Hôm nay,  

Mùa Mía

18/09/202117:42:00(Xem: 3861)

 


Thiên đạp xe hết tốc lực, cái sức một thằng bé mười lăm tuổi đang nhổ giò phát lớn cộng với sự háo hức chờ mấy ngày qua, chẳng mấy chốc là đến nhà nội. Nhà nội Thiên ở quê, cách thị trấn chừng ba cây số, ngôi nhà nằm giữa một vườn cây xanh mát nào là mít, ổi, xoài, chanh, khế… ra khỏi vườn cây là đến rẫy mía phía sau nhà. Rẫy mía mênh mông, mía cao quá đầu người lớn, đứng trước rẫy mía là không còn thấy gì phía trước, rẫy mía như một mê cung trong những câu chuyện cổ tích mà Thiên đã đọc qua. 

 Mỗi mùa hè về cũng là lúc vào mùa mía, năm nào Thiên cũng xin ba về nội chơi khi nhà nội bước vào mùa ép mía làm đường. Thiên theo mấy người anh họ đi vào rẫy mía, những người anh họ chặt mía còn thiên đi nhặt những tổ chim bị lộ ra khi mía bị chặt. Có nhiều loài chim mía mà Thiên không biết tên, Thiên chỉ biết có chim dồn dộc, chim sa sả, chim se sẻ...mía chặt tới đâu thì chim dáo dác ào ạt bay ra, chúng bỏ cả tổ và chim non. Những bó mía được mang đến chỗ ép mía để nấu đường, máy ép mía được gọi là ông che. Ông che nhà nội Thiên to nhất vùng, được làm bằng gỗ lim, to ơi là to. Ông che gồm một bộ mâm ở dưới, có khoét những rãnh để nước mía ép ra chảy vào một thùng hứng, giữa mân nổi lên một cù lao, trên cù lao có gắn bốn khúc gỗ lim to bằng cái vòng ôm người lớn,, đầu những khúc gỗ được đẽo thành những răng cưa để quay. Những người thợ ép mía dùng hai con bò mắc ách vào, hai con bò sẽ đi vòng tròn quanh ông che và kéo cho bánh xe gỗ quay. Hai người ngồi mỗi bên, một bên đút mía vào che và một bên lấy xác mía đã ép xong. Nước mía ép ra đem đến lò nấu đường cũng gần một bên. Chảo đường to như bồn tắm hình tròn, người ta đào cái hầm và đặt chảo lên, một cửa để nhét củi vào và cửa phía sau để thông hơi và móc tro. Lửa từ cái hầm cháy phừng phừng như hỏa ngục, chảo đường sôi sùng sục, mùi đường tỏa ra bay theo gió thơm ngọt cả một vùng.

 Anh Thông căn vặn 

- Thiên, mầy phải gọi là ông che, không được gọi là cái che hay máy che đấy nhé! Phải lễ độ như ngư dân gọi cá voi là ông vậy!

 Thiên thắc mắc tại sao thì anh ấy giải thích

- Nghe nói từ thời cụ tổ xa xưa, dòng họ đã dùng ông che này rồi. Có người cho che ăn mía bất cẩn bị che cán nát tay. Có người cà rỡn mà bị rơi vào chảo đường đang sôi. Bởi vậy từ đời ông cố đã gọi ông che, không ai dám xem thường cả.

 Thiên ngẫm nghĩ và cho đó là những tai nạn vì bất cẩn mà thôi nhưng Thiên không cãi lời anh Thông. Thiên mon men đến bên ông che và muốn thử cho che ăn mía. Nội trông thấy la lớn

- Con ra rẫy mía chơi, đừng láng cháng chỗ người lớn làm việc

- Nội, con muốn thử cho ông che ăn mía

- không được, việc nguy hiểm chứ chẳng phải chuyện chơi.

 Bác Ba đang đút mía vào che nghe thế bèn nói

- Ba, không sao đâu, để con chỉ cho thằng Thiên cách làm.

 Nội không nói gì thêm, bỏ đi đến chỗ lò đường. Bác Ba bảo Thiên ngồi xuống bên cạnh và lấy mía đút vào cái khe giữa những khúc gỗ đang quay. Tiếng kẽo kẹt của cỗ che nghiến mía, tiếng nước mía chảy lỏng tỏng từ mân che xuống cái thùng hứng phía dưới làm choThiên thích thú. Bác Ba chú ý cách Thiên đút mía vào che và nói.

