Hôm nay,  

Chiến Trận

19/03/202109:30:00(Xem: 3941)


Mẹ nói:


“Không ngờ, mẹ có được một đứa con là bác sĩ rất kiên cường.”


“Con không biết mình có kiên cường không Mẹ à!”


Đôi mắt Ái chớp nhanh để ngăn nỗi xúc động. Ái lảng sang chuyện khác:


“Mẹ ơi! Sao Mẹ lại mong có con làm bác sĩ hở Mẹ?”


“Mẹ không vì giàu, vì danh, mà chỉ vì Mẹ nặng một lòng biết ơn các bác sĩ. Nói chung là bác sĩ, y tá và những người làm trong ngành Y con ạ!”


“Mẹ nói đúng. Nếu không có y tá và các nhân viên khác, thì bác sĩ khó lòng làm tròn công việc của mình.”


Ái mang đĩa thức ăn của mình về bàn. Cái bàn ăn khá rộng, hai mẹ con ngồi hai đầu. Hình như đã thành một thói quen rồi, không ngồi kế bên nhau như trước kia. Hai chữ “cách ly” có ý nghĩa như một hành động vì an toàn, không phải nghĩa xa cách tình cảm. Con người thật lạ, Ái nghĩ vậy. Kho tự điển không có thêm chữ mới, mà có thêm nghĩa mới.


Trong bữa cơm hiếm hoi được ngồi cùng nhau, mẹ và Ái ôn lại chuyện một năm qua. Thế mà đã được một năm! Một năm thay đổi hẳn cuộc sống của mọi người! Thế giới có hơn 100 triệu người mắc bệnh, hơn 2 triệu rưỡi người tử vong. Những con số biết nói. Mỗi con số nhích lên là một sinh mạng!


Mẹ nói với giọng bâng khuâng:


“Từ khi còn nhỏ, mẹ đã có ý nghĩ quý trọng những vị bác sĩ. Ngày xưa, ở xứ mình, đa số người ta chỉ đến bác sĩ khi bị bệnh thật nặng. Do đó, vị bác sĩ được coi như ông tiên hay bà tiên cứu sống mình vậy. Hồi năm tuổi, con bị bệnh sốt xuất huyết. Thời đó, bệnh sốt xuất huyết và bệnh bại liệt là nỗi kinh hoàng của các bậc cha mẹ. Bệnh bại liệt thì có vaccine để ngừa, nhưng sốt xuất huyết thì không. Hôm mẹ ở với con trong phòng cấp cứu của bệnh viện Nhi Đồng, mẹ tận mắt chứng kiến một đêm không ngủ. Các bác sĩ, y tá, nhân viên và các sinh viên Y Khoa thực tập làm việc không ngừng tay. Họ cũng như những người mẹ theo dõi từng giọt dịch truyền, từng nấc lên xuống trên nhiệt kế đo thân nhiệt của những đứa con đang nóng sốt.”


“Mẹ, chỉ khi con ra trường, con mới biết là Mẹ thích có con làm bác sĩ.”


Mẹ cười:


“Thì bởi vì Mẹ không muốn tạo áp lực cho các con, Mẹ muốn các con tự do chọn ngành mình theo học. Điều Mẹ muốn, Mẹ không nói khiến các con khó nghĩ.”


“Hi hi, Mẹ đúng là bà mẹ tân thời.”


“Mẹ chưa già mà lị!”


Ái nghe cảm động. Hiếm hoi có một bữa cơm Ái được ngồi ăn thức ăn do Mẹ nấu. Ngày nào cũng là những ngày vội vã. Có được phút nào thong thả là ngủ vùi cho lại sức rồi lại vội vã ra đi. Mà cũng đâu phải lúc nào Mẹ cũng có thì giờ kể chuyện ngày xưa như hôm nay. Công việc của Mẹ cũng bộn bề…


“Lúc đó con còn nhỏ quá, nhưng con vẫn nhớ tới bây giờ, ngày con mê man trong bệnh viện. Con thấy đủ loại giấc mơ, có lẽ vì do sốt cao quá. Có lần thức giấc, con thấy ông bác sĩ đang khám bệnh cho con. Con tưởng như ông ấy là một ông tiên áo trắng…”


“Thì là ông tiên thật đó! Cả bệnh viện ai cũng mến phục ông. Nhưng ông ăn nói rất thẳng thắn. Ông sẵn lòng chê trách những bà mẹ coi thường lời căn dặn của ông. Căn bệnh sốt xuất huyết rất tai ác, con ạ! Nó lấy mạng sống của nhiều trẻ con.”


