Hôm nay,  

Đào Bang

04/02/202200:00:00(Xem: 2390)
 
Photo_Nguyễn Lập Hậu_for Đào Bang
Photo của Nguyễn Lập Hậu
 
Thế là đào lại rụng, mùa đào thứ hai mươi mốt của tôi ở Hoàng Hoa trang thuộc Đào bang này. Thành Ất Lăng là thủ phủ của Đào bang, sở dĩ có tên gọi này là vì trái đào là biểu tượng của tiểu bang Georgia , nick name của tiểu bang là Peach state, ngoài ra hoa Dogwood cũng là đồng biểu tượng.  

Ở Đào bang, hoa đào bạt ngàn, trái đào nhiều không đếm xuể. Hoa đào có nhiều loại: Đào thắm, đào phai, đào bạch, đào đơn, đào kép, đào nhiều màu… Mùa xuân hoa đào nở rực hồng cả một góc trời của Hoàng Hoa trang nói riêng của Đào bang nói chung, cảnh tượng đẹp như cõi thiên thai. Trái đào cũng có rất nhiều loại: Đào vàng, đào trắng, đào tiểu, đào đại, đào lông, đào láng, đào vườn, đào rừng… Trái đào đủ độ già ăn giòn, chua chua ngọt ngọt ngon hơn là đào chín. Mùa xuân hoa đào nở, mùa hạ trái đào rụng, những nhà vườn chuyên môn thì hái bán, những người trồng tài tử thì… trái rụng đầy đất. Nếu mùa xuân hoa đào tạo ra cảnh quan thiên thai thì mùa hạ đào rụng, chín nhũng ra, côn trùng kéo đến trông bầy nhầy như “ Địa ngục”. Thế mới biết thiên đường với địa ngục không hai, cũng từ một tâm niệm mà ra.
 
Đào bang không chỉ có đào, mà còn là một vựa trái cây, một chành đậu phộng, đậu nành, bắp, hạt,  dẻ, lê, táo… và bao nhiêu nông sản khác nữa. Ngày xưa Đào bang là lò cung cấp bông gòn cho Anh quốc và châu Âu, hàng trăm điền trang trồng bông gòn, mùa bông gòn nở bung ra, những cuộn bông gòn như mây trắng cuồn cuộn trên mặt đất. Thuốc lá cũng là đặc sản nổi tiếng một thời của Đào bang. Thời thế đổi thay, bể dâu vô thường, giờ đây bông gòn và thuốc lá đã lui vào dĩ vãng.
 
Con người cũng hay thật, vượt quyền tạo hóa. Đậu nành, bắp và nhiều loại nông sản khác bị người ta can thiệp vào cái gene của chúng. Mình muốn trồng thì hàng năm phải mua giống của nhà vườn. Mình không thể để giống được, mặc dù những vụ mùa trước lựa chọn hạt to, chắc để giành làm giống cho mùa sau nhưng chúng chẳng bao giờ nảy mầm được, đơn giản là vì gene của chúng đã bị thay đổi rồi. Các nhà vườn làm thế để buộc người ta phải lệ thuộc vào họ. Họ độc quyền về giống và cây con.
 
Đào bang đã cống hiến cho nước Mỹ một vị tổng thống, đó là ngài Jimmy Carter, trước khi làm tổng thống thì ông ấy vốn là “vua đậu phộng” của xứ này. Tổng thống Jimmy Carter ôn hòa, từ ái, nho nhã… Có lẽ tính cách này không hợp với cái gu của người Mỹ. Cái tạng người Mỹ là phải mạnh, phải hùng thì mới ăn khách, với những tính cách ấy thì người Mỹ cho rằng Jimmy Carter yếu. Jimmy Carter có lòng từ bi lớn, ông, vợ ông và tổ chức từ thiện Habitat đã dựng hơn năm ngàn ngôi nhà cho người nghèo, cứu trợ trong và ngoài nước Mỹ mấy chục năm nay. Tổng thống nai lưng ra làm, làm đổ mồ hôi sôi nước mắt chứ không phải cái kiểu mang găng trắng, khều khều để chụp hình quay phim như các quan ở xứ mình. Tổng thống Jimmy Carter cũng là người thúc đẩy quốc hội và chính phủ nhận gấp đôi số lượng hồ sơ HO, đẩy nhanh việc rút ngắn thời gian cứu xét hồ sơ HO, có lẽ những ai đi diện HO cũng nên nhớ ơn ngài. Tổng thống Jimmy Carter là một nhân cách lớn, một người con ưu tú của Đào bang.
 