- Khi cây mía được bánh xe che nghiến vào một phần là buông tay ra và lấy cây mía khác để đút vào khe bên kia, giữ một khoảng cách vừa đủ an toàn để không bị bánh xe che cuốn tay mình.

 Thiên làm chừng mươi phút là chán đứng dậy, bác Ba cười to

- Chán rồi phải không? Ra rẫy mía với mấy anh đi lụm chim non đi.

 Trước khi đi Thiên múc một gáo nước mía uống ngon lành, nước mía ngọt thanh làm dịu bớt cái nắng hè. Thiên nhìn hai con bò từng bước nặng nề đi vòng tròn để kéo cỗ che mà thương, nó bước đi uể oải miệng nhai không ngừng, hai bên mép bọt trắng xùi ra. Đời con bò là chuỗi ngày cực nhọc âm u, mùa lúa thì cày bừa ngoài đồng, hết mùa thì kéo xe chở đủ thứ nặng nề, mùa mía thì kéo che ròng rã. Ăn thì toàn cỏ dại, rơm khô; chỉ những con bò cái mới đẻ hoặc những con bệnh mới được bồi bổ thêm cháo trắng. Hai con bò kéo che cả buổi mới được mở ách cho nghỉ ngơi để ăn và uống, cùng là kiếp thú nhưng kiếp con bò tội quá, thương gì đâu á! 

 Giấc xế, bác Ba gái bưng một mâm đậu phộng rang và dừa bào ra, bác lấy gáo dừa múc đường nước đang sôi chế lên mân, chỉ chừng mươi phút sau Thiên và anh em họ có một mâm kẹo đậu phộng dừa. Những người thợ mía cũng ngừng tay nghỉ giải lao bâu lại ăn kẹo đậu phộng dừa, ai cũng tấm tắc khen ngon.

 Có lần đám giỗ, bác Ba kể cho Thiên và mấy anh em họ của Thiên nghe về tích của giòng họ 

- Họ Nguyễn mình vốn ở vùng Thanh Hóa – Nghệ An. Khi Nguyễn Huệ ra Bắc Hà dẹp loạn xong và trở về nam, cụ tổ họ nhà mình đã đem một nhánh gia tộc đi theo

 Hôm tháng chạp Thiên theo ba đi dẫy mả, ba chỉ cho Thiên cái mả to như ngọn đồi ở bên rẫy mía và bảo đó là mả tổ. Mả tổ xây bằng đá ong, ô dước, vôi, có tường bao quanh, phía trước là cái khám nho nhỏ dựng tấm bia và bốn trụ biểu cao vượt đầu người lớn. Mả tổ bị sập một khúc tường bao và hai trụ biểu bị đổ. Bác Ba nói hồi nẳm Mỹ bỏ bom xuống căn cứ, có một quả bom to bằng hai người ôm nổ cách đó mấy cây số nhưng vì chấn động quá mạnh nên mả tổ bị sạt một góc như thế .

Cả một vùng rộng lớn, đất An, Hội, Sơn, Thạnh… này, hầu hết là người họ Nguyễn và phần lớn đều có họ hàng gần xa với nhau. Họ Nguyễn bên nội, họ Nguyễn bên ngoại vốn là thông gia, sui gia với nhau nhiều đời, bởi vậy đi đâu cũng thấy họ hàng cả, không bên nội thì cũng bên ngoại, hoặc là cả hai bên.

 Ngày đất nước chia đôi, nội bị đi tập kết và có tìm về vùng Thanh – Nghệ để tìm vết tích tổ nhưng không tìm ra. Những tưởng đi hai năm thì về, nào ngờ kéo dài mút chỉ cà tha. Bà nội ở nhà bị hương ấp hội tề o ép quấy nhiễu không ít nhưng vẫn một lòng chờ ông.

 Ngày nội trở về, bà nội mừng như trẻ lại mươi niên, ông nội rơm rớm nước mắt, những ngày tháng sau đó thì ông dường như u uất, cả ngày lặng lẽ không nói gì cả. Ai có vô tình nhắc chuyện nước non thì ông phủi tay bỏ đi

 Ngày giỗ tổ, họ hàng đông đảo. Có người bên ngoại nói khoáy chuyện nội đi tập kết. Bên nội có người đáp trả sanh ra tiếng lại lời qua, tuy chẳng đến nỗi ồn ào nhưng dần dần lơ nhau, né nhau, xa nhau. Họ Nguyễn bên nội, họ Nguyễn bên ngoại bao đời nay là họ hàng thông gia với nhau, cùng chung sống ở vùng đất này, giờ vì chuyện thiên hạ đâu đâu mà bỗng dưng lạnh lùng xa nhau. Thiên tuy còn nhỏ nhưng cũng cảm nhận được điều này nên hỏi ba. Ba bảo

- Chuyện người lớn rắc rối lắm, mai kia con lớn lên con sẽ hiểu.