Rồi Mẹ rơm rớm nước mắt, nhắc đến một vị bác sĩ có con chết vì bệnh này. Đứa bé nằm giường ngay bên cạnh giường của Ái. Trước khi chết, đứa bé còn nói líu lo. Người cha bác sĩ đau lòng vì con, nhưng khi rời phòng bệnh, ông vẫn trấn an các bậc mẹ cha và chúc lành cho các cháu ở lại.


Còn một khía cạnh khác mà Mẹ thường không muốn nhớ, đó là đời sống của con người trong hoàn cảnh xã hội lao đao. Có người nói rằng tiền bác sĩ lãnh được sau một cuộc giải phẫu chỉ ăn được tô phở, hoặc chua chát hơn, so sánh một “ca” mổ ruột, bác sĩ lãnh tiền không bằng một người thợ vá một cái ruột xe. Có vẻ phóng đại quá chăng? Nhưng đó là thực tế. Nhiều vị làm trong ngành Y không ngần ngại nhận bao lì xì trước khi làm nhiệm vụ. Xã hội tập cho họ có thói quen như vậy, lâu dần trở thành một nhu cầu không thể thiếu. Nhưng may mắn thay, vẫn còn những người không để mất lòng tự trọng, vẫn không để mất phẩm giá, không lao theo thời trang.


“Ngược về trước nhiều năm, có những hình ảnh làm Mẹ ghi nhớ lắm con ạ! Hồi đi học, Mẹ có lúc đến thăm thương bệnh binh. Mẹ nhìn mấy ông bác sĩ quân y, thấy cũng hơi sợ, vì trông các ông nghiêm nghị, khắc khổ lắm. Có lẽ vì thường xuyên ra trận, đối diện với cái sống chết trong gang tấc của những người lính, nên ít khi các ông cười.”


“Thật vậy hở Mẹ?”


“Ừ. Vậy chứ mấy ông cũng tình cảm lắm, chỉ có điều là họ giấu thôi! Một lần tình cờ Mẹ thấy ông bác sĩ quân y rơi nước mắt khi một người thương binh đau quá khóc gọi mẹ của anh ấy. Nỗi đau của con người, dù là tinh thần hay thể xác, không ai gánh giùm ai được.”


Ái khẽ nói:


“Con đi đây Mẹ!”


“Lại đi hở con?”


“Dạ. Số người nhiễm có giảm, nhưng người ta vẫn chết vì bệnh này. Tụi con còn mệt nhiều.”


Mẹ lắc đầu, mắt trĩu nặng. Mẹ dặn dò như mọi lần:


“Con cẩn thận.”


“Mẹ cũng vậy nhé! Có ai đến, Mẹ nhớ mang mask vào rồi hãy nói chuyện.”


“Mẹ biết. Con này, Mẹ không hiểu sao, chỉ một việc đơn giản như vậy, bảo vệ mình, bảo vệ người, mà nhiều người không muốn làm.”


Ái thở dài:


“Họ có cái lý của họ. Họ nghĩ đó là cái quyền của họ mang mask hay không. Họ không sống trong hoàn cảnh những người bị bệnh. Họ không thông cảm cho những người phải làm việc như tụi con.”


Ái rùng mình. Phải, một năm trôi qua như cơn ác mộng! Nhiều người cho đến lúc bệnh nặng rồi, vẫn không tin tại sao mình bị bệnh. Họ nói họ không tiếp xúc với ai, vậy con virus từ đâu mà đến? Không chỉ người già hay người suy yếu vì có sẵn bệnh, mà cả thanh niên tràn đầy sức sống cũng mắc bệnh. Làm việc trong phòng ICU, Ái như người đồng hành với bệnh nhân giành giật sự sống. Khi thất bại, Ái như cũng đồng hành với họ trong lúc họ ra đi. Rồi Ái phải đứng lại. Họ đi một mình.


