Hôm nay,  

Hồi Sinh

29/04/202120:48:00(Xem: 3780)



Người qua sông Mê,
Nhớ nẻo quay về . . (T.Vấn)

1. 

Đêm qua, nhận được mảnh điện thư của người bạn cũ từ dạo còn ngược xuôi những đường phố bụi bậm của Sài Gòn trên chiếc xe đạp cứ đạp một khúc, lại tuột sên, lại ngừng lại hì hục gắn vào, cứ thế suốt ngày ngoài đường. Cũng rất ngạc nhiên, khi bức điện thư vỏn vẹn có vài hàng. ...

... Mùa xuân đến rồi đó anh! em thích nhất những ngày tháng này. Nó làm mình hồi sinh anh ạ!

Bức điện thư ngắn ngủi cứ làm tôi bâng khuâng mãi. Cái bâng khuâng không phải vì người bạn ấy đã một thời khá gần gủi với tôi. Dẫu sao năm tháng cũng làm trọn vai trò của nó trong việc bào mòn những kỷ niệm, vui và buồn, của một đời người. Vả chăng, chúng tôi, ai cũng có một gia đình với những lo toan và hạnh phúc riêng. Chúng tôi tôn trọng ở nhau những điều đó, dù không nói ra. Những lần trao đổi với nhau qua điện thoại, hoặc điện thư, không bao giờ những câu chuyện cũ được nhắc lại. Thế nên, cái bâng khuâng về bức điện thư ngắn ngủi của người bạn cũ đêm qua là ở một khía cạnh khác. Mùa xuân đến rồi đó anh! Như một lời nhắc nhở, phải không V. ? Em thích nhất những ngày tháng này. Nó làm mình hồi sinh anh ạ! Có lẽ cái bâng khuâng nằm ở những dòng chữ đơn sơ này.

Buổi sáng nay, cũng hơi khác với thói quen ngày thường, tôi thức dậy khá sớm. Mùi cà phê mới pha cùng với sự tĩnh mịch của buổi sáng đem lại cho tôi nỗi sảng khoái thật nhẹ nhàng. Tôi mở cửa, bước ra ngắm vườn hoa trước nhà. Khu vườn như đang thức dậy sau một đêm dài mùa đông lạnh lẽo. Những mầm non đã nhú lên và những chiếc lá đang trở mình sang xuân bằng màu xanh mướt mát. Tôi nhớ đến hai chữ "Hồi Sinh" trong bức điện thư của người bạn cũ. Như vườn cây trước sân nhà tôi, dù mùa đông có dài và lạnh lẽo khắc nghiệt đến đâu, rồi thì mùa xuân cũng sẽ lại đến và cây cối lại trổ mầm hồi sinh.

2.

Như những mảnh đời nhỏ nhoi hèn mọn của tôi và bạn bè. Dẫu cho những năm tháng quá khứ có đày đọa trầm luân đến như thế nào, rồi thì cũng qua đi. Và chúng tôi vẫn sống, vẫn làm việc và sáng tạo. Vẫn có những mùa xuân đời người – dù có muộn màng – rực rỡ và xanh mướt như những mùa xuân cây cỏ.

Cái điều tưởng chừng như giản dị ấy không phải lúc nào cũng dễ dàng nhận ra. Phải chăng là vì người già thường có thói quen ngoái cổ lại nhìn đằng sau và người trẻ thường hay kiễng chân lên nhìn về phía trước, nên không ai – cả người già lẫn người trẻ – cảm nhận hết được thực tại sinh động trước mắt.

Do đó mới có những than van u uẩn, do đó mới có những hờn dỗi cuộc đời.

3.

