Hôm nay,  

Đào Bang

04/02/202200:00:00(Xem: 2431)
 
Photo_Nguyễn Lập Hậu_for Đào Bang
Photo của Nguyễn Lập Hậu
 
Thế là đào lại rụng, mùa đào thứ hai mươi mốt của tôi ở Hoàng Hoa trang thuộc Đào bang này. Thành Ất Lăng là thủ phủ của Đào bang, sở dĩ có tên gọi này là vì trái đào là biểu tượng của tiểu bang Georgia , nick name của tiểu bang là Peach state, ngoài ra hoa Dogwood cũng là đồng biểu tượng.  

Ở Đào bang, hoa đào bạt ngàn, trái đào nhiều không đếm xuể. Hoa đào có nhiều loại: Đào thắm, đào phai, đào bạch, đào đơn, đào kép, đào nhiều màu… Mùa xuân hoa đào nở rực hồng cả một góc trời của Hoàng Hoa trang nói riêng của Đào bang nói chung, cảnh tượng đẹp như cõi thiên thai. Trái đào cũng có rất nhiều loại: Đào vàng, đào trắng, đào tiểu, đào đại, đào lông, đào láng, đào vườn, đào rừng… Trái đào đủ độ già ăn giòn, chua chua ngọt ngọt ngon hơn là đào chín. Mùa xuân hoa đào nở, mùa hạ trái đào rụng, những nhà vườn chuyên môn thì hái bán, những người trồng tài tử thì… trái rụng đầy đất. Nếu mùa xuân hoa đào tạo ra cảnh quan thiên thai thì mùa hạ đào rụng, chín nhũng ra, côn trùng kéo đến trông bầy nhầy như “ Địa ngục”. Thế mới biết thiên đường với địa ngục không hai, cũng từ một tâm niệm mà ra.
 
Đào bang không chỉ có đào, mà còn là một vựa trái cây, một chành đậu phộng, đậu nành, bắp, hạt,  dẻ, lê, táo… và bao nhiêu nông sản khác nữa. Ngày xưa Đào bang là lò cung cấp bông gòn cho Anh quốc và châu Âu, hàng trăm điền trang trồng bông gòn, mùa bông gòn nở bung ra, những cuộn bông gòn như mây trắng cuồn cuộn trên mặt đất. Thuốc lá cũng là đặc sản nổi tiếng một thời của Đào bang. Thời thế đổi thay, bể dâu vô thường, giờ đây bông gòn và thuốc lá đã lui vào dĩ vãng.
 
Con người cũng hay thật, vượt quyền tạo hóa. Đậu nành, bắp và nhiều loại nông sản khác bị người ta can thiệp vào cái gene của chúng. Mình muốn trồng thì hàng năm phải mua giống của nhà vườn. Mình không thể để giống được, mặc dù những vụ mùa trước lựa chọn hạt to, chắc để giành làm giống cho mùa sau nhưng chúng chẳng bao giờ nảy mầm được, đơn giản là vì gene của chúng đã bị thay đổi rồi. Các nhà vườn làm thế để buộc người ta phải lệ thuộc vào họ. Họ độc quyền về giống và cây con.
 
Đào bang đã cống hiến cho nước Mỹ một vị tổng thống, đó là ngài Jimmy Carter, trước khi làm tổng thống thì ông ấy vốn là “vua đậu phộng” của xứ này. Tổng thống Jimmy Carter ôn hòa, từ ái, nho nhã… Có lẽ tính cách này không hợp với cái gu của người Mỹ. Cái tạng người Mỹ là phải mạnh, phải hùng thì mới ăn khách, với những tính cách ấy thì người Mỹ cho rằng Jimmy Carter yếu. Jimmy Carter có lòng từ bi lớn, ông, vợ ông và tổ chức từ thiện Habitat đã dựng hơn năm ngàn ngôi nhà cho người nghèo, cứu trợ trong và ngoài nước Mỹ mấy chục năm nay. Tổng thống nai lưng ra làm, làm đổ mồ hôi sôi nước mắt chứ không phải cái kiểu mang găng trắng, khều khều để chụp hình quay phim như các quan ở xứ mình. Tổng thống Jimmy Carter cũng là người thúc đẩy quốc hội và chính phủ nhận gấp đôi số lượng hồ sơ HO, đẩy nhanh việc rút ngắn thời gian cứu xét hồ sơ HO, có lẽ những ai đi diện HO cũng nên nhớ ơn ngài. Tổng thống Jimmy Carter là một nhân cách lớn, một người con ưu tú của Đào bang.
 