Một lần, Ái ngồi bên người bệnh là một ca sĩ. Ai biết được đàng sau mớ dây nhợ và ống thở, là một giọng hát thanh tao! Cô có vẻ muốn hát. Nhưng đã hết! Tiếng chim ríu rít quyến rũ đã được thay bằng tiếng thở khò khè, và lịm dần như ánh nến leo lét chìm vào vũng tối. Một lần, Ái ngồi bên người bệnh là một nhà thơ. Những ngón tay run run cử động như muốn viết. Nhà thơ không còn đủ tỉnh táo để mơ mộng. Tất cả chung quanh nhà thơ chỉ là một tấm màn u uất. Trong những ngày căng thẳng cao độ, Ái chứng kiến cảnh phòng bệnh với những dãy giường mới mang tới, chính là garage đậu xe của bệnh viện, cảnh hàng dài những xe cứu thương chờ chuyển bệnh nhân vào phòng cấp cứu nhưng không còn chỗ, phải chờ cả mấy tiếng đồng hồ. Thương tâm hơn nữa, nhà xác cũng hết chỗ. Thi hài của những người chết đã được gói kín, sắp xếp lên các ngăn kệ của phòng lạnh dã chiến, có khi là trên những chiếc xe vận tải lạnh. Họ nằm chật chội, lớp lớp, hàng hàng… 


Phải, một năm trôi qua như cơn ác mộng. Chết vì Covid có đáng hay không? Không đáng chút nào. Nhưng nhiều người đã chết. Cuối Tháng Hai, nước Mỹ đã mất nửa triệu người.


Có nhiều lúc Ái không dám nhìn mình trong gương. Mở chiếc “khẩu trang” ra, Ái choáng váng vì dưới hai mắt và hai bên má của mình như bị biến dạng: kết quả của việc thường trực đeo mask ngày cũng như đêm. Những phiên trực làm mặt mũi xanh xao. Hết trực, Ái phờ phạc tìm đến giấc ngủ, hy vọng lấy lại sức lực. Nhưng trái lại, Ái rơi vào tình trạng mất ngủ kinh niên. Ái sợ rằng mình rồi cũng sẽ mắc bệnh!


Một người bạn khá thân chia sẻ rằng bạn được làm việc ở nhà, vì công việc văn phòng có thể mang về nhà, không cần đến sở. Bạn tỏ ý lo ngại cho Ái. “Ái ơi, mình biết “work from home” là may mắn lắm. Có những việc không thể làm ở nhà, như Ái đó! Ái đối diện với mối nguy hiểm từng giờ.” Bạn cũng giả dụ nếu có thể chọn lựa, bạn thà chết vì đau tim hơn là chết vì COVID Bạn nói đúng. Cái chết vì COVID đau khổ biết bao! Người chết vì COVID cô đơn biết chừng nào!


Vẫn như có sẵn định mệnh cho từng người, không ai chọn lựa được đâu! Ai mà biết được mình sẽ chết vì cái gì, chết lúc nào và chết ra sao? Có lẽ vì đã chứng kiến quá nhiều người chết nên Ái có một cách nghĩ cho riêng mình. Đó là làm việc bằng tinh thần của một người lính. Giường bệnh là chiến trận. Người lính chỉ có một con đường là chiến đấu. Khi bại trận, người lính ngồi ôm mặt khóc. Khi chiến thắng, chào tạm biệt bệnh nhân xuất viện bằng tiếng vỗ tay và lời reo mừng. Mạng sống con người vẫn luôn quý giá!


Ái khẽ nói:


“Con đi đây Mẹ!”


“Ừ, con đi.”


Ái cười:


“Mẹ yên tâm, không đến nỗi như trước đâu! Mình đã được chích vaccine rồi.”