Đã có lúc, tôi như người mù đi trong đêm. Đêm đã đen mà mắt tôi thì không nhìn thấy gì ngoài một khoảng đen hơn đêm đen. Bây giờ, đã là ngày có ánh sáng và mắt tôi không còn mù nữa. Nhưng thói quen sờ soạng trong bóng đêm vẫn còn đó. Thỉnh thoảng, một cách rất vô thức, tôi vung tay lên mà như sờ thấy được khoảng bóng tối đã qua của đời mình. Hoặc, trong những cơn mơ bất chợt, tôi thấy mình hình như vẫn còn bị cái bóng tối đáng nguyền rủa ấy bủa vây. Tệ hại hơn nữa, giữa sự bủa vây triền miên ấy, ý thức phản kháng trong tôi hoàn toàn bị tê liệt. Tôi như bằng lòng và thích thú với cái êm ả của thú đau thương. Anh bạn thân họ Đặng, chủ bút một tờ báo, đã có lần thảo luận với tôi về những bài tôi đã viết. Bằng sự khéo léo vốn có – dù là giữa hai người bạn thân – anh hỏi tôi về những bóng ma quá khứ có cần thiết phải đốt hương tống tiễn đi một lần cho nhẹ lòng hay không? Buổi trao đổi giữa hai người bạn tưởng chừng như chỉ là câu chuyện phiếm bên lề, nhưng nó luôn trở lại tâm trí tôi mỗi khi ngồi xuống bàn cầm lấy cây viết và đối diện mình trước trang giấy trắng.


Quả thật, như bất cứ một người già nào đang đi dần vào hoàng hôn của cuộc đời, tôi đã kinh qua những nắng và mưa của thời gian, những thăng và trầm của lịch sử, những vơi và đầy của lòng người. Ngần ấy thứ đè nặng lên đôi vai ngày một gầy guộc mong manh. Tôi cần được giải bầy hết những nỗi niềm, cho nhẹ vai nhẹ lòng, để sẵn sàng, cả xác và hồn, cho những cuộc hồi sinh theo chu kỳ vòng quay trời đất. Hiển nhiên, cũng có lúc tôi sa đà với những cơn huyễn mộng. Cũng có những lúc tôi xuôi tay phó mặc tất cả. Nhưng cuối cùng, tôi – và các bạn của tôi – vẫn gượng đứng dậy được, để cùng với trời đất cỏ cây, chúng tôi trở mình hồi sinh mỗi khi gió ấm phương Nam thổi về.

. . . Hồi Sinh. Trạng thái từ cõi chết trở về với sự sống. Từ lụi tàn trở mình thành mạch sống sinh sôi. Từ huyễn mộng rũ tan lớp sương mù quá khứ để hòa mình vào dòng thực tại tuy ngổn ngang bời bời nhưng thơm ngát mùi cà phê mới pha buổi sáng và rực rỡ những đóa hoa nhiều mầu sắc trong khu vườn vừa mới thức dậy. Một khoảnh khắc hồi sinh, đôi khi cũng đủ để đem lại ý nghĩa cho mảng đời đầy ắp những truân chuyên.

4.

… Tôi hồi tưởng lại những tháng năm vô vọng trong địa ngục trần gian. Những năm tháng tưởng chừng như không còn gì nữa để khắc khoải trông mong. Tương lai thì không biết có một ngày còn sống sót để trở về hay không, còn thực tại thì chỉ biết có một điều vĩ đại trên hết mọi điều vĩ đại: ĐÓI. Một hôm, không chịu nổi cái nóng đốt cháy hết các lỗ chân lông của miền Trung Du Bắc Việt, tôi lăn ra bất tỉnh giữa mảnh ruộng trơ những gốc rạ. Những người bạn tù khiêng tôi vào để nằm dưới gốc cây. Sau đó, lệnh của quản giáo coi tù chỉ cho một người ở lại chăm sóc tôi. Biết tôi có đạo, họ tìm cách để một tù nhân linh mục ở lại. Vị linh mục kiên nhẫn xoa nắn khắp người tôi cho đến khi tôi tỉnh lại. Thấy tôi mở mắt, ông nhoẻn miệng cười nói: "Này anh bạn trẻ, tôi biết anh chỉ vì đói mà ngất đi thôi. Tôi có cái kẹo nhỏ, anh hãy cầm lấy mà ngậm." Rồi ông đưa tôi viên kẹo bột to bằng ngón tay cái. Sau này, tôi biết nó xuất xứ từ một nhà Chung ở ngoài Bắc. Quả nhiên, viên kẹo bột thô sơ như thần dược. Tôi cảm thấy tỉnh như sáo. Vị linh mục lại hỏi tôi: "Này anh bạn, trông anh còn trẻ lắm, anh bao nhiêu tuổi rồi?" Tôi đáp: "Thưa cha, tôi có cùng một số tuổi với Chúa của cha khi Ngài bị đóng đinh trên cây thập giá!" Vị linh mục lặng lẽ đáp: "Nhưng sau đó, Ngài đã sống lại. Còn anh, anh không định đứng dậy đi cho hết đoạn đường thánh giá của mình hay sao?" Tôi chợt tỉnh ngộ. Vài tháng sau, chúng tôi được chuyển trại từ Bắc vào Nam. Tôi được đưa về Toán Lâm sản, tức làm công việc đốn gỗ ngoài trại. Lợi dụng công việc lao động hàng ngày không có cán bộ công an đi theo kiểm soát, tôi được vị linh mục giao cho một nhiệm vụ khá nguy hiểm: tìm cách liên lạc với bên ngoài để mang bánh thánh vào trại cho ông cử hành lễ mỗi sáng chủ nhật...