 Nhân mùa đào rụng ở Hoàng Hoa trang, tôi lại nghĩ lan man, tâm trí bay bổng để mặc cho ngòi bút rong ruổi chạy trên trang giấy. Phía nam của Đào bang rất mạnh về nông nghiệp, mặc dù khí hậu và thổ nhưỡng hai vùng đều như nhau. Phía bắc Đào bang thì thịnh về công nghiệp, kỹ nghệ và chính trị. Không chỉ Đào bang, trên bình diện quốc gia cũng thế, những bang miền nam thiên về nông nghiệp, phát đạt về nông nghiệp, còn những bang miền bắc thì mạnh về công nghiệp, kỹ nghệ, chính trị, quyền lực. Liên hệ rộng hơn nữa thì thấy bên Tàu cũng thế, miền nam vô cùng phát đạt về nông nghiệp và bán mua nhưng miền bắc thì vượng về công nghiệp, chính trị. Ngay cả cố quận mình cũng vậy, miền nam là vùng của nộng nghiệp, miền bắc là đầu mối của thế lực chính trị, vượng về quyền lực. Người phương nam hiền hòa, thật thà, chất phác. Người miền bắc thì sắc sảo, giỏi ăn nói lý luận, ngôn ngữ bóng bẩy đến độ xảo… Từ đấy tôi nhận thấy rằng đất phương nam ở đâu cũng thịnh về nông nghiệp, còn phương bắc thì vượng về chính trị, quân sự và quyền lực, phải chăng vượng khí đất trời như thế? Phải chăng đó là sự ngẫu nhiên tình cờ hay có “Định mệnh” sắp sẵn?
 
 Người mình thường nói “ Đất lành chim đậu”, Đào bang này quả là đất lành, người kéo về đây càng ngày càng đông, nhất là từ sau đại hội Olympic 1996. Con số người đổ về Đào bang sinh sống cứ tăng đều, mỗi năm một tăng, hậu quả là giờ đây thành Ất lăng kẹt xe kinh khủng, là một trong mười thành phố kẹt xe tồi tệ của nước Mỹ. Nếu ngày xưa thì “ ba ngày kẹt nhẹ, bảy ngày kẹt nặng”, giờ thì ngày nào cũng kẹt, giờ nào cũng kẹt. Đoạn xa lộ 75-85 đi xuyên qua thành Ất Lăng là con đường khổ nạn, kẹt kinh khủng, không lúc nào không kẹt, nó chỉ được thông thoáng trong năm dịch vừa qua.
 
 Đào bang quả là đất lành thật, Đào bang không xa hoa tấp nập như Las Vegas, chẳng giàu sang quý phái như San Francisco, nào có được đồ sộ như New York, lại càng thiếu cái hào nhoáng của Hollywood , không có cảnh quan thiên nhiên hùng vĩ của Yellowstone, Rushmore, Alaska… nhưng bù lại Đào bang không bị nóng thiêu lửa cháy, không bão tuyết, cuồng phong, sóng thần, núi lửa, động đất...Đào bang đất đai trù phú, màu mỡ rất bình yên, dễ sống, vật giá và nhà cửa rẻ. Việc làm dễ kiếm, đất đai cũng rẻ… bởi thế mà người trong thiên hạ đổ dồn về đây.
 
