Hôm nay,  

Tùy Bút: Chiều Tưởng Nhớ

27/03/202111:12:00(Xem: 3237)

 

Để tưởng niệm nhà thơ Mây-Ngàn

Sông Hương Huế - Vẻ đẹp sơn thủy của xứ Huế

Tiếng chuông chùa đòng vọng, vang xa trong không gian buốt lạnh của một chiều cuối Đông khiến quang cảnh quanh chùa trông thật tịch liêu. Mặt trời nghiêng về phía quê xưa. Những tia nắng mong manh nhẹ nhàng ve vuốt từng phiến đá gầy trước sân chùa. Khung cảnh này gợi nơi hồn tôi những câu thơ rất gợi cảm của Mây-Ngàn: 

Nắng có màu không? Tím lẫn hồng?

Hay nắng không màu, nắng rất trong!

Nắng về tươi thắm ngàn hoa thắm

Sưởi ấm lòng ai chiều cuối Đông.


Lúc này, đối với tôi, bút hiệu Mây-Ngàn cũng như bút hiệu của nhiều nhà văn/nhà thơ tôi quý mến chứ không có gì khác biệt. Nhưng khi vào trong chánh điện, thấy ảnh và bài vị đặt giữa chánh điện tôi mới bàng hoàng xúc động để nhận thức được sự thật mà suốt mấy tuần qua tôi cứ cố tình chối bỏ: Mây-Ngàn Nguyễn-Phúc Bửu-Châu không còn nữa!


Bằng hữu thường gọi Anh một cách thân mật là Anh Châu hoặc là Anh Bữu-Châu chứ ít ai gọi Anh là Mây-Ngàn hay là bác-sĩ Bửu-Châu.


Từ ngày quen biết Anh, tôi hầu như quên bẳng Anh là một y-sĩ mà tôi chỉ nghĩ anh là một nghệ sĩ; một nghệ sĩ tài tử rất nặng lòng với bạn hữu và văn học nghệ thuật. Khi ngồi lặng lẻ trong chánh điện, nghe bạn hữu nói về Anh tôi mới tỉnh trí để “nhìn lại Anh” ở một góc độ mà tôi đã vô tình quên bẳng:


Bác-sĩ Bửu-Châu tốt nghiệp Y-Khoa bác-sĩ năm 1968. Anh không bị trưng dụng vào Quân-Y vì lý do sức khỏe. 


Năm 1974 bác-sĩ Bửu-Châu thi đậu văn bằng Master of Public Health tại Singapore và Anh về dạy tại trường Đại-Học Y-Khoa Huế. 


Năm 1975, di tản sang Mỹ, Anh định cư tại Mississippi. Tại đây, Anh nhận chức Medical Health Director. Sau một thời gian Anh trở thành Assistant District Health Officer for the Mississippi Department of Health. 


Năm 1979 anh dời về Houston, làm giáo sư phụ giảng tại Baylor College of Medicine. Một thời gian sau Anh về làm việc cho tòa thị chính Houston với chức vụ Chief of Health Department for the City of Houston. Anh đậu “Board” về Y-Khoa phòng ngừa. Chính bác-sĩ Bửu-Châu thành lập chương trình y-tế chuyên lo về bệnh viêm gan (Hepatitis) cho người Á-Đông. 


Mấy năm sau cùng Anh chuyển sang quận hạc Harris, giữ chức vụ Harris County Acting Deputy Director. Sau đó Anh trở thành Director of Heath Department cho đến khi Anh nghỉ hưu. Anh nhận được rất nhiều bằng khen thưởng của chính quyền và các trường đại học. (1)


Là một người rất năng động và nặng tinh thần xã hội và giáo dục, bác-sĩ Bửu-Châu dùng thời gian hưu trí của Anh vào việc tham gia vào tổ chức Khuyến-Khích Tự Lập để nâng cao giáo dục tại Huế. Tổ chức này đang xúc tiến việc xây cất nhiều trường học tại Thừa-Thiên. Trong thời gian này bác-sĩ Bửu-Châu được đại học Y-Khoa Saigon mời làm giáo sư thỉnh giảng và Anh đã nhận lời.