 Nhân mùa đào rụng ở Hoàng Hoa trang, tôi lại nghĩ lan man, tâm trí bay bổng để mặc cho ngòi bút rong ruổi chạy trên trang giấy. Phía nam của Đào bang rất mạnh về nông nghiệp, mặc dù khí hậu và thổ nhưỡng hai vùng đều như nhau. Phía bắc Đào bang thì thịnh về công nghiệp, kỹ nghệ và chính trị. Không chỉ Đào bang, trên bình diện quốc gia cũng thế, những bang miền nam thiên về nông nghiệp, phát đạt về nông nghiệp, còn những bang miền bắc thì mạnh về công nghiệp, kỹ nghệ, chính trị, quyền lực. Liên hệ rộng hơn nữa thì thấy bên Tàu cũng thế, miền nam vô cùng phát đạt về nông nghiệp và bán mua nhưng miền bắc thì vượng về công nghiệp, chính trị. Ngay cả cố quận mình cũng vậy, miền nam là vùng của nộng nghiệp, miền bắc là đầu mối của thế lực chính trị, vượng về quyền lực. Người phương nam hiền hòa, thật thà, chất phác. Người miền bắc thì sắc sảo, giỏi ăn nói lý luận, ngôn ngữ bóng bẩy đến độ xảo… Từ đấy tôi nhận thấy rằng đất phương nam ở đâu cũng thịnh về nông nghiệp, còn phương bắc thì vượng về chính trị, quân sự và quyền lực, phải chăng vượng khí đất trời như thế? Phải chăng đó là sự ngẫu nhiên tình cờ hay có “Định mệnh” sắp sẵn?
 
 Người mình thường nói “ Đất lành chim đậu”, Đào bang này quả là đất lành, người kéo về đây càng ngày càng đông, nhất là từ sau đại hội Olympic 1996. Con số người đổ về Đào bang sinh sống cứ tăng đều, mỗi năm một tăng, hậu quả là giờ đây thành Ất lăng kẹt xe kinh khủng, là một trong mười thành phố kẹt xe tồi tệ của nước Mỹ. Nếu ngày xưa thì “ ba ngày kẹt nhẹ, bảy ngày kẹt nặng”, giờ thì ngày nào cũng kẹt, giờ nào cũng kẹt. Đoạn xa lộ 75-85 đi xuyên qua thành Ất Lăng là con đường khổ nạn, kẹt kinh khủng, không lúc nào không kẹt, nó chỉ được thông thoáng trong năm dịch vừa qua.
 
 Đào bang quả là đất lành thật, Đào bang không xa hoa tấp nập như Las Vegas, chẳng giàu sang quý phái như San Francisco, nào có được đồ sộ như New York, lại càng thiếu cái hào nhoáng của Hollywood , không có cảnh quan thiên nhiên hùng vĩ của Yellowstone, Rushmore, Alaska… nhưng bù lại Đào bang không bị nóng thiêu lửa cháy, không bão tuyết, cuồng phong, sóng thần, núi lửa, động đất...Đào bang đất đai trù phú, màu mỡ rất bình yên, dễ sống, vật giá và nhà cửa rẻ. Việc làm dễ kiếm, đất đai cũng rẻ… bởi thế mà người trong thiên hạ đổ dồn về đây.
 