 Thiên nghe thế thì không hỏi gì nữa, chạy ra sân chơi với những người anh em họ của cả bên nội lẫn bên ngoại

 Ngày giỗ ông cao ở từ đường bên ngoại, Thiên theo má về ăn giỗ. Từ đường họ Nguyễn bên ngoại là một ngôi nhà cổ to lớn nhất vùng, rất nhiều phòng ốc kho lẫm. Thiên khoái ngồi chơi và trượt trên tấm phản gỗ của ngoại, nó láng như gương và lên nước bóng rất đẹp, thứ nữa là chơi ở cái chỗ giếng trời giữa nhà, mấy con cá hóa long gắn ở đầu máng xối, mỗi khi mưa xuống là nước từ miệng cá xối xả tuôn ra, bên hông nhà có cây khế to hai người ôm, mỗi mùa khế chín, bọn chim két kéo về tranh ăn  đánh nhau kêu chí chóe cả góc vườn. Thiên hỏi má.

- Chim két ăn khế có trả vàng không?

 Má Thiên cười

- Đó là chuyện cổ tích dân gian.

 Lớn hơn chút nữa, Thiên được gởi lên thành trọ nhà người bà con để đi học. Ở quê, ruộng vườn, rẫy mía, đất hương hỏa từ đường...bên nội, bên ngoại đều bị buộc vào hợp tác xã hết ráo dù cả hai bên đều chẳng ai ký bất cứ giấy tờ gì. Ruộng bên ngoại, đất bên nội giờ thành của chung của thiên hạ nhưng thiên hạ là ai thì cũng chẳng ai biết. Vì của chung nên chẳng ai làm, có làm cũng làm qua quýt lấy có, từ đó ruộng không còn nhiều lúa như ngày xưa, mặc dù vẫn đất ấy, giống ấy, vẫn con bò ấy kéo cày. Rẫy mía cũng không còn mía, giờ trồng mì, ông che cũng thất nghiệp luôn. Bác Ba lấy tấm vải dù của lính Mỹ ngày xưa nhảy dù phủ lên và để ở nhà kho. Có người bên ngoại trách.

- Đi với người ta làm chi để giờ ruộng bị người ta lấy, rẫy mía không còn, ông che bỏ chỏng chơ ở nhà kho?

 Nội vốn lặng lẽ bao lâu nay, chưa bao giờ thanh minh hay đính chính điều gì, vậy mà đột nhiên lớn tiếng

- Xã hội nhiễu nhương, hoàn cảnh đưa đẩy, có ai làm chủ được mệnh mình? Mấy người giỏi sao không chọn lấy một con đường?