Sau vài tháng trở lại Mỹ để theo dõi tình trạng sức khỏe, Bác-Sĩ Bửu-Châu lâm bệnh, phải ra, vào bệnh viện nhiều lần. Đến tháng 11-06 bác-Sĩ Bữu-Châu cảm thấy khỏe hẳn nên quyết định về lại Việt-Nam để tiếp tục thúc đẩy công việc của tổ chức Khuyến-Học Tự Lập – mặc dù các bạn đồng môn với Anh đều khuyên ngăn Anh nên đình hoản chuyến đi này.


Vào ngày 23 tháng 01 năm 2006, trong một cuộc họp, cô Quỳnh-Trang, một thành viên trong nhóm Khuyến-Khích Tự Lập, đã tường trình rất nhiều chi tiết về những hoạt động của nhóm với bác-sĩ Bửu-Châu. 


Sau đó Quỳnh-Trang đưa bác-sĩ Bửu-Châu viếng thăm hai trường mẫu giáo đã hoàn tất.


Bốn giờ 20 chiều, Quỳnh-Trang đưa bác-sĩ Bửu-Châu về nhà Anh, tự dưng Quỳnh-Trang cảm thấy không an tâm. Quỳnh-Trang hỏi thăm tình trạng sức khỏe của Anh. Anh bảo vẫn khỏe. Về đến nhà cô, 04 giờ 45, Quỳnh-Trang cũng vẫn không an tâm, cho nên cô điện thoại đến tư thất bác-sĩ Bửu-Châu để vấn an. Không ai trả lời điện thoại.


Hôm sau, ngày 24-01-06, lúc 02 giờ chiều, Quỳnh-Trang nhận được tin bác-sĩ Bửu-Châu qua đời.


Bác-sĩ Bửu-Châu qua đời ngay trong ngôi nhà mà Anh đã được sinh ra và lớn lên.


Trong khi bạn hữu tiếc thương và nhắc lại những hoạt động không ngừng nghỉ của bác-Sĩ Bửu-Châu trong địa hạt y tế, xã hội và giáo dục thì - như phần dẫn nhập tôi đã thưa - tôi lại nghĩ đến nếp sống nội tâm mà Anh vô tình hé lộ:

 

Đường đời đó, vinh quang hay tủi nhục

Còn lại gì? Danh vọng cũng tàn phai.

Khi xuôi tay, cát bụi mảnh hình hài

Không hay có cũng chỉ là ảo tưởng!

Tôi không hiểu làm thế nào một người rất tích cực trong cuộc sống - như Anh - lại mang một tư tưởng nặng triết lý Phật-Giáo đến như vậy! Tôi không nghĩ Anh yếm thế; bởi vì một người yếm thế không thể nuôi dưỡng được trái tim chan chứa tình yêu:


Nói yêu em, lời nào cho hết ý?

Tình mênh mông như sóng biển trào dâng.

Hồn tương tư nên ngây dại bâng khuâng

Cho nhung nhớ nghẹn ngào đêm cô tịch...


Trong Anh, tình yêu đôi lứa nhiều khi dạt dào, mênh mông, tha thiết; nhưng trên hết vẫn là tình yêu cao cả Anh dành trọn vẹn cho quê hương:


Người ơi, hãy nói giúp giùm ta

Biết tả làm sao nỗi nhớ nhà!

Không hương, không vị mà da diết

Nỗi nhớ rung từng thớ thịt da!


Tôi đến Huế chỉ vài lần, sống ở Huế chỉ vài ngày và mang trong người chỉ “một nửa Huế” thôi. “Rứa mà” bốn câu thơ sau đây Anh vẽ ra một hình ảnh tuyệt vời cho đến nỗi tôi chỉ mong tôi là người Huế chính gốc để được yêu thương, được thấm nhập trọn vẹn trong hương cau thơm ngát của vùng không gian huyền diệu này.


Quê tôi ửng nắng mấy hàng cau

Thoáng gió đong đưa mấy dặm bầu

Con đò ngược bến Văn-Lâu đó

Có còn in bóng nước sông sâu?


Trong tất cả những bài thơ tình cảm Anh dành cho Huế, tôi thích nhất bài Nhớ Huế:


Ta nhớ vô cùng em biết không?

