Hôm nay,  

Hồi Sinh

29/04/202120:48:00(Xem: 3787)



Người qua sông Mê,
Nhớ nẻo quay về . . (T.Vấn)

1. 

Đêm qua, nhận được mảnh điện thư của người bạn cũ từ dạo còn ngược xuôi những đường phố bụi bậm của Sài Gòn trên chiếc xe đạp cứ đạp một khúc, lại tuột sên, lại ngừng lại hì hục gắn vào, cứ thế suốt ngày ngoài đường. Cũng rất ngạc nhiên, khi bức điện thư vỏn vẹn có vài hàng. ...

... Mùa xuân đến rồi đó anh! em thích nhất những ngày tháng này. Nó làm mình hồi sinh anh ạ!

Bức điện thư ngắn ngủi cứ làm tôi bâng khuâng mãi. Cái bâng khuâng không phải vì người bạn ấy đã một thời khá gần gủi với tôi. Dẫu sao năm tháng cũng làm trọn vai trò của nó trong việc bào mòn những kỷ niệm, vui và buồn, của một đời người. Vả chăng, chúng tôi, ai cũng có một gia đình với những lo toan và hạnh phúc riêng. Chúng tôi tôn trọng ở nhau những điều đó, dù không nói ra. Những lần trao đổi với nhau qua điện thoại, hoặc điện thư, không bao giờ những câu chuyện cũ được nhắc lại. Thế nên, cái bâng khuâng về bức điện thư ngắn ngủi của người bạn cũ đêm qua là ở một khía cạnh khác. Mùa xuân đến rồi đó anh! Như một lời nhắc nhở, phải không V. ? Em thích nhất những ngày tháng này. Nó làm mình hồi sinh anh ạ! Có lẽ cái bâng khuâng nằm ở những dòng chữ đơn sơ này.

Buổi sáng nay, cũng hơi khác với thói quen ngày thường, tôi thức dậy khá sớm. Mùi cà phê mới pha cùng với sự tĩnh mịch của buổi sáng đem lại cho tôi nỗi sảng khoái thật nhẹ nhàng. Tôi mở cửa, bước ra ngắm vườn hoa trước nhà. Khu vườn như đang thức dậy sau một đêm dài mùa đông lạnh lẽo. Những mầm non đã nhú lên và những chiếc lá đang trở mình sang xuân bằng màu xanh mướt mát. Tôi nhớ đến hai chữ "Hồi Sinh" trong bức điện thư của người bạn cũ. Như vườn cây trước sân nhà tôi, dù mùa đông có dài và lạnh lẽo khắc nghiệt đến đâu, rồi thì mùa xuân cũng sẽ lại đến và cây cối lại trổ mầm hồi sinh.

2.

Như những mảnh đời nhỏ nhoi hèn mọn của tôi và bạn bè. Dẫu cho những năm tháng quá khứ có đày đọa trầm luân đến như thế nào, rồi thì cũng qua đi. Và chúng tôi vẫn sống, vẫn làm việc và sáng tạo. Vẫn có những mùa xuân đời người – dù có muộn màng – rực rỡ và xanh mướt như những mùa xuân cây cỏ.

Cái điều tưởng chừng như giản dị ấy không phải lúc nào cũng dễ dàng nhận ra. Phải chăng là vì người già thường có thói quen ngoái cổ lại nhìn đằng sau và người trẻ thường hay kiễng chân lên nhìn về phía trước, nên không ai – cả người già lẫn người trẻ – cảm nhận hết được thực tại sinh động trước mắt.

Do đó mới có những than van u uẩn, do đó mới có những hờn dỗi cuộc đời.

3.

Đã có lúc, tôi như người mù đi trong đêm. Đêm đã đen mà mắt tôi thì không nhìn thấy gì ngoài một khoảng đen hơn đêm đen. Bây giờ, đã là ngày có ánh sáng và mắt tôi không còn mù nữa. Nhưng thói quen sờ soạng trong bóng đêm vẫn còn đó. Thỉnh thoảng, một cách rất vô thức, tôi vung tay lên mà như sờ thấy được khoảng bóng tối đã qua của đời mình. Hoặc, trong những cơn mơ bất chợt, tôi thấy mình hình như vẫn còn bị cái bóng tối đáng nguyền rủa ấy bủa vây. Tệ hại hơn nữa, giữa sự bủa vây triền miên ấy, ý thức phản kháng trong tôi hoàn toàn bị tê liệt. Tôi như bằng lòng và thích thú với cái êm ả của thú đau thương. Anh bạn thân họ Đặng, chủ bút một tờ báo, đã có lần thảo luận với tôi về những bài tôi đã viết. Bằng sự khéo léo vốn có – dù là giữa hai người bạn thân – anh hỏi tôi về những bóng ma quá khứ có cần thiết phải đốt hương tống tiễn đi một lần cho nhẹ lòng hay không? Buổi trao đổi giữa hai người bạn tưởng chừng như chỉ là câu chuyện phiếm bên lề, nhưng nó luôn trở lại tâm trí tôi mỗi khi ngồi xuống bàn cầm lấy cây viết và đối diện mình trước trang giấy trắng.