TIỂU LỤC THẦN PHONG

Ất Lăng thành, 09/2021



Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Có một buổi trưa, hai đứa đang thưởng thức bò bía, đậu đỏ bánh lọt ở chùa Xá Lợi, góc Bà Huyện Thanh Quan và Ngô Thời Nhiệm (?), thì gặp một "cái bang". Đầu đội khăn rằn, đeo mắt kiếng cận nặng, cổ quấn vài ba chiếc khăn đủ màu và ông còn dẫn theo hai con chó, vừa đi vừa múa tay múa chân như người say rượu. Chừng như ông không cần thấy ai, chung quanh chỉ có ông và hai con chó. Người đàn ông "cái bang" đó là nhà thơ, nhà văn, nhà biên khảo nổi tiếng của Việt Nam: Bùi Giáng. Hai con chó vừa đi vừa sủa vang, khiến một số nữ sinh Gia Long đang đứng quanh xe bò bía, vội vã chạy né qua bên kia đường. T
Một ngày nọ, ngài gặp một bà mẹ, bà ôm một đứa con vừa mất vừa đi vừa khóc lóc thảm thiết, ai cũng mũi lòng thương, thông cảm vì mất con là nỗi đau khổ nhứt trong cuộc đời… người ta mách bảo là bà nên gặp Sa Môn Cồ Đàm, bà sung sướng bế con đã mất đi ngay và gặp phật, xin phật dùng phép thần thông cứu sống con bà. Xung quanh phật, các tì kheo đang ngồi cầu nguyện cho chúng sanh được giải thoát và cũng cầu nguyện cho các chúng sanh còn tại thế sẽ may mắn mà gặp được giáo pháp của Như Lai. Rồi người mẹ đau khổ cũng được gặp phật.
Cuối tháng Ba, những cơn gió nóng tràn về thành phố. Một hai trận mưa lạc loài đến sớm rồi thôi. Không khí ngột ngạt. Mùi đất nồng khó chịu. Như một cô gái uể oải trong cơn bệnh, thành phố trông mệt mỏi, rạc rời. Đoan đi vào Câu lạc bộ của trường. Bình thường, cứ đến thứ Sáu là không khí chuẩn bị cho chiều văn nghệ thứ Bảy lại nhộn nhịp. Nhưng hôm nay, như có một cái gì kéo mọi thứ chùng xuống. Chị Thuận, người phụ trách Câu lạc bộ, mỉm cười khi thấy Đoan, nhưng là một nụ cười kém tươi. Chị vẫn câu chào hỏi thường lệ: “Em uống gì không?” “Dạ, chị cho em nước chanh.” Chị Thuận pha ly nước chanh đặc biệt, nóng, ít đường, mang đến để trước mặt Đoan, và kéo ghế ngồi xuống bên Đoan. Hình như không có gì để bắt chuyện, chị Thuận nhìn ra sân, nói nhỏ:
Tôi khép cánh cửa phòng ngủ, rón rén bước ra, sợ gây tiếng động làm thằng cháu nội lại giật mình thức giấc; thằng bé đã mười tháng tuổi, biết làm đủ thứ trò như con khỉ con, chiếc mũi bé xíu của nó chun lại, đôi môi dầy cong lên, mỗi khi bà nội bảo nó làm xấu, thật dễ thương, canh nó hơi mệt vì phải chơi cho nó đừng chán, lèo nhèo, nhưng chơi nhiều thì sức bà nội có hạn, làm sao chạy theo nó cả ngày được!
Những cái mặt hướng về phía trước. Những cái đầu hơi cúi, những cái lưng hơi còng có lẽ bởi sức nặng của chiếc ba lô đeo sau lưng, hay tại - nói một cách màu mè, văn vẻ, đầy giả dối là - gánh nặng của đời sống. Trước mặt tối đen. Bên phải là những cánh cửa cuộn bằng tôn đóng kín. Những cánh cửa lạnh lùng, vô cảm; lầm lì từ khước, âm thầm xua đuổi. Dưới chân là nền xi măng. Cứng và lạnh. Không thể là nơi tạm dừng chân, nghỉ mệt. Sâu vào phía sát vách là nền lót những viên gạch vuông. Không một cọng rác. Không một bóng chó hoang, mèo lạc. Không cả những hình hài vô gia cư bó gối vẩn vơ nhìn nhân gian qua lại.
Đức hạnh cao quý thể hiện thành tâm vô phân biệt. Tâm vô phân biệt tạo thành một sự bình đẳng tuyệt đối trong giáo pháp của đức phật. Giáo pháp thâm sâu vi diệu của Như Lai thì không phải ai cũng hiểu hết, cũng ngộ được điều đó đa phần các vị đại trí thấu đạt. Còn lòng từ bi của phật thì lan tỏa vô phân biệt như ánh sáng mặt trời soi sáng khắp nơi nơi, như mưa rơi tắm mát đại ngàn. Những lời giảng dậy trên đây được dẫn chứng nhiều và rõ nhứt là ở phật giáo Tây Tạng.