 Đào bang không chỉ có nông sản mà cũng có những thương hiệu tên tuổi lẫy lừng thế giới như: Coca Cola, CNN, Delta Airline...Công nghiệp, thương mại, kinh tế và đời sống vật chất thì nơi nào trên xứ sở Cờ Hoa này cũng tương đồng nhau. Các thành phố và các bang đều giống nhau, nào là siêu thị, trung tâm mua sắm, khu vui chơi giải trí… và cư dân thì ăn uống, vui chơi, mua sắm hầu như nơi nào cũng na ná như thế cả. Cái làm cho Đào Bang có nét riêng, dấu ấn riêng chính là ở những đồng quê, những trang trại mênh mông ngút tầm mắt và cũng chính vì thế mà người ta mới chọn trái đào và hoa Dogwood làm biểu tượng của tiểu bang. Đồng quê mới chính là cái hồn, cái văn hóa truyền thống của của Đào bang nói riêng nước Mỹ nói chung.
 
 Hoa đào nở mùa xuân, trái đào rụng mùa hạ, Đào bang nằm mơ màng dưới trời xanh mây trắng, mặc cho người đến rồi đi. Ngoài kia, thành Ất Lăng kẹt xe ghê gớm mà nơi này, Hoàng Hoa trang vẫn lặng yên, tịch tĩnh. Những điền trang danh tiếng một thời như Tara, Love Joy, Mimosa, Twelve oaks… vẫn nằm mơ màng nhớ về một dĩ vãng xa xưa.
 
 Ngày mùa hạ, tôi thường nhặt đào rụng, đêm mùa hạ nằm nghe đào rơi lộp độp trên mái nhà, những cây đào sát hiên nhà, tán lá phủ lên mái, trái đào rụng lộp bộp suốt cả đêm trường   Đêm nằm nghe tiếng đào rụng lộp độp trên mái nhà, cứ ngỡ tiếng vọng từ một miền xa lơ xa lắc nào đó của tuổi thơ vọng về. Tiếng đào rụng làm nhớ đến tiếng mận rụng trên mái tôn của ngày xưa. Hồi ấy ba trồng cây mận bên chái hiên nhà, cây mận cũng cho quả sai lắm, trái mận to như nắm tay người lớn, chín ửng hồng thấp thoáng trong tàn lá xanh. Mận nhiều quá, đêm đêm rụng trên mái tôn lộp bộp. Cứ hai ngày ba lựa những chùm mận to đẹp nhất để dâng cúng Phật. Thường thì sau hai ngày để trên bàn thờ thì trái mận mất giòn đi. Ba hạ xuống thay trái mới, trái cũ dù không còn ngon nhưng vẫn phải ăn, vì bỏ thì sợ mang tội. Từ chuyện trái mận cúng xong thì hết giòn, hết ngon tôi laị nhớ chuyện người ở quê nhà. Hồi ấy hàng xóm có người từ Bắc mới vô, y là tay vô thần và cực đoan. Có lần y cũng làm giỗ cho mẹ ( tất nhiên là y chẳng biết lễ tiết gì cả) chỉ nấu thức ăn dâng lên bàn thờ mẹ y, đốt nắm nhang và chờ nhang tàn thì hạ xuống. Lúc mọi người ăn uống thì y oang oang nói:” Rõ ràng các vị có về hưởng, hãy xem này! thức ăn mất hết hương vị như lúc mới dâng lên!” thật mắc cười, rõ ràng tận trong thâm tâm y vẫn tin có hương hồn ông bà, cha mẹ, trời đất quỷ thần…mặc dù y tôn thờ chủ nghĩa vô thần, làm việc bá đạo! Mấy tay vô thần gộc hoặc đầu lãnh, khi về già thường viết sách chạy tội, lấp liếm chuyện ác đã làm, thanh minh thanh nga niềm tin xằng bậy…Có nhiều tay vô thần còn quy y, sám hối trước khi chết! chỉ tội bọn tép riu đi theo phí cả đời, suốt đời phò ác, haị người, haị vật, haị nước non, phỉ báng thánh thần.
 