 Đào bang không chỉ có nông sản mà cũng có những thương hiệu tên tuổi lẫy lừng thế giới như: Coca Cola, CNN, Delta Airline...Công nghiệp, thương mại, kinh tế và đời sống vật chất thì nơi nào trên xứ sở Cờ Hoa này cũng tương đồng nhau. Các thành phố và các bang đều giống nhau, nào là siêu thị, trung tâm mua sắm, khu vui chơi giải trí… và cư dân thì ăn uống, vui chơi, mua sắm hầu như nơi nào cũng na ná như thế cả. Cái làm cho Đào Bang có nét riêng, dấu ấn riêng chính là ở những đồng quê, những trang trại mênh mông ngút tầm mắt và cũng chính vì thế mà người ta mới chọn trái đào và hoa Dogwood làm biểu tượng của tiểu bang. Đồng quê mới chính là cái hồn, cái văn hóa truyền thống của của Đào bang nói riêng nước Mỹ nói chung.
 
 Hoa đào nở mùa xuân, trái đào rụng mùa hạ, Đào bang nằm mơ màng dưới trời xanh mây trắng, mặc cho người đến rồi đi. Ngoài kia, thành Ất Lăng kẹt xe ghê gớm mà nơi này, Hoàng Hoa trang vẫn lặng yên, tịch tĩnh. Những điền trang danh tiếng một thời như Tara, Love Joy, Mimosa, Twelve oaks… vẫn nằm mơ màng nhớ về một dĩ vãng xa xưa.
 
 Ngày mùa hạ, tôi thường nhặt đào rụng, đêm mùa hạ nằm nghe đào rơi lộp độp trên mái nhà, những cây đào sát hiên nhà, tán lá phủ lên mái, trái đào rụng lộp bộp suốt cả đêm trường   Đêm nằm nghe tiếng đào rụng lộp độp trên mái nhà, cứ ngỡ tiếng vọng từ một miền xa lơ xa lắc nào đó của tuổi thơ vọng về. Tiếng đào rụng làm nhớ đến tiếng mận rụng trên mái tôn của ngày xưa. Hồi ấy ba trồng cây mận bên chái hiên nhà, cây mận cũng cho quả sai lắm, trái mận to như nắm tay người lớn, chín ửng hồng thấp thoáng trong tàn lá xanh. Mận nhiều quá, đêm đêm rụng trên mái tôn lộp bộp. Cứ hai ngày ba lựa những chùm mận to đẹp nhất để dâng cúng Phật. Thường thì sau hai ngày để trên bàn thờ thì trái mận mất giòn đi. Ba hạ xuống thay trái mới, trái cũ dù không còn ngon nhưng vẫn phải ăn, vì bỏ thì sợ mang tội. Từ chuyện trái mận cúng xong thì hết giòn, hết ngon tôi laị nhớ chuyện người ở quê nhà. Hồi ấy hàng xóm có người từ Bắc mới vô, y là tay vô thần và cực đoan. Có lần y cũng làm giỗ cho mẹ ( tất nhiên là y chẳng biết lễ tiết gì cả) chỉ nấu thức ăn dâng lên bàn thờ mẹ y, đốt nắm nhang và chờ nhang tàn thì hạ xuống. Lúc mọi người ăn uống thì y oang oang nói:” Rõ ràng các vị có về hưởng, hãy xem này! thức ăn mất hết hương vị như lúc mới dâng lên!” thật mắc cười, rõ ràng tận trong thâm tâm y vẫn tin có hương hồn ông bà, cha mẹ, trời đất quỷ thần…mặc dù y tôn thờ chủ nghĩa vô thần, làm việc bá đạo! Mấy tay vô thần gộc hoặc đầu lãnh, khi về già thường viết sách chạy tội, lấp liếm chuyện ác đã làm, thanh minh thanh nga niềm tin xằng bậy…Có nhiều tay vô thần còn quy y, sám hối trước khi chết! chỉ tội bọn tép riu đi theo phí cả đời, suốt đời phò ác, haị người, haị vật, haị nước non, phỉ báng thánh thần.
 