Anh Hai của tôi, sau chuyến vượt biên thất bại, bị giam ở nhà tù Bình Đại Bến Tre chín tháng, khi trở lại trường Phan Thanh Giản, Cần Thơ mới biết đã bị cắt hộ khẩu, mất việc làm, bèn quay về Sài Gòn sống tạm với gia đình, chờ cơ hội vượt biên tiếp theo. Một hôm, anh bị cơn sốt rét tái phát hành hạ, (hậu quả của những ngày trong trại giam), cần phải đến bệnh viện chữa trị, nhưng hộ khẩu không có, anh bèn mượn cái Sổ Sức Khỏe của thằng cháu (con bà chị họ ở kế bên nhà), để đi khám bệnh
Năm đó, tôi qua Arlington,Texas thăm gia đình, rồi ghé Dallas thăm người hàng xóm cũ thân thiết từ khi còn ở Việt Nam . Chú Thím ấy đónvợ chồng tôi nồng hậu như mọi khi, bữa ăn đặc sản món Huế như tôi yêu cầu, sau đó kéo nhau ra phòng khách ăn bánh uống trà . Rồi Thím gọi cháu ngoại: - Thiên Ân ơi, ra đây ca hát cho hai bác Canada nghe đi con.-Cô bé hai, ba tuổi tung tăng ngoan ngoãn khoanh tay chào chúng tôi, rồi bạo dạn chạy ra giữa phòng, tay giả bộ cầm micro phone, rồi nhún nhảy tự nhiên hát một bài hát Tiếng Việt thật rõ ràng .
Ngày xưa rất xa xưa, ở vùng quê thôn dã, người dân sống giản dị, đơn sơ, mộc mạc; người ta trồng tỉa những vườn rau cải, vườn ngô, vườn cà… lấy hoa lợi để sống. Thường thường có chim chóc kiếm ăn đến phá phách, dãi dãi, mổ mổ những hạt mới ươm trồng hay những nụ hoa mới ra, chúng ăn, với con người trồng tỉa lấy hoa lợi là chúng nghịch ngợm và phá hoại, ăn khín. Mới đầu chúng đến một vài con, sau rủ nhau đến nhiều hơn, cả nhà cả đàn chim chóc… và người gia chủ trồng tỉa phải tìm cách bảo vệ hoa màu của họ, nguồn sống của họ.
Người đàn bà với tay kéo tấm bạt vải phủ hai mặt bàn thấp và lổng chổng mấy cái ghế úp lại phía trên. Buổi chiều tháng chín nhả vài vệt nắng vàng sậm trên mấy lùm cây mắm khẳng khiu mọc hoang dại bên hông. Căn nhà chia làm hai, phía trên mặt lộ làm quán lộ thiên, phần còn lại là căn nhà sàn nằm doi ra mặt bờ kinh Cụt. Mặt quán cũng được biến dạng mỗi ngày. Sáng có cà-phê, hàng xôi và thuốc lá. Buổi trưa là quán cơm bình dân cho đám khách hàng chợ Giữa, đến từ các huyện xa xôi. Tối đến, chỉ còn vỏn vẹn thùng thuốc lá bán lẻ. Tất cả sinh hoạt biến dạng dưới bàn tay của người đàn bà và đứa con gái nhỏ. Người ta nhìn thấy trong đôi mắt nâu đen của hai má con in đậm hình ảnh căn nhà chật chội, bày biện lượm thượm những ghế bàn buồn bã, lạnh lùng. Bóng dáng người đàn bà và bếp lửa áo cơm, vẫn không đủ vẽ lên khung cảnh đầm ấm của một gia đình. Đứa con gái mười bốn tuổi, giống má, lầm lũi như chiếc bóng trong nhịp đời hờ hững.
Ai cũng có những hoài niệm mang theo cả cuộc đời, hoài niệm ngày càng nhiều theo tuổi tác dâng lên, người may mắn có nhiều hoài niệm vui hơn buồn để khi chợt nhớ thấy lòng vui vui. Ai cũng có những ước mơ thầm kín để khi hoài niệm thấy mình còn là người, giả như ước mơ cho người yêu cũ có cuộc sống hạnh phúc. Điều ấy nói ra ai tin nên xếp vào ước mơ thầm kín, còn những ước mơ nói ra được chỉ là hoang tưởng nhất thời như thấy chiếc xe đẹp lướt qua, ước gì mình có chiếc xe ấy. Nhưng giả sử ngày mai trúng số, có tiền mua chiếc xe ấy thì ước mơ nói ra được hôm qua đã thay đổi thành chiếc xe mắc tiền hơn nữa và đẹp hơn nữa vì là chiếc xe của hôm nay, của người mới trúng số. Khác với ước mơ thầm kính vui buồn riêng mang coi vậy mà theo ta như hình với bóng, càng thầm kín càng bền lâu sau nỗi buồn chia xa đã gặm nhấm tâm can theo tháng ngày, nghe tin người xưa không hạnh phúc thì nỗi buồn tăng lên gấp đôi nhưng nói ra ai tin trong trời đất bao la này…
Truyện HOÀNG CHÍNH - Thứ Mùa Màng Không Có Thật


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.