Quả thật, như bất cứ một người già nào đang đi dần vào hoàng hôn của cuộc đời, tôi đã kinh qua những nắng và mưa của thời gian, những thăng và trầm của lịch sử, những vơi và đầy của lòng người. Ngần ấy thứ đè nặng lên đôi vai ngày một gầy guộc mong manh. Tôi cần được giải bầy hết những nỗi niềm, cho nhẹ vai nhẹ lòng, để sẵn sàng, cả xác và hồn, cho những cuộc hồi sinh theo chu kỳ vòng quay trời đất. Hiển nhiên, cũng có lúc tôi sa đà với những cơn huyễn mộng. Cũng có những lúc tôi xuôi tay phó mặc tất cả. Nhưng cuối cùng, tôi – và các bạn của tôi – vẫn gượng đứng dậy được, để cùng với trời đất cỏ cây, chúng tôi trở mình hồi sinh mỗi khi gió ấm phương Nam thổi về.

. . . Hồi Sinh. Trạng thái từ cõi chết trở về với sự sống. Từ lụi tàn trở mình thành mạch sống sinh sôi. Từ huyễn mộng rũ tan lớp sương mù quá khứ để hòa mình vào dòng thực tại tuy ngổn ngang bời bời nhưng thơm ngát mùi cà phê mới pha buổi sáng và rực rỡ những đóa hoa nhiều mầu sắc trong khu vườn vừa mới thức dậy. Một khoảnh khắc hồi sinh, đôi khi cũng đủ để đem lại ý nghĩa cho mảng đời đầy ắp những truân chuyên.

4.

… Tôi hồi tưởng lại những tháng năm vô vọng trong địa ngục trần gian. Những năm tháng tưởng chừng như không còn gì nữa để khắc khoải trông mong. Tương lai thì không biết có một ngày còn sống sót để trở về hay không, còn thực tại thì chỉ biết có một điều vĩ đại trên hết mọi điều vĩ đại: ĐÓI. Một hôm, không chịu nổi cái nóng đốt cháy hết các lỗ chân lông của miền Trung Du Bắc Việt, tôi lăn ra bất tỉnh giữa mảnh ruộng trơ những gốc rạ. Những người bạn tù khiêng tôi vào để nằm dưới gốc cây. Sau đó, lệnh của quản giáo coi tù chỉ cho một người ở lại chăm sóc tôi. Biết tôi có đạo, họ tìm cách để một tù nhân linh mục ở lại. Vị linh mục kiên nhẫn xoa nắn khắp người tôi cho đến khi tôi tỉnh lại. Thấy tôi mở mắt, ông nhoẻn miệng cười nói: "Này anh bạn trẻ, tôi biết anh chỉ vì đói mà ngất đi thôi. Tôi có cái kẹo nhỏ, anh hãy cầm lấy mà ngậm." Rồi ông đưa tôi viên kẹo bột to bằng ngón tay cái. Sau này, tôi biết nó xuất xứ từ một nhà Chung ở ngoài Bắc. Quả nhiên, viên kẹo bột thô sơ như thần dược. Tôi cảm thấy tỉnh như sáo. Vị linh mục lại hỏi tôi: "Này anh bạn, trông anh còn trẻ lắm, anh bao nhiêu tuổi rồi?" Tôi đáp: "Thưa cha, tôi có cùng một số tuổi với Chúa của cha khi Ngài bị đóng đinh trên cây thập giá!" Vị linh mục lặng lẽ đáp: "Nhưng sau đó, Ngài đã sống lại. Còn anh, anh không định đứng dậy đi cho hết đoạn đường thánh giá của mình hay sao?" Tôi chợt tỉnh ngộ. Vài tháng sau, chúng tôi được chuyển trại từ Bắc vào Nam. Tôi được đưa về Toán Lâm sản, tức làm công việc đốn gỗ ngoài trại. Lợi dụng công việc lao động hàng ngày không có cán bộ công an đi theo kiểm soát, tôi được vị linh mục giao cho một nhiệm vụ khá nguy hiểm: tìm cách liên lạc với bên ngoài để mang bánh thánh vào trại cho ông cử hành lễ mỗi sáng chủ nhật...