 Đêm phương ngoại nằm nghe đào rụng lộp độp trên mái nhà, lòng thấy xốn xang chi lạ. Cái xứ sở lạ lùng này, thông thường người ta biết đây là xứ sở phồn vinh về kinh tế, hùng mạnh về quân sự, thanh minh về chính trị, tân tiến về khoa họac kỹ thuật, nhân bản về giáo dục, khai phóng về văn hoá nghệ thuật…Nhưng người ta không ngờ rằng, cái xứ sở này còn là nơi mà nền nông nghiệp vô cùng trù phú và phát triển, sản vật phong nhiêu sung túc, hoa quả nhiều vô kể. Cái đất chi mà lạ, cắm cây gì xuống cũng sống, gieo hạt gì xuống cũng mọc lên. Lòng tự hỏi lòng, sao người ở đây nhiều phước báo thế? phải chăng quá khứ gieo trồng nhân lành nên nay hưởng quả? phải chăng những người cùng tâm lượng rộng, chí nguyện lớn nên cùng cộng sinh ở quốc độ này? hỏi tức là thưa rồi vậy.    Tất cả mọi người, hàng ngày đang hưởng quả và cũng là đang tạo nghiệp. Mỗi năm xứ Cờ Hoa viện trợ cho thế giới hàng trăm tỷ mỹ kim (gồm cả tiền của chính phủ, tư nhân, các tổ chức từ thiện…), cưu mang hàng triệu nạn nhân khắp thế gian này. Không ở đâu mà chính phủ và người dân có lòng bao dung, cởi mở để chấp nhận hàng triệu, triệu người di dân như thế! Không ở đâu trên thế gian này mà người ta có thể tự do truyền đạo, hành đạo như ở đây. Ai cũng dễ dàng và tự do theo đuổi đức tin của mình, việc xây cất nhà thờ, thánh đường, chùa chiền… rất dễ dàng, chỉ cần đủ những yếu tố cơ bản mà luật pháp đòi hỏi như: diện tích đất, chỗ đậu xe, sự an toàn cho tín đồ…Ở đây đủ các sắc dân trên thế giới và cũng từ đó đủ các sắc thái văn hoá, các tôn giáo mà người di dân mang theo. Tất nhiên không thể không nói đến mặt trái của nó, ở đây cũng có nhiều bất công, bất cập về địa vị, thu nhập, quyền lợi, màu da…Dân chúng tiêu thụ một cách hoang phí, hàng năm có cả trăm nhìn tấn thức ăn thừa đổ đi. Chính phủ can thiệp quân sự nhiều nơi trên thế giới, sản xuất mua bán vũ khí  nhiều nhất thế giới, súng đạn trong dân chúng nhiều như kẹo…Nghiệp thiện và bất thiện cùng tồn tại, ngày ngày đang thọ hưởng quả và tạo nghiệp không ngừng.
 
 Đào rụng lộp bộp trên mái nhà cứ như điệp khúc bất tận, như tiếng vọng của quá khứ gợi lên những âm hưởng xưa, cái âm thanh lộp bộp như gõ vào trong tạng thức, đánh thức những kỷ niệm một thời chưa xa lắm. Nằm ghe đào rụng, tâm trí cứ miên man như ngựa hoang, như khỉ chuyền cành, bởi vậy mà nhà thiền mới nói “ Tâm viên ý mã”. Nghe tiếng đào rơi, lòng phân vân bao nỗi bất cập của chuyện đời chuyện đạo, những mối ưu tư giữa cố quận với nơi này, dẫu biết rằng nhà ở đâu thì tim mình ở đó như câu danh ngôn tiếng Anh đã viết:” Home is where heart is”, nhưng sao lòng vẫn nhớ, vẫn thương cố quận không cùng, cố quận mình nhiều nhọc nhằn, nhiều thiên tai lẫn nhân tai, người xứ mình còn nhiều đau khổ lắm. Nắng hạn mưa lũ quanh năm, có đâu được thanh bình, trù phú như Đào bang này hay như xứ sở Cờ Hoa này. Lòng lại nghĩ, phải chăng là nghiệp? là vận số?
 