Mẹ gật đầu, nét mặt Mẹ vui:


“Phải, cơ thể của mình đang “sản xuất” chiến binh để chống giặc. Nói ráng một chút con nghe, ngày xưa, con nít như Mẹ làm quen với vaccine lần đầu trong đời là “trồng trái” để ngừa bệnh đậu mùa. Eo ơi, người ta dùng cái ngòi bút thấm thuốc rạch lên da mình mấy vết nghe ớn. Ai cũng lãnh sẹo vì “trồng trái” để khỏi bị cái bệnh tai ác đó. Có người còn bị mưng mủ, hành lên hành xuống. Dân mình nghe chích vaccine là mừng lắm. Họ biết tin tưởng vào khoa học. Chưa bao giờ nghe nói đến chuyện chống vaccine.”


Hai mẹ con không hẹn mà cùng thở dài, rồi cùng cười.


“Con đi đây!”


Biết trước rằng khi vào bệnh viện, Ái lại cũng sẽ đối diện với những cảnh ngộ đau lòng. Tuy vậy, tâm trạng có phần nhẹ nhàng hơn trước, với ý nghĩ mình đã có “cái nhà máy sản xuất chiến binh chống giặc” trong người. Có một chút hy vọng! Lúc trước, đi ra khỏi nhà cũng là như người lính đi ra mặt trận, nhưng chuẩn bị tâm lý sẵn sàng. Có khi không được về nhà vì phải “cách ly” đúng nghĩa. Cũng có thể mãi không được về.