Nhớ đồi Vọng-Cảnh, gió ru thông.

Nhớ hồ nước Tịnh, sen soi bóng

Nhớ bến Văn-Lâu, chạnh tất lòng!

 

Ta nhớ vô vùng em biết không?

Nhớ mái trường xưa phượng thắm hồng

Nhớ mái tóc thề chiều tan học,

Nhớ nẽo em về một cuối đông!

 

Ta nhớ vô cùng em biết không?

Nhớ trăng thôn Vỹ, nắng Kim-Long.

Nhớ sông Bến-Ngự, con đò nhỏ.

Nhớ má ai kia ửng nắng hồng.

 

Ta nhớ vô cùng em biết không?

Nhớ chiều buông nhẹ tiếng chuông ngân

Nhớ dòng Hương dịu ôm thành Huế,

Nhớ quá làm sao nhớ lạ lùng!


Bài thơ này dường như ra đời vào khoảng giữa thập niên 80, được Song-Ngọc phổ nhạc và ca sĩ Khánh-Hà trình bày rất nhiều lần. Bản nhạc này, ngay sau khi Song-Ngọc vừa hoàn tất, chính anh Bửu-Châu đã đàn và hát tại nhà Anh vào một buổi họp mặt bằng hữu. Tôi nhận thấy Anh Châu hát rất “có hồn”. Nhưng phải đợi đến khi nghe Khánh-Hà hát tôi mới nhận biết mối tình cảm sâu kín của một người “Huế lai” trong tôi bừng dậy, để rồi trở nên dịu dàng, tha thiết theo mỗi giai điệu, mỗi tiếng láy ở cuối phân đoạn và cách phát âm những địa danh thương mến.


Giữa thập niên 80 không khí văn nghệ tại Houston rất sôi nổi. Và nhà Anh Bửu-Châu là tụ điểm của những buổi họp mặt vui và lành mạnh. Anh Châu và Luật Sư Nguyễn-Ngọc-Hải chơi Keyboard. Thường thường anh Châu, anh Hải và tôi hát chung; vì chúng tôi biết nhiều nhạc bản của thập niên 60. 


Một lần, tôi không hiểu do đâu Anh Châu biết tôi từng chơi Accordéon. Anh hỏi. Tôi xác nhận, nhưng thưa với Anh rằng tôi bỏ lâu quá nên chẳng còn nhớ được bài nào. Anh hỏi tôi thường chơi nhạc gì? Tôi đáp nhạc Pháp. Anh mở Cassette những bản bán cổ điển và những bản thịnh hành của thập niên 60-70. Tôi nhận ra được gần hết, nhưng vì bản nào cũng dài quá cho nên tôi không nhớ trọn. Đến bản Etoile De Neige tôi vui mừng reo lên, vì bài này tương đối ngắn. Anh Châu cũng vui mừng, bảo sẽ đến nhà tôi lấy Accordéon đem lại để Anh, anh Hải và tôi cùng hòa đàn. Tôi cho Anh Châu biết rằng tôi không có đàn. Bác Sĩ Hồ-Vương-Minh bảo người con của anh ấy có một Accordéon; thế là anh Minh sốt sắn đến nhà người con mượn, đem đến cho tôi.


Sau vài phút “rà” lại, tôi đàn bản Etoile De Neige và anh Châu, anh Hải đệm theo. Anh Châu cho biết, lúc còn đi học Anh rất thích Accordéon nhưng vì cây đàn nặng, tình trạng sức khỏe của Anh không cho phép. Nửa đùa nửa thật Anh Châu đề nghị Anh, anh Hải và tôi thành lập ban tam ca “Ba Con Mèo...Mun”.

Đề nghị của Anh Châu, dù đùa hay thật, cũng không thể thực hiện được; vì Anh Châu lâm trọng bệnh, phải qua ba cuộc giải phẫu tim trong một thời gian rất ngắn.


Thời gian Anh trải qua ba cuộc giải phẫu, bệnh viện cần máu. Hầu hết bằng hữu của Anh đều đến bệnh viện hiến máu. Đây là lúc mọi người thấy được sự quý mến của bạn hữu dành cho Anh Châu. Không ai bảo ai, nhưng trong lòng mọi người đều thầm lo, không biết Anh có “qua” được hay không!


