa có điện thoại di động. Bởi vậy, có lo cũng để bụng, chứ Mẹ chẳng biết làm sao. Mẹ ba chân bốn cẳng chạy ba tầng lầu. Vừa đến cửa đã nghe tiếng Bê khóc ngằn ngặt.
Khi chơi những bản nhạc hay, Khang khóc theo giai điệu. Mước mắt chảy, tay kéo tình xuống lên, thân hình diệu dẻo theo cảm hứng. gần như mê cuồng, không biết mình là ai. Tôi cảm nhận được cái hay xuất thần nhưng không hiểu. Khang nói: -- “Cậu Út biết không, cái hay của âm nhạc làm cho lòng sung sướng nhưng cái đẹp của âm nhạc làm cho hồn cảm động. Khi món quà quá lớn, quá sức yêu, không thể cười, chỉ có thể khóc.” Tôi nghĩ, những lúc như vậy, Khang không chơi đàn, mà múa với hồn oan.
Tôi làm việc giữ xe cho một casino ở ngoại ô Toronto, gọi là parking attendant. Đó là nghề mà thanh niên ít chịu làm, phần vì lương thấp, mức tối thiểu, hồi đó 5 đồng một giờ, nhưng lý do chính là vì nó buồn. Bãi đậu xe nằm dưới hầm tối, không nhìn thấy người qua lại, nếu ở ngoài trời cũng sau lưng nhà cao tầng. Không ai làm chỗ đậu xe ở khung cảnh xinh đẹp, nơi ấy dành cho hàng quán. Đi học ban ngày, tôi làm thêm ban đêm là việc thích hợp, có thể thỉnh thoảng ngồi học bài. Nhân viên trong phiên gác trước tôi là cô gái bằng tuổi hoặc cùng lắm lớn hơn một hai tuổi, nhưng không hiểu sao cô vẫn có thói quen gọi tôi là em và xưng chị.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.