 Mùa xuân hoa đào nở, mùa hạ trái đào rơi, hoa quả của mùa màng dễ dàng nhận thấy và nắm bắt. Quả của quy luật nhân quả, luật tự nhiên thì đâu dễ gì thấy và biết được, đôi khi nó như sương khói mờ hồ, khó hiểu khó tin. Quả có thể trổ liền tức thì như “ Hậu quả nhãn tiền” nhưng phần nhiều thì quả trổ đời sau, gọi là hậu thế báo, lai thế báo…thậm chí quả có thể không trổ, vì nó còn bị chi phối bởi cái duyên, không đơn giản cứ hễ có nhân là có quả. Cái duyên quan trọng lắm, có thể làm tăng trưởng thúc đẩy cái quả sớm xảy ra hay chậm laị hoặc thui chột đi, ví như gieo hạt luá trên ruộng nước, có phân bón, chăm sóc, thời tiết thuận lợi… thì sẽ có mùa màng bội thu; còn như gieo hạt lúa trên cát sa mạc, không nước , phân, chăm sóc…thì chắc chắn không có gì để gặt! Bởi thế trong nhà Phật không chấp nhận chuyện số mệnh, tương lai nằm trong tay của mình, những nghiệp cũ có thể sửa đổi chuyển hoá. Ở đời gặp thầy lành, bạn tốt không phải dễ, gặp duyên lành cũng không phải dễ. Phần nhiều gặp duyên không tốt vì cái tâm , cái tôi, cái ngã nó thích hưởng thụ, ngại khó… từ đó nó hướng ta về những cái: tài- sắc- danh-thực-thuỳ. Nó ràng buộc ta vào: Sắc-thanh-hương-vị-xúc-pháp, để rồi tháng năm qua đi, đời nối tiếp đời cứ như trái đào rụng trong sự uổng phí vô tình.
 
 Đêm nằm nghe đào rụng lộp độp trên mái nhà, nhớ về tiếng mận rụng ngày thơ ấu xa xưa. Laị nghĩ đến trái táo rụng xuống đầu nhà bác học Newton. Đã từng vô số lần rụng, vô số trái táo rụng nhưng chỉ có mỗi trái táo rụng trên đầu ấy mà nhà bác học đã khám phá ra định luật sức hút của trái đất. Rõ ràng trong tạng thức nó chưá vô số chủng tử, khi có một cơ duyên đặc biệt nào đó tác động thì nó lập tức khởi tác dụng vậy! cũng vì thế mà có nhiều người chợt ngộ rất tình cờ. Ví như ngài A Nan, vì chưa chứng quả Arahanta nên không được dự kết tập kinh điển. Ngài buồn lòng suy nghĩ nhiều, rồi trong lúc vừa toan đặt lưng nằm nghỉ thì bất chợt ngộ mà chứng quả. Hoặc giả như Lục Tổ Huệ Năng trong lúc gánh củi đi bán, nghe người tụng kinh mà ngộ ra…
 
 Trái đào rụng, chín bấy nát bét ra, những tưởng thế là xong. Nào ngờ hạt vùi trong đất, năm sau laị mọc cây đào mới. Mùa thu lá đào vàng, muà đông trơ trụi cả cành nhưng nhựa sống vẫn âm thầm nuôi những nụ, mùa xuân nở ra rực rỡ đất trời, mùa hạ thì trái đào chín rụng rơi. Sinh-già-bệnh-chết cái vòng quay bất tận, sinh-trụ-dị-diệt vẫn tiếp diễn không ngừng, tử -sanh vẫn hiện diện trong từng tế bào và trong mỗi sát- na này!
 