Anh đã “qua” được, hồi phục nhanh và yêu đời hơn bao giờ hết. Anh quay cuồng trong điệu luân vũ. Anh lịch lãm trong từng bước Tango. Anh cười sảng khoái khi “ù” được ván mà chược. Ngoài tài năng và kiến thức chuyên môn, không ai có thể hiểu được Anh lấy năng lực từ đâu để sống trọn vẹn với đời, để thực hiện những điều mà nhiều người mơ ước.


Anh để lại thi tập Chỉ Là Mơ Thôi. Trong thi tập này có những bức họa do Anh vẽ, màu sắc rất dịu dàng, tươi đẹp, khơi dậy một sức sống. Trong thi tập này cũng có những bản nhạc do chính Anh sáng tác và cũng có những bản nhạc do vài nhạc sĩ phổ nhạc từ thơ của Anh.


Tôi vừa nghĩ đến đây thì tiếng niệm kinh cũng vừa dứt.


Nhìn vạc nắng cuối ngày trải đều trên thềm cỏ úa, tôi ngậm ngùi nhớ đến những câu thơ rất thích rất hợp với tâm trạng của tôi lúc này.


Có những chiều buồn mây tím bay,

Tím cả hồn tôi em có hay?

Nẽo về tôi thấy ngàn sao rụng

Chân bước thẫn thờ, đôi mắt cay!


Không nén được nỗi buồn, tôi thở dài, chậm bước. Bất ngờ trạng thái chối bỏ lại trở về trong tôi. Tôi khẽ lắc đầu, thầm nhủ: “Chỉ Là Mơ Thôi”. (2)

 

ĐIỆP MỸ LINH

http://www.diepmylinh.com/



1.- Những chi tiết này do bác sĩ Nguyễn Văn Thuận cung cấp.

2.-Tất cả những phân đoạn trên đây được trích từ tập thơ Chỉ Là Mơ Thôi của Mây-Ngàn.