 Đêm phương ngoại nằm nghe đào rụng lộp độp trên mái nhà, lòng thấy xốn xang chi lạ. Cái xứ sở lạ lùng này, thông thường người ta biết đây là xứ sở phồn vinh về kinh tế, hùng mạnh về quân sự, thanh minh về chính trị, tân tiến về khoa họac kỹ thuật, nhân bản về giáo dục, khai phóng về văn hoá nghệ thuật…Nhưng người ta không ngờ rằng, cái xứ sở này còn là nơi mà nền nông nghiệp vô cùng trù phú và phát triển, sản vật phong nhiêu sung túc, hoa quả nhiều vô kể. Cái đất chi mà lạ, cắm cây gì xuống cũng sống, gieo hạt gì xuống cũng mọc lên. Lòng tự hỏi lòng, sao người ở đây nhiều phước báo thế? phải chăng quá khứ gieo trồng nhân lành nên nay hưởng quả? phải chăng những người cùng tâm lượng rộng, chí nguyện lớn nên cùng cộng sinh ở quốc độ này? hỏi tức là thưa rồi vậy.    Tất cả mọi người, hàng ngày đang hưởng quả và cũng là đang tạo nghiệp. Mỗi năm xứ Cờ Hoa viện trợ cho thế giới hàng trăm tỷ mỹ kim (gồm cả tiền của chính phủ, tư nhân, các tổ chức từ thiện…), cưu mang hàng triệu nạn nhân khắp thế gian này. Không ở đâu mà chính phủ và người dân có lòng bao dung, cởi mở để chấp nhận hàng triệu, triệu người di dân như thế! Không ở đâu trên thế gian này mà người ta có thể tự do truyền đạo, hành đạo như ở đây. Ai cũng dễ dàng và tự do theo đuổi đức tin của mình, việc xây cất nhà thờ, thánh đường, chùa chiền… rất dễ dàng, chỉ cần đủ những yếu tố cơ bản mà luật pháp đòi hỏi như: diện tích đất, chỗ đậu xe, sự an toàn cho tín đồ…Ở đây đủ các sắc dân trên thế giới và cũng từ đó đủ các sắc thái văn hoá, các tôn giáo mà người di dân mang theo. Tất nhiên không thể không nói đến mặt trái của nó, ở đây cũng có nhiều bất công, bất cập về địa vị, thu nhập, quyền lợi, màu da…Dân chúng tiêu thụ một cách hoang phí, hàng năm có cả trăm nhìn tấn thức ăn thừa đổ đi. Chính phủ can thiệp quân sự nhiều nơi trên thế giới, sản xuất mua bán vũ khí  nhiều nhất thế giới, súng đạn trong dân chúng nhiều như kẹo…Nghiệp thiện và bất thiện cùng tồn tại, ngày ngày đang thọ hưởng quả và tạo nghiệp không ngừng.
 
 Đào rụng lộp bộp trên mái nhà cứ như điệp khúc bất tận, như tiếng vọng của quá khứ gợi lên những âm hưởng xưa, cái âm thanh lộp bộp như gõ vào trong tạng thức, đánh thức những kỷ niệm một thời chưa xa lắm. Nằm ghe đào rụng, tâm trí cứ miên man như ngựa hoang, như khỉ chuyền cành, bởi vậy mà nhà thiền mới nói “ Tâm viên ý mã”. Nghe tiếng đào rơi, lòng phân vân bao nỗi bất cập của chuyện đời chuyện đạo, những mối ưu tư giữa cố quận với nơi này, dẫu biết rằng nhà ở đâu thì tim mình ở đó như câu danh ngôn tiếng Anh đã viết:” Home is where heart is”, nhưng sao lòng vẫn nhớ, vẫn thương cố quận không cùng, cố quận mình nhiều nhọc nhằn, nhiều thiên tai lẫn nhân tai, người xứ mình còn nhiều đau khổ lắm. Nắng hạn mưa lũ quanh năm, có đâu được thanh bình, trù phú như Đào bang này hay như xứ sở Cờ Hoa này. Lòng lại nghĩ, phải chăng là nghiệp? là vận số?
 