5.

. . . Sông Mê. Bến đò Ô Lâu. Chiều ảm đạm núi rừng Yên Bái. Đoàn tù khổ sai cứ 50 người một bước chân xuống phà. Rồi lại cứ 50 người một bước lên toa xe lửa. Những khoang toa nặng mùi phân súc vật và ngai ngái rơm khô. Chuyến xe lửa biến mất trong bóng đêm và rừng rậm. Mùa xuân tu hú kêu từng chập / Đợi chuyến tù đi Hoàng Liên Sơn (thơ Ngọc Phi). Rất nhiều năm về sau, nhiều người tù khổ sai năm ấy, đã từ cõi chết trở về và hồi sinh. Hiển nhiên, cũng không ít người ở lại vĩnh viễn.

Đó là bức Thông Điệp của quá khứ gởi đến cho hiện tại và tương lai. Trong tận cùng Nỗi Chết, luôn luôn chứa sẵn mầm mống của Sự Sống. Trong tận cùng của Khổ Đau, luôn có mặt bóng dáng của Hạnh Phúc.

Nhưng để khởi động cho tiến trình hồi sinh, lại tùy thuộc vào khả năng vươn lên của mỗi người.

T.Vấn

(Viết 04-2006; Sửa lần cuối 04-2021)

(Trích CÕI NGƯỜI, sắp xuất bản)


Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi đứng ôm cặp sách nơi đầu đường con hẻm lớn, mặt hướng về ngã năm chờ đợi chuyến xe, không để ý phía bên phải tôi tiệm Minh Ký Trà Gia đang khách vào ra liên tục...
Sau khi ghé thăm Thành phố Baltimore thuộc Tiểu bang Maryland, hôm nay chúng tôi lại tiếp tục cuộc hành trình để đến thăm Tiểu bang Pennsylvania, một tiểu bang rộng lớn, trù phú, có nhiều cảnh đẹp và di tích lịch sử của quốc gia Hoa Kỳ...
Ngày Thước bước ra, nàng không mang theo bất cứ thứ gì nàng đã sắm trong tám năm. Nhờ nàng, Thụy có ê hề những thứ nàng để lại, nào bàn, ghế, sô pha. Những TV nhỏ, lớn. Những hình, ảnh, những giỏ hoa, nàng thường để trên bàn trang điểm, vẫn còn...
Hải đảo Ga Lang vào thời điểm 1978. Hải âu bay rợp trời. Cơm xấy, cá khô, đậu hộp và là những món ăn quen thuộc của người việt tị nạn trên đảo. Cứ đến giờ là mọi người xếp hàng đi ăn, có khi không phải là đói mà vì cả thói quen, kể cả thói quen chờ đợi, chờ đợi được làm giấy tờ. Chờ đợi được ra đi đến một quốc gia nào đó… Mỹ, Pháp, Úc, Đức… đâu cũng được thôi. Quê hương Việt Nam đã rời bỏ đi rồi, thì nổi trôi đến đâu bám tới đó...
Vài tháng nay rất nhiều bạn bè thân hữu, và nhiều sinh viên, học trò cũ, những người đã từng ngồi chung giảng đường với Nhà Tôi điện thoại hay điện thư hỏi thăm chúng tôi nhưng chúng tôi không đủ sức khỏe cũng như thì giờ để đáp lễ từng người xin Quý Vi thông cảm và vui lòng tha lỗi. Cũng xin hết lòng cảm ơn Giáo Sư Tiến Sĩ Tr. H. Bích, người rất uyên bác văn chương kim cổ đã có nhã ý muốn nhuận sắc bài viết, nhưng biết Ông rất bận rộn nên tôi không dám làm phiền Ông.
Lúc đầu tôi không biết chị bị bệnh tâm thần. Về sau tôi được nghe kể về cuộc đời của chị từ một người phụ nữ Việt Nam khác, tên Loan, đã sống ở đây nhiều năm. Nhưng những chi tiết về cuộc đời ấy hầu như ngay tức khắc trượt ra khỏi trí nhớ của tôi, tôi chỉ còn nhớ người phụ nữ mắc bệnh ấy sống ở thành phố này có lẽ ít nhất cũng hai mươi năm, nhiều người bảo chị khá đẹp khi còn trẻ, bây giờ nhìn cũng vẫn hình dung được điều đó...
Bầu không khí trong phòng giam lúc nào cũng ngột ngạt khó chịu. Nỗi khó chịu ấy cứ liên tục bao trùm đến nỗi mọi người phải quen đi như một lẽ tất nhiên. Tôi càng khổ sở hơn nhiều vì đã vướng phải bệnh ghẻ mấy tháng nay. Ghẻ mỗi ngày mỗi lan ra trên tấm thân gầy còm của tôi kéo theo luôn cả sự tàn tạ về sức khỏe. Mới vài hôm đây tôi lại mắc thêm chứng tê bại, cử động tay chân rất khó khăn. Thuốc men quá thiếu, ăn uống cũng quá thiếu, tình trạng chữa trị đối với tôi thật là bi quan...
Mùa xuân 2023. Ngoài chuyện nhớ lại mùa xuân cách nay 48 năm với “Tháng Ba Gãy Súng” (1) và “Tháng Tư Mất Nước” (2) tôi còn nhớ đến nhiều chuyện khác nữa, nhớ nơi tôi sinh ra, nhớ nơi tôi lớn lên và học hành, nhớ nơi tôi từng công tác, nhớ Sài Gòn, nhớ Đà Lạt, nhớ Nha Trang, nhớ Cần Thơ, nhớ An Giang, nhớ đèo Hải Vân, nhớ sông Vàm Cỏ…và nhớ nhớ nhiều lắm. Nằm trong bộ nhớ của tôi còn có rất nhiều người bạn – bạn thân – bạn rất thân nữa. Một người bạn rất thân là Nguyễn Đức Quang, cùng xứ, cùng trường, cùng chơi Hướng Đạo, cùng hát Du Ca…
Từ ngày ông bà cha mẹ rời miền Bắc 1954, mãi gần 70 năm sau, ngày 18 tháng hai, năm 2023, khi tôi cũng gần nửa đời người, mới lần đầu tiên được về thăm quê cha đất tổ. Đáp xuống sân bay Nội Bài vào xế trưa. Hà thành bận rộn đông đúc hơn là tôi đã mường tượng. Sau buổi chiều dạo quanh Hồ Tây, thăm các phố phường, thưởng thức vài đặc sản của Hà Nội, chúng tôi lên xe có giường nằm để ngủ qua đêm, bắt đầu cuộc hành trình trở về cội nguồn của… yêu thương. Xe chạy suốt đêm. Nhìn ra ngoài chỉ toàn một màu đen xen kẽ những chấm đèn vàng. Mọi người trên xe ai cũng có vẻ ngủ say,… Riêng tôi thì lòng lại cứ nôn nao bồi hồi khó tả!
Có thể nói ai cũng có lần nói lái ở trong đời, đôi lúc chỉ vô tình thôi. Nếu bạn buột miệng nói “đi giữa trời nắng cực quá” hoặc khi đèn điện không sáng mà bạn nói “điện sao lu quá chừng”, người nghe sẽ cho là bạn nói tục, có oan cũng đành chịu vì, dù bạn không cố ý nhưng nắng cực, điện lu nói lái nghe tục thật. Tương tự như thế, hãy cẩn thận đừng nói dồn lại, dồn lên, đồn láo, đồn lầm…
Không biết có phải do được học tập và làm việc trong môi trường lập trình điện toán nên tôi cứ nghĩ rằng mọi việc xảy ra trên thế gian này đều được an bài qua việc lập trình sẵn. Có người cho rằng sự lập trình sẵn này là định mệnh, là do ông trời sắp đặt hay do thượng đế an bài. Tuy nhiên, sau khi được tiếp cận với giáo lý nhà Phật, tôi cho rằng không ai lập trình sẵn cho cuộc đời mình, tất cả đều do nhân duyên.
Cách nay mười năm tôi có một chuyến sang Nhật Bản vào mùa xuân. Chọn đi vào dịp này là để xem anh đào ngoài chuyện viếng các thắng cảnh nổi tiếng như núi Phú Sĩ, Kim Các Tự, các đền đài, cổ thành, hào lũy… qua các thời trị vì của các tướng quân cũng như thăm một số thành phố như Tokyo, Kyoto, Kobe, Nagoya, Osaka…


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.