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Nhạc sĩ Hùng Lân mất vào ngày 17/9/1986 tại Sài Gòn. Hôm nay, ngày 17/9/2025 tôi nhớ tới ông. Tính ra đã 39 năm. Ba năm trước, tại nhà thờ Phanxicô Dakao đã có một lễ giỗ 36 năm ngày mất của ông. Linh mục Đỗ Xuân Quế, chủ tế lễ giỗ, đã nói trong thánh lễ: “‘Hôm nay là lễ giỗ thứ 36 của ông Phêrô Hoàng Văn Hương tức là nhạc sĩ Hùng Lân. Ông là người đáng cho chúng ta trân trọng và quý nhớ. Vậy chúng ta hãy cùng nhau cầu nguyện cho ông được vào nước Thiên Chúa. Nếu ông đã được vào rồi thì xin nhớ đến chúng ta là những người đang tiếp tục cuộc hành trình nơi dương thế đang hướng về Nước Trời.” Sau thánh lễ là chương trình tưởng niệm trong đó có tiết mục trình diễn nhạc của Hùng Lân, cả nhạc đạo lẫn nhạc đời. Người dẫn chương trình cho tiết mục này là nhạc sĩ Cao Huy Hoàng, đến từ Phan Thiết. Ông chia sẻ: “Nếu ngày ấy, thầy Hùng Lân qua đời, Chúa hỏi ‘nén bạc của ta đâu?’, thầy có lẽ không trả lời hoặc chưa trả lời kịp thì hôm nay, chúng ta có thể nhìn lại và thấy được rằng nén bạc của thầ
« Chưa gặp em tôi đã nghĩ rằng, có người con gái đẹp như trăng… khi gặp em rõ thấy một bà chằng! » … Chằng tinh, hay chằn tinh là một loài người hay cũng coi là một loài quỷ hung ác. Tùy vào hoàn cảnh, tùy vào người ta gặp, ta đối diện. Nay thế giới có nhiều loại chằn tinh, chằn ở trong mọi lãnh vực, chính trị, văn hoá, kinh tế, giáo dục và cả trong xã hội v.v…Do đấy, ta muốn tìm hiểu nguyên do chằn ở đâu ra. Hẳn là trong văn hóa Nam Bộ Việt Nam - Ấn Độ - Khmer…? Theo tác giả Huỳnh Thanh Bình, chằn là một loại sinh vật truyền kỳ, làm hộ pháp, canh giữ chùa, tháp, chánh điện phật giáo nam truyền và chiếm vị trí quan trọng trong văn hóa và tâm linh của người Khmer nam bộ, phổ biến trong kho tàng truyện kể dân gian và tuồng tích sân khấu của đa phần người Đông Nam Á.
Cả ông ta và tôi cùng cười xòa. Ui, mình đúng là đãng trí thứ thiệt. Phần Lan đã gia nhập Eurozone từ 1999 và dùng Euro ngay từ buổi đầu như những quốc gia thành viên khác. Ngày trước, nhắc đến những thủ đô bắc Âu, người ta thường nghĩ đến Oslo giàu có của Na Uy, Copenhagen trẻ trung của Đan Mạch. Giờ đây, Helsinki dần dà từng bước góp mặt vào danh sách những thủ đô được du khách ưa chuộng. Sức thu hút của thành phố ngày càng tăng. Từ 15 năm nay, Helsinki là một trong những thành phố tân tiến nhất Âu châu.
Bà xỏ chân vào đôi dép, lê lẹp xẹp vào buồng. Bà lấy ra một bịch nhựa trong đó đựng trăm thứ lặt vặt không ra hình thù gì. Bà nhìn trước, ngó sau như người ăn trộm. Chị mua ve chai đứng ở ngoài cửa bếp. Như một việc đã quá quen thuộc, chị đón lấy cái túi, móc vào cái cân xách. Trước kia chị phân loại giấy ra giấy, nhựa ra nhựa, nay thì hai bên đã thỏa thuận với nhau là có một cái giá trung bình cho toàn thể. Bà thì nhìn đăm đăm vào mớ hàng lặt vặt ấy như nhìn một thứ gì quý giá lắm. Mà không quý sao được, vì đó là kết quả của nhiều tuần bà lượm lặt và cất giữ.
Cho tới bây giờ, thỉnh thoảng trong giấc ngủ tôi vẫn nằm mơ tới chuyện thi Tú tài và giật mình tỉnh dậy, mừng húm mà mồ hôi vẫn đổ ra. Trong lần thi Tú Tài I, tôi đã thức đêm thức hôm học đến bị yếu phổi. Chữ “Tú Tài” nặng nhọc với tôi như vậy tuy nghĩa của nó là “đẹp đẽ, có khả năng, tài giỏi”.Ông Tú Xương có lẽ cay đắng với chữ “Tú Tài” không kém gì tôi. Ông vác lều chõng đi thi tất cả 8 lần, từ khoa Bính Tuất (1886) tới khoa Bính Ngọ (1906). Ba lần đầu ông đạp vỏ chuối, tới lần thứ tư, năm Giáp Ngọ (1894), ông mới vớ được cái Tú Tài nhưng là Tú Tài đậu vớt, chữ ngày đó gọi là “Tú Tài Thiên Thủ”. Ông chết với cái danh Tú Tài, chẳng bao giờ kiếm được cái “Cử Nhân” mặc dù vẫn cặm cụi đi thi.