 Mùa xuân hoa đào nở, mùa hạ trái đào rơi, hoa quả của mùa màng dễ dàng nhận thấy và nắm bắt. Quả của quy luật nhân quả, luật tự nhiên thì đâu dễ gì thấy và biết được, đôi khi nó như sương khói mờ hồ, khó hiểu khó tin. Quả có thể trổ liền tức thì như “ Hậu quả nhãn tiền” nhưng phần nhiều thì quả trổ đời sau, gọi là hậu thế báo, lai thế báo…thậm chí quả có thể không trổ, vì nó còn bị chi phối bởi cái duyên, không đơn giản cứ hễ có nhân là có quả. Cái duyên quan trọng lắm, có thể làm tăng trưởng thúc đẩy cái quả sớm xảy ra hay chậm laị hoặc thui chột đi, ví như gieo hạt luá trên ruộng nước, có phân bón, chăm sóc, thời tiết thuận lợi… thì sẽ có mùa màng bội thu; còn như gieo hạt lúa trên cát sa mạc, không nước , phân, chăm sóc…thì chắc chắn không có gì để gặt! Bởi thế trong nhà Phật không chấp nhận chuyện số mệnh, tương lai nằm trong tay của mình, những nghiệp cũ có thể sửa đổi chuyển hoá. Ở đời gặp thầy lành, bạn tốt không phải dễ, gặp duyên lành cũng không phải dễ. Phần nhiều gặp duyên không tốt vì cái tâm , cái tôi, cái ngã nó thích hưởng thụ, ngại khó… từ đó nó hướng ta về những cái: tài- sắc- danh-thực-thuỳ. Nó ràng buộc ta vào: Sắc-thanh-hương-vị-xúc-pháp, để rồi tháng năm qua đi, đời nối tiếp đời cứ như trái đào rụng trong sự uổng phí vô tình.
 
 Đêm nằm nghe đào rụng lộp độp trên mái nhà, nhớ về tiếng mận rụng ngày thơ ấu xa xưa. Laị nghĩ đến trái táo rụng xuống đầu nhà bác học Newton. Đã từng vô số lần rụng, vô số trái táo rụng nhưng chỉ có mỗi trái táo rụng trên đầu ấy mà nhà bác học đã khám phá ra định luật sức hút của trái đất. Rõ ràng trong tạng thức nó chưá vô số chủng tử, khi có một cơ duyên đặc biệt nào đó tác động thì nó lập tức khởi tác dụng vậy! cũng vì thế mà có nhiều người chợt ngộ rất tình cờ. Ví như ngài A Nan, vì chưa chứng quả Arahanta nên không được dự kết tập kinh điển. Ngài buồn lòng suy nghĩ nhiều, rồi trong lúc vừa toan đặt lưng nằm nghỉ thì bất chợt ngộ mà chứng quả. Hoặc giả như Lục Tổ Huệ Năng trong lúc gánh củi đi bán, nghe người tụng kinh mà ngộ ra…
 
 Trái đào rụng, chín bấy nát bét ra, những tưởng thế là xong. Nào ngờ hạt vùi trong đất, năm sau laị mọc cây đào mới. Mùa thu lá đào vàng, muà đông trơ trụi cả cành nhưng nhựa sống vẫn âm thầm nuôi những nụ, mùa xuân nở ra rực rỡ đất trời, mùa hạ thì trái đào chín rụng rơi. Sinh-già-bệnh-chết cái vòng quay bất tận, sinh-trụ-dị-diệt vẫn tiếp diễn không ngừng, tử -sanh vẫn hiện diện trong từng tế bào và trong mỗi sát- na này!
 
 Đào bang đang giữa hạ, nắng vàng như rót mật tự trời xanh, mặc dù dịch virus Corona đã giảm, số người nhiễm mới không bao nhiêu, mọi việc dần trở lại bình thường nhưng trong tâm con người ta chưa thể bình thường, lúc nào cũng đầy những yêu ghét, nghi kỵ, sợ sệt… Người ta cũng không thật sự biết con virus Corona từ đâu ra, từ phòng thí nghiệm Wuhan? Từ chợ hải sản? Từ động vật hoang dã? Tất cả chỉ là giả thuyết, chẳng có chứng cứ cụ thể và Trung Cộng vẫn tiếp tục che giấu sự thật, không một ai có thể tiếp cận được những dữ liệu ban đầu. Bác sĩ Văn Lượng, người đầu tiên lên tiếng cảnh báo virus Corona thì đã nằm yên giấc ngàn thu, những tài liệu liên quan thì đã bị thủ tiêu hoặc xóa sạch. Thật tình thì đây chẳng phải cơn dịch đầu tiên của loài người và cũng chẳng phải là cơn dịch cuối cùng. Khoa học kỹ thuật, y học, dược học… dù có phát triển đến đâu đi nữa cũng không thể nào xóa bỏ được dịch bệnh. Dịch bệnh cũng là biểu hiện của vô thường, cũng là dấu hiệu cụ thể của thịnh suy. Đã thành ắt có hoại, có sanh ắt có tử, có thịnh thì sẽ suy. Đất trời vũ trụ cũng không nằm ngoài sự hợp tan và thịnh suy.
 