5.

. . . Sông Mê. Bến đò Ô Lâu. Chiều ảm đạm núi rừng Yên Bái. Đoàn tù khổ sai cứ 50 người một bước chân xuống phà. Rồi lại cứ 50 người một bước lên toa xe lửa. Những khoang toa nặng mùi phân súc vật và ngai ngái rơm khô. Chuyến xe lửa biến mất trong bóng đêm và rừng rậm. Mùa xuân tu hú kêu từng chập / Đợi chuyến tù đi Hoàng Liên Sơn (thơ Ngọc Phi). Rất nhiều năm về sau, nhiều người tù khổ sai năm ấy, đã từ cõi chết trở về và hồi sinh. Hiển nhiên, cũng không ít người ở lại vĩnh viễn.

Đó là bức Thông Điệp của quá khứ gởi đến cho hiện tại và tương lai. Trong tận cùng Nỗi Chết, luôn luôn chứa sẵn mầm mống của Sự Sống. Trong tận cùng của Khổ Đau, luôn có mặt bóng dáng của Hạnh Phúc.

Nhưng để khởi động cho tiến trình hồi sinh, lại tùy thuộc vào khả năng vươn lên của mỗi người.

T.Vấn

(Viết 04-2006; Sửa lần cuối 04-2021)

(Trích CÕI NGƯỜI, sắp xuất bản)


Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Chúng tôi rời toà nhà “Tuyên Bố Độc Lập” để đến Quảng Trường Lịch Sử xem chiếc Chuông Tự Do (Liberty Bell) nổi tiếng. “Chuông Tự Do” với đường nứt của nó đã dính liền với nhiều biến cố lịch sử. Những câu chuyện về chuông đôi khi đã trở thành huyền thoại rất nhiều thú vị và cũng đã gây nhiều tranh cãi. Một điều chính yếu mà mọi người công dân Hoa Kỳ không ai chối bỏ và hãnh diện, đó là: “Chuông Tự Do” là một biểu tượng của nền độc lập Hoa Kỳ...
Gia đình tôi có sáu anh chị em. Trước 1975, bố tôi là một công chức, mẹ tôi nội trợ, cho nên cuộc sống rất thanh bạch. Cả nhà theo Đạo Phật kiểu truyền thống gia đình, giống như nhiều gia đình Việt khác. / My family has six siblings. My life was very simple before 1975 because my father was a civil servant and my mother was a housewife. Like many Vietnamese families, my entire family practices traditional Buddhism....
Căn nhà của cha mẹ tôi dựng trên một khu đất rộng, chung quanh có hàng rào, là những cây chè tàu được cắt ngay hàng thẳng lối, có cổng ra vào được xây cao, có bức tường thành bằng quánh bao bọc...
Mẹ ơi thôi đừng khóc nữa / Cho lòng già nặng sầu thương / Con đi say tình viễn xứ / Đâu có quên tình cố hương...
Tháng 5, tháng diễn ra lễ mừng Mother Day ở nhiều nước trên thế giới. Đó là ngày nhắc nhở để nhân loại biết tôn vinh người Mẹ và tình mẹ...
Gửi đến Mẹ tình yêu của con / Mong Mẹ nơi xa ấm linh hồn / Đời con kể từ khi vắng Mẹ / Chẳng còn nỗi buồn nào buồn hơn...
Bên ngoài trời mưa tầm tã. Cửa đóng kín nhưng trong nhà vẫn nghe tiếng gió giật từng cơn. Vinh nhìn lên đồng hồ treo tường thấy đã chín giờ tối, như vậy cơn mưa đã kéo dài hơn hai tiếng. Nếu trời không mưa giờ này chắc Vinh vẫn còn ngồi ở quán cà phê nói chuyện với anh em cho qua thì giờ vì vợ con đã về quê, hết giờ làm về nhà thấy trống vắng buồn bã. Cầm ly trà lên, Vinh uống hết một chút còn lại...
Sau ngày chính quyền VNCH sụp đổ, chồng tôi phải đi tù bảy năm. Mãn tù, theo yêu cầu của chính quyền địa phương, chồng tôi đưa gia đình đến sống ở một xã kinh tế mới thuộc tỉnh Phước Tuy cũ, đó là xã Xuân Sơn. Hồi ấy, xã này mới được khai phá, đất đai còn hầu hết là núi đồi hoang dã, ngay cả cái tên xã cũng còn xa lạ không mấy ai biết đến. Nhưng xã Xuân Sơn lại nằm giáp cạnh một cái xã khác danh đã nổi như cồn, gần như cả miền Nam đều có nghe tới: xã Bình Giả...
Mấy năm qua bị con Virus Corona hoành hành, một phần bị cách ly một phần sợ bi lây nhiễm nên tôi phải bó gối nằm nhà, bế môn tỏa cảng, không dám đi đâu, bạn bè không thăm, người thân không tới. Trong truyện kiếm hiệp của Kim Dung có anh chàng "độc cô cầu bại" thuộc loại đệ nhất cao thủ võ lâm mỗi lần đấu võ chỉ cầu thua mà không được, tôi làm "độc cô cầu bạn" sáng nghe chim hót, chiều ngắm hoa nở, tối về ôm sách vở, cầu gặp được bạn bè thân thiết mà không được. Nên khi vừa hết cách ly tôi liền tới thăm người bạn thâm niên của tôi...
Từ New York, tôi bay về San Jose thăm mẹ. Trong bữa cơm tối, lòng tôi nặng trĩu lo nghĩ nên im lặng không gợi chuyện như thường lệ. Đã mấy tháng trời, ngày nào cũng bão tuyết, hàng họ ế ẩm, tiệm vắng không một bóng người. Khủng hoảng kinh tế lan tràn làm nhiều khách của tôi dè dặt, không dám ăn xài. Tôi về nhà hy vọng sẽ khuây khoả, để quên hết những phiền phức, để không khí ấm cúng gia đình xoa dịu những ưu lo đã khiến tôi khó ăn khó ngủ.
Đến ga kế sau ga Dresden, một người đàn ông có tuổi vào bên trong toa của tôi. Ông ấy lịch sự chào tôi, ngồi xuống, nhìn tôi và gật đầu chào như thể vừa gặp một người bạn lâu năm không gặp. Ông giới thiệu tên mình và tôi chợt nhớ rằng đây là một người bán đồ cổ rất nổi tiếng ở Berlin, tôi đã từng đến mua thủ bút và sách ở tiệm của ông...
Khoảng đầu thế kỷ 21, tôi quen ông Song Thao. Nói quen cho oai, chứ đấy chỉ là tình một chiều. Thuở ấy, mỗi khi có tờ nguyệt san Thế Kỷ 21 trên tay, tôi nhanh nhẹn dò mục lục, tìm bài Phiếm của ông Song Thao, đọc ngấu nghiến...


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.