 Đào bang đang giữa hạ, nắng vàng như rót mật tự trời xanh, mặc dù dịch virus Corona đã giảm, số người nhiễm mới không bao nhiêu, mọi việc dần trở lại bình thường nhưng trong tâm con người ta chưa thể bình thường, lúc nào cũng đầy những yêu ghét, nghi kỵ, sợ sệt… Người ta cũng không thật sự biết con virus Corona từ đâu ra, từ phòng thí nghiệm Wuhan? Từ chợ hải sản? Từ động vật hoang dã? Tất cả chỉ là giả thuyết, chẳng có chứng cứ cụ thể và Trung Cộng vẫn tiếp tục che giấu sự thật, không một ai có thể tiếp cận được những dữ liệu ban đầu. Bác sĩ Văn Lượng, người đầu tiên lên tiếng cảnh báo virus Corona thì đã nằm yên giấc ngàn thu, những tài liệu liên quan thì đã bị thủ tiêu hoặc xóa sạch. Thật tình thì đây chẳng phải cơn dịch đầu tiên của loài người và cũng chẳng phải là cơn dịch cuối cùng. Khoa học kỹ thuật, y học, dược học… dù có phát triển đến đâu đi nữa cũng không thể nào xóa bỏ được dịch bệnh. Dịch bệnh cũng là biểu hiện của vô thường, cũng là dấu hiệu cụ thể của thịnh suy. Đã thành ắt có hoại, có sanh ắt có tử, có thịnh thì sẽ suy. Đất trời vũ trụ cũng không nằm ngoài sự hợp tan và thịnh suy.
 
 Đào bang những ngày nắng hạ, thành Ất Lăng hối hả chạy đua với thời gian để chích ngừa cho dân, gỡ bỏ nốt những biện pháp giãn cách cuối cùng. Phải đến khi nào không còn phải đeo khẩu trang bịt miệng bịt mũi nữa thì mới hoàn toàn trở lại bình thường. Khi ấy thì những khuôn mặt nam thanh nữ tú của người Đào bang lại “ Tương ánh hồng” như  hoa đào. Hoa đào của Đào bang nào có khác gì hoa đào của Thôi Hộ ở thành Nam đời Đường. Không biết có phải vì nhờ thơ của thi sĩ mà hoa đào ấy trở nên đẹp nổi tiếng, khắc sâu vào lòng người hay là nhờ hoa đào mà thơ của thi sĩ Thôi Hộ hay hơn? Thôi Hộ làm thơ rất ít nhưng với bài thơ “ Đề đô thành nam trang” này đã trở thành một huyền thoại có một không hai trong văn sử. Người yêu thơ, yêu hoa đào xưa nay ai ai cũng thích, cũng mê. Hoa đào của hôm nay có khác gì hoa đào của mười lăm thế kỷ trước? Chắc là không, chắc chắn là không! Khác chăng là bởi tại tâm mình. Người Tàu ngày xưa tưởng tượng và thi vị hóa trái đào thành những loại đào tiên,  đào trường thọ… Những trái đào của yến tiệc ở cung Dao Trì ăn vào thì sống mãi, năng lực công phu không ai địch lại, trẻ mãi không già…
 
Không biết người xưa khi thi vị hóa và sáng tác ra những loại đào tiên, đào trường thọ ấy có nằm nghe đào rụng chăng? Tiếng đào rụng lộp bộp giữa những đêm trường mùa hạ như nhắc nhở nhịp điệu vô thường, như báo hiệu sự tương tục bốn mùa, như cái điệp khúc sanh tử bất tận.
 