 Đào bang những ngày nắng hạ, thành Ất Lăng hối hả chạy đua với thời gian để chích ngừa cho dân, gỡ bỏ nốt những biện pháp giãn cách cuối cùng. Phải đến khi nào không còn phải đeo khẩu trang bịt miệng bịt mũi nữa thì mới hoàn toàn trở lại bình thường. Khi ấy thì những khuôn mặt nam thanh nữ tú của người Đào bang lại “ Tương ánh hồng” như  hoa đào. Hoa đào của Đào bang nào có khác gì hoa đào của Thôi Hộ ở thành Nam đời Đường. Không biết có phải vì nhờ thơ của thi sĩ mà hoa đào ấy trở nên đẹp nổi tiếng, khắc sâu vào lòng người hay là nhờ hoa đào mà thơ của thi sĩ Thôi Hộ hay hơn? Thôi Hộ làm thơ rất ít nhưng với bài thơ “ Đề đô thành nam trang” này đã trở thành một huyền thoại có một không hai trong văn sử. Người yêu thơ, yêu hoa đào xưa nay ai ai cũng thích, cũng mê. Hoa đào của hôm nay có khác gì hoa đào của mười lăm thế kỷ trước? Chắc là không, chắc chắn là không! Khác chăng là bởi tại tâm mình. Người Tàu ngày xưa tưởng tượng và thi vị hóa trái đào thành những loại đào tiên,  đào trường thọ… Những trái đào của yến tiệc ở cung Dao Trì ăn vào thì sống mãi, năng lực công phu không ai địch lại, trẻ mãi không già…
 
Không biết người xưa khi thi vị hóa và sáng tác ra những loại đào tiên, đào trường thọ ấy có nằm nghe đào rụng chăng? Tiếng đào rụng lộp bộp giữa những đêm trường mùa hạ như nhắc nhở nhịp điệu vô thường, như báo hiệu sự tương tục bốn mùa, như cái điệp khúc sanh tử bất tận.
 