*SONG THAO Tôi chừ chỉ chơi thể thao trên ghế sa-lông, ngồi coi người ta chơi. Thứ tôi coi người ta chơi là hockey, tennis và đôi khi bóng tròn. Mình không còn khả năng thì coi người ta chạy nhảy cũng là một cách chơi. Cách chơi biết mình biết ta. Các ông bạn tôi cũng chơi như tôi. Có điều mỗi người chơi theo ý thích riêng của mình. Ông Hoàng Xuân Sơn, ông Luân Hoán cũng na ná như tôi. Nhưng ông Luân Hoán hơi ngả về bóng tròn. Ông Hồ Đình Nghiêm máu mê hơn. Ông sa đà vào bóng tròn. Thời gian vừa qua, ông coi giò coi cẳng các nữ nhân tranh giải bóng tròn thế giới FIFA một cách mê mệt. Ngày ngày ông bá cáo bà con trên Facebook tường tận về từng cặp chân vàng mà trắng, cô nào đá hay, cô nào chụp banh giỏi, ông rành như có họ hàng thân thiết.
Bạn có thể xem bài này như truyện ngắn. Có thể gọi là nhiều truyện ngắn trong một truyện ngắn, hay là ghép từ nhiều mẩu truyện. Bạn cũng có thể đọc như tùy bút, hay bản tin, hay là vân vân... nghĩa là bất cứ những gì có chữ, có thể đọc lên, có thể nghe được như âm thanh. Đó là những gì tự nhiên hiện lên trong trí nhớ của tôi, những gì tôi bất chợt nghe bên tai khi ngồi bên sông, ven biển, góc rừng, hay khi nửa đêm nhìn ra hàng hiên.
Chẳng hiểu vì sao, vào lúc bắt đầu cảm thấy già, tôi lại lẩm cẩm đi tìm lại định nghĩa về chữ “bạn”. Bạn tôi là ai? Tại sao tôi lại kết bạn với họ? Lúc trẻ đã từng có một thời suýt bị vợ bỏ vì “lo cho bạn nhiều hơn cho gia đình”; nhưng khi đến độ tuổi “lục thập nhi nhĩ thuận” tôi lại đâm ra làm biếng gặp hầu hết những nhóm bạn từng một thời thân thiết.
Hôm đó, cô nhất định phải giết cây dạ quỳnh. Khi đêm tối bao phủ, cô sẽ ra tay. Lấy một con dao bén để xắt cành lá nó ra từng mảnh nhỏ. Lấy chai thuốc Draino loại hủy hoại rễ cây để ngâm hết các rễ của nó. Nó phải chết một cách tiệt tích, không còn một chút cơ hội nào sống sót. Nó phải bị phơi khô trên cao vì Quỳnh đụng đất sẽ có thể mọc lại. Cô biết, giết Quỳnh là mất đi tiếng nói vo ve chị em tâm sự. Cô đơn khi có Quỳnh sẽ thay vào cô đơn không có Quỳnh. Cô sẽ bắt đầu một cô đơn khác.
Càng lớn tuổi chừng nào, thì người ta lại thường hay nhớ tới những kỷ niệm trong dĩ vãng của mình nhiều bấy nhiêu. Nhất là những người cao niên đã về hưu, không còn bị ràng buộc bởi những công việc làm thường ngày của mình như trước kia, nên có nhiều thì giờ rảnh rỗi ngồi ở nhà một mình, để hồi tưởng lại những kỷ niệm buồn vui khó quên trong cuộc đời mình, rồi để có những lúc tâm sự cho nhau nghe lại những kỷ niệm khó quên này, trong những dịp tiệc tùng họp mặt bạn bè.
Lộc đã chết! Tích ngỡ ngàng khi nghe tin đó. Chàng không tin vào tai mình. Làm sao Lộc có thể chết được? Mình mới gặp anh ấy có tuần trước thôi mà! Trông anh còn khỏe mạnh, tự tin, tràn đầy sức sống. Vậy mà bây giờ anh đã không còn nữa. Cái chết của anh có cái gì đó không thật. Và có lẽ đó là lần đầu tiên Tích đứng trước nhận thức trực tiếp và thâm sâu về tính chất phi lý của một sự kiện quá bình thường trên đất nước chiến tranh này.
Từ giữa tháng Tám, trước ngày Lễ Labour Day, các trung tâm shopping đã rầm rộ quảng cáo “On Sale” cho mùa “Back To School”. Các con tôi đã lớn, qua rồi cái thuở đi sắm backpacks, tập vở, giấy bút, lunch bags, áo quần, nhưng lòng tôi vẫn nao nao bâng khuâng nhớ về những kỷ niệm ấy. Cũng có lúc tôi lại nh ... chính tôi, ngày xưa là cô giáo trẻ khi còn ở Việt Nam, và nhất là những tháng ngày ở trại tỵ nạn Thailand, làm cô giáo “đặc biệt” có những học trò cũng rất “đặc biệt”.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.