Cuối Tháng Hai, 2021

Cam Li Nguyễn Thị Mỹ Thanh

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Sau khi ghé thăm Thành phố Baltimore thuộc Tiểu bang Maryland, hôm nay chúng tôi lại tiếp tục cuộc hành trình để đến thăm Tiểu bang Pennsylvania, một tiểu bang rộng lớn, trù phú, có nhiều cảnh đẹp và di tích lịch sử của quốc gia Hoa Kỳ...
Ngày Thước bước ra, nàng không mang theo bất cứ thứ gì nàng đã sắm trong tám năm. Nhờ nàng, Thụy có ê hề những thứ nàng để lại, nào bàn, ghế, sô pha. Những TV nhỏ, lớn. Những hình, ảnh, những giỏ hoa, nàng thường để trên bàn trang điểm, vẫn còn...
Hải đảo Ga Lang vào thời điểm 1978. Hải âu bay rợp trời. Cơm xấy, cá khô, đậu hộp và là những món ăn quen thuộc của người việt tị nạn trên đảo. Cứ đến giờ là mọi người xếp hàng đi ăn, có khi không phải là đói mà vì cả thói quen, kể cả thói quen chờ đợi, chờ đợi được làm giấy tờ. Chờ đợi được ra đi đến một quốc gia nào đó… Mỹ, Pháp, Úc, Đức… đâu cũng được thôi. Quê hương Việt Nam đã rời bỏ đi rồi, thì nổi trôi đến đâu bám tới đó...
Vài tháng nay rất nhiều bạn bè thân hữu, và nhiều sinh viên, học trò cũ, những người đã từng ngồi chung giảng đường với Nhà Tôi điện thoại hay điện thư hỏi thăm chúng tôi nhưng chúng tôi không đủ sức khỏe cũng như thì giờ để đáp lễ từng người xin Quý Vi thông cảm và vui lòng tha lỗi. Cũng xin hết lòng cảm ơn Giáo Sư Tiến Sĩ Tr. H. Bích, người rất uyên bác văn chương kim cổ đã có nhã ý muốn nhuận sắc bài viết, nhưng biết Ông rất bận rộn nên tôi không dám làm phiền Ông.
Lúc đầu tôi không biết chị bị bệnh tâm thần. Về sau tôi được nghe kể về cuộc đời của chị từ một người phụ nữ Việt Nam khác, tên Loan, đã sống ở đây nhiều năm. Nhưng những chi tiết về cuộc đời ấy hầu như ngay tức khắc trượt ra khỏi trí nhớ của tôi, tôi chỉ còn nhớ người phụ nữ mắc bệnh ấy sống ở thành phố này có lẽ ít nhất cũng hai mươi năm, nhiều người bảo chị khá đẹp khi còn trẻ, bây giờ nhìn cũng vẫn hình dung được điều đó...
Bầu không khí trong phòng giam lúc nào cũng ngột ngạt khó chịu. Nỗi khó chịu ấy cứ liên tục bao trùm đến nỗi mọi người phải quen đi như một lẽ tất nhiên. Tôi càng khổ sở hơn nhiều vì đã vướng phải bệnh ghẻ mấy tháng nay. Ghẻ mỗi ngày mỗi lan ra trên tấm thân gầy còm của tôi kéo theo luôn cả sự tàn tạ về sức khỏe. Mới vài hôm đây tôi lại mắc thêm chứng tê bại, cử động tay chân rất khó khăn. Thuốc men quá thiếu, ăn uống cũng quá thiếu, tình trạng chữa trị đối với tôi thật là bi quan...
Mùa xuân 2023. Ngoài chuyện nhớ lại mùa xuân cách nay 48 năm với “Tháng Ba Gãy Súng” (1) và “Tháng Tư Mất Nước” (2) tôi còn nhớ đến nhiều chuyện khác nữa, nhớ nơi tôi sinh ra, nhớ nơi tôi lớn lên và học hành, nhớ nơi tôi từng công tác, nhớ Sài Gòn, nhớ Đà Lạt, nhớ Nha Trang, nhớ Cần Thơ, nhớ An Giang, nhớ đèo Hải Vân, nhớ sông Vàm Cỏ…và nhớ nhớ nhiều lắm. Nằm trong bộ nhớ của tôi còn có rất nhiều người bạn – bạn thân – bạn rất thân nữa. Một người bạn rất thân là Nguyễn Đức Quang, cùng xứ, cùng trường, cùng chơi Hướng Đạo, cùng hát Du Ca…
Từ ngày ông bà cha mẹ rời miền Bắc 1954, mãi gần 70 năm sau, ngày 18 tháng hai, năm 2023, khi tôi cũng gần nửa đời người, mới lần đầu tiên được về thăm quê cha đất tổ. Đáp xuống sân bay Nội Bài vào xế trưa. Hà thành bận rộn đông đúc hơn là tôi đã mường tượng. Sau buổi chiều dạo quanh Hồ Tây, thăm các phố phường, thưởng thức vài đặc sản của Hà Nội, chúng tôi lên xe có giường nằm để ngủ qua đêm, bắt đầu cuộc hành trình trở về cội nguồn của… yêu thương. Xe chạy suốt đêm. Nhìn ra ngoài chỉ toàn một màu đen xen kẽ những chấm đèn vàng. Mọi người trên xe ai cũng có vẻ ngủ say,… Riêng tôi thì lòng lại cứ nôn nao bồi hồi khó tả!
Có thể nói ai cũng có lần nói lái ở trong đời, đôi lúc chỉ vô tình thôi. Nếu bạn buột miệng nói “đi giữa trời nắng cực quá” hoặc khi đèn điện không sáng mà bạn nói “điện sao lu quá chừng”, người nghe sẽ cho là bạn nói tục, có oan cũng đành chịu vì, dù bạn không cố ý nhưng nắng cực, điện lu nói lái nghe tục thật. Tương tự như thế, hãy cẩn thận đừng nói dồn lại, dồn lên, đồn láo, đồn lầm…
Không biết có phải do được học tập và làm việc trong môi trường lập trình điện toán nên tôi cứ nghĩ rằng mọi việc xảy ra trên thế gian này đều được an bài qua việc lập trình sẵn. Có người cho rằng sự lập trình sẵn này là định mệnh, là do ông trời sắp đặt hay do thượng đế an bài. Tuy nhiên, sau khi được tiếp cận với giáo lý nhà Phật, tôi cho rằng không ai lập trình sẵn cho cuộc đời mình, tất cả đều do nhân duyên.
Cách nay mười năm tôi có một chuyến sang Nhật Bản vào mùa xuân. Chọn đi vào dịp này là để xem anh đào ngoài chuyện viếng các thắng cảnh nổi tiếng như núi Phú Sĩ, Kim Các Tự, các đền đài, cổ thành, hào lũy… qua các thời trị vì của các tướng quân cũng như thăm một số thành phố như Tokyo, Kyoto, Kobe, Nagoya, Osaka…
Hễ mỗi lần nghe nói ai mới qua định cư xứ tự do, mà họ bày tỏ lòng biết ơn, cảm kích với quê hương thứ hai, tôi cũng thấy mát lòng mát dạ sao á!


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.