TIỂU LỤC THẦN PHONG
Ất Lăng thành, 08/2021
 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Chiếc xe đò rẽ vào ngả ba Lộ Tẻ, chạy chậm lại rồi ngừng hẳn. Trên xe một số người nhốn nháo, ló đầu ra cửa sổ xem có chuyện gì. Anh phụ xe nhảy xuống vội vàng chạy về phía trước. Đã hơn 2 giờ chiều, trong xe hầm nóng và trở nên ồn ào. Vài phút sau, anh phụ xe trở lại và báo tuyến đường về Rạch Giá đã đóng vì nước lũ về ngập một số đoạn đường dài phía trước. Tất cả bà con phải xuống xe, hoặc tìm nhà nghỉ tạm chờ nước rút, hoặc bao đò máy về Rạch Giá. Đó là một buổi chiều giữa mùa nước nổi, tôi theo dòng người bước xuống xe, trời hanh nắng và đứng gió. Đường xá, đò ghe tôi không biết rành, chắc là phải tìm nhà xin trọ, chờ nước rút.
Rứa là tui được hưởng hai cái bánh nhỏ thanh tao dòn rụm, bột họ pha răng mà mê rứa không biết, kèm mấy lát vả, lát khế, rau sống chấm nước tương pha chế ngon ơi là ngon. Tỉnh táo bao tử rồi hắn chở tui đi vòng thành phố Huế, qua khu Thương Bạc, ủa bữa ni răng mà người đông rứa, bớt vẻ yên tĩnh như ngày xưa, tiệm quán cũng mọc lên khó còn đất trống. Vừa đi hắn vừa kể nỗi gian khổ lúc trẻ, nay thì hậu vận quá tốt, con có địa vị thành công, chồng cưng yêu nhiều hơn lúc tuổi xế chiều, mà nhìn kỹ hắn tươi đẹp mặn mà ghê, chắc hạnh phúc gia đình biến sắc thêm xinh hè. Đi nửa ngày hắn thả tui về nhà” tau bận chút chuyện, sẽ gặp mi sau nữa nghe. Tui cám ơn hắn, gần 50 năm tuy xa mà hắn vẫn nhớ, vẫn đầy tình bạn thân thiết như hồi mô.
Sàigòn cũng như Phan Rang không có 4 mùa, nhất là mùa Thu. Nhưng Sàigòn cũng như Phan Rang đều có những đêm trăng Thu mờ ảo đẹp và buồn giống như mắt của em.
Cuộc điện thoại đã dứt mà Tử Linh vẫn còn đứng tần ngần một lúc rồi mới quay trở ra hiên, ngồi xuống cái ghế gỗ mà khi nãy cô đang ngồi, vừa đọc sách, vừa nhâm nhi tách trà nóng và những chiếc bánh madeleine thơm mùi vanilla trước khi tiếng chuông điện thoại từ trong phòng khách buộc cô phải chạy vào...
Ba đứa chơi thân với nhau tự thuở nào, thiên hạ ai cũng bảo ba đứa ấy như hình với bóng, họ còn kháo nhau là mật thiết hơn cả tam tinh, tam điểm, tam tụ, tam anh… Chẳng cần kết nghĩa đào viên nhưng chúng sống chết có nhau, chưa bao giờ rời nhau một li hay một khoảnh khắc nào. Thỉnh thoảng cũng có xung đột giữa ba đứa nhưng rồi cũng trôi qua êm thấm. Cả ba nương tựa nhau, hỗ trợ nhau, sinh hoạt qua lại với nhau. Thật tình mà nói thì chỉ có hai mới đúng, vì thằng Tưởng vốn là đệ tử ruột của thằng Tâm mà ra, tuy nhiên vẫn có sự khác biệt nào đó nên thiên hạ cho là ba, nói cho cùng thì là bộ bà cũng đúng hay khắt khe bảo bài trùng cũng không sai.
Lật bật đã tới tháng 9 mùa tựu trường. Lòng nao nao nhớ thời học sinh nhỏ nhít đất thần kinh xưa. Ở Huế, mùa tựu trường cũng tưng bừng rộn rịp như bất cứ nơi nào khác trên đất quê nhà. Cũng bâng khuâng luyến tiếc những ngày hè tươi đẹp chóng qua. Cũng nao nức trở lại trường lớp gặp bạn thầy cũ, mới. Có khác chăng mặt mũi mấy cô mấy cậu học trò đều phảng phất một vẻ nghiêm trọng. Làm như mình đã trưởng thành tới nơi!
Cách đây 5 năm ông bà này có cho một cậu sinh viên Việt nam trẻ tuổi, đáng tuổi con cháu xin mướn phòng ở trọ học tại nhà ông bà cho đến đầu năm tới 2025, cậu sinh viên này sẽ tốt nghiệp đại học 4 năm với văn bằng cử nhân