TIỂU LỤC THẦN PHONG
Ất Lăng thành, 08/2021
 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Chị nhớ lại, vào một buổi sáng ngày cuối tháng 1 năm 1973, khi Chị đi lấy bản tin ở bên Macv về cho AP, chị thấy sao hôm nay văn phòng đông thế. Ký giả của AP và cả của NBC News bên cạnh cũng chạy qua chạy lại, Chị nghe ông chánh văn phòng nói: Viêt Nam sắp ngưng bắn rồi, sắp hòa bình rồi…” Văn phòng Associated Press xôn xao, từ ông chánh văn phòng đến các ký giả, nhân viên của AP đều hứng khởi với cái tin “Nóng bỏng” này. Chị thấy các phóng viên của các hãng thông tấn, hãng truyền hình ngoại quốc chạy hối hả sang nhau và chạy qua cả đài phát thanh Quân Đội Việt Nam để cập nhật tin tức viết bài…
Chị đi bằng xe hàng. Là dân Đà Lạt gốc Huế nên chị gọi xe đò là “xe hàng”. Đi xe hàng, tức là xe đò, là xe chở người và cả hàng chứ không chở riêng hàng. Tiếng Việt hay như vậy đó! Đến Gò Công rồi đi xe lam vào Đồng Nguơn. Ấp Đồng Nguơn. Không phải đây là lần đầu tiên chị được thấy cảnh đồng quê. Đồng quê miền nam hầu như đâu đâu cũng giống nhau. Nhưng có đi nhiều mới thấy mỗi nơi có một chút khác. Phải thế không? Hay chính là cảm giác của chị mỗi lần một khác?
Tôi ước mơ có một ngày nào đó, khi thanh bình thật sự trở về trên nước VN, khi chính thể CS hoàn toàn tan rã, khi con người công chính trở lại làm nền tảng trong xã hội mới, chúng ta sẽ trở về, những ngưới bạn từ thời xa xưa, cùng nhau làm lại một bữa tiệc Tất Niên, mời vong linh các thầy, các bạn, các anh em đồng đội đã chết trong khói lửa chinh chiến, trong các biến cố tang thương của đất nước, trong các trại tù, trên biển…cùng nhập tiệc. Kẻ đang sống cùng người thiên cổ bên cạnh nhau hoài niệm đến một miền thùy dương ngọt ngào nhân tính, một ngôi trường thân yêu giàu truyền thống giáo dục và y đức, một thành phố mến yêu thơ mộng. Để nghe những người quá cố tâm sự về cái chết oan khiên của mình. Được như vậy, hương hồn các vị đó sẽ sớm được siêu thoát và vĩnh viễn an nghỉ chốn nghìn thu. Và chúng ta đây giảm khắc khoải đau thương…
Tôi đã có bốn cái Tết trong trại Panatnikhom và Sikiew, Thailand. Tết đầu tiên thật nhiều kỷ niệm và bất ngờ, vì lúc đó chúng tôi vừa nhập trại trong khi còn hơn một tuần nữa là Tết. Tôi và ba cô bạn đi chung chưa kịp gửi thư cho thân nhân ở nước ngoài để ca bài ca “xin tiền”. Ai lo bận bịu đón Tết thì lo, còn chúng tôi thì lo đi mượn tiền để mua vài vật dụng cần thiết như tấm trải nhựa, tre nứa, dây nilon để làm “nhà” (phải “an cư” mới “lập nghiệp” tỵ nạn được chớ).Khoảng một tuần trước Tết, có một nhóm mấy thanh niên đến thăm vì nghe nói chúng tôi là dân Gò Vấp, nên muốn nhận “đồng hương đồng khói”. Họ là những người trẻ như chúng tôi, nên câu chuyện mau chóng trở nên thân mật và rôm rả
Hỏi thăm ông Hai bán hoa lay-ơn gốc Bình Kiến, nhiều người ngơ ngác hỏi nhau. Tôi lại rảo qua thêm mấy vòng chợ hoa, cũng vừa đi tìm ông Hai, cũng vừa ngắm hoa và ngắm những chậu bonsai bày bán cuối năm, cũng tìm lại mình của gần 20 năm trước, năm nào cũng cứ vào những ngày này, tôi theo ba tôi hóng gió đón sương không hề chợp mắt cùng gian hàng cây kiểng rất bề thế của ba ở đây.
Có lẽ những rộn ràng, hân hoan nhất trong năm không phải là "ba ngày tết", mà là những ngày cận tết. Bắt đầu vào ngày 23 tháng chạp, tối đưa ông Táo về