Cũng như các trại tỵ nạn khác, ở Thailand cũng có một khu “nhà tù” dành cho những người tỵ nạn không chấp hành quy định của Bộ Nội Vụ Thái hay của Cao Ủy tỵ nạn. Thời hạn ở tù tùy theo mức độ phạm quy, có khi từ một vài ngày cho tới một hai tuần. “Tù nhân” cũng đủ loại, nhẹ thì có những người mua lén đồ ngoài hàng rào, thức quá giờ giới nghiêm, quên làm vệ sinh khu nhà được phân công, nặng hơn là thành phần đánh lộn, gây mất trật tự trong trại, trộm cắp vặt, trốn ra ngoài trại đi chơi.
Tháng 7 năm 1954, hiệp định Genève chia đôi đất nước Việt Nam, người Pháp thất bại ở mặt trận Điện Biên Phủ, trả lại chủ quyền miền Bắc cho việt cộng. Việt Minh kéo từ mạn ngược và khắp nơi chúng đã ẩn náu về tiếp thu thủ đô Hà Nội và sau đó, toàn thể các tỉnh thành phía Bắc cho vào tới vĩ tuyến 17. Chúng ta mất một nửa giang sơn. Pháp có 80 ngày chuyển giao Hà Nội, 100 ngày giao Hải Dương, 300 ngày trả Hải Phòng, rồi chấm dứt. Việt cộng nằm vùng trong miền Nam cũng tự do ra Bắc tập kết, dù rất ít, nhưng làn sóng người miền Bắc di cư vào Nam thì đông nườm nượp… như nước vỡ bờ, họ chạy trốn, họ sợ cộng sản, họ sợ cái chế độ tam vô đang rượt đuổi sau lưng. Họ ra đi lánh nạn, đa phần phải bỏ lại gia sãn của cải, mồ mả cha ông… họ ra đi nhanh, mau lẹ nhất là các thành phố Hà Nội Hải Phòng, các xứ họ đạo công giáo Bùi Chu, Phát Diệm… có người vội vã đến chỉ ôm theo một tấm ảnh đức mẹ Maria… họ rủ nhau cứ xuống Hải Phòng là có tàu há mồm, há mồm chờ sẵn, chờ họ lên tàu và chở họ vô miền Nam.
Hà Nội có mùa Thu, Ninh Thuận quê tôi ở đó chỉ có hai mùa nắng gió. Buổi sáng mai hôm ấy mẹ tôi âu yếm nắm lấy tay tôi dẫn tôi đi qua con đường làng Xóm Động, rồi đến con đường cái quan tráng nhựa. Mẹ tôi nắm lấy tay tôi dẫn tôi đi qua cầu "Ông Cọp", rồi cầu "Nước Đá" và đến tận cửa trường tiểu học Phan Rang. Tôi cúi đầu đi qua cổng trường có tấm biển lớn có hàng chữ Tây: "Indochine Francais- École Primaire De Phanrang"...Giữa sân trường có cột cờ với lá cờ ba màu của Pháp treo tận chót vót. Trường của tôi hình như vừa quét nước vôi và có cửa kiến, tôi thoáng nghe mùi cửa sổ mới sơn.
Trước năm 1975, ngày đó tôi còn là một cậu thiếu niên ham thích đọc tiểu thuyết trinh thám mạo hiểm của Người Thứ Tám với nhiều câu truyện phiêu lưu, hồi hộp của chàng điệp viên Z-28 đào hoa, đẹp trai Tống Văn Bình. Tôi còn nhớ chàng điệp viên tài giỏi, võ nghệ siêu quần của chúng ta được phái đi thi hành một nhiệm vụ tình báo tại Maldives, một đảo quốc mà khi chúng ta nhìn về phía chân trời, nơi Trời và Biển gặp nhau, vì chính chúng ta cũng đang sống trên mặt nước...
Khoảng gần ba giờ chiều tôi rời khách sạn Ninh Kiều, cuối đường Hai Bà Trưng, nhìn ra sông Cần Thơ. Trời hanh nóng và đứng gió. Giấc ngủ trưa dài sau bữa ăn nhẹ, khiến tôi tỉnh táo và phấn chấn hẳn lên. Hãy còn sớm, hai giờ nữa tôi mới có hẹn với gia đình người bạn thân ở nhà hàng Hoa Sứ. Thời gian đủ để tôi dạo chơi và ghé chợ Cần Thơ tìm mua một vài thứ đồ lưu niệm… Vài cơn gió nhẹ mang theo hơi nước từ dòng sông thổi dọc theo công viên thật dễ chịu. Bến Ninh Kiều ngày nay thật khang trang và đẹp. Đi dọc mé sông, từ đây tôi có thể nhìn thấy chiếc cầu treo Cần Thơ sừng sững, hiện đại. Phía trước khách sạn là nhà hàng nổi và không xa là chiếc du thuyền nhà hàng lộng lẫy về đêm. Du khách vừa ăn tối vừa dạo cảnh quanh sông và có cảchương trình văn nghệ thật đặc sắc của miền Tây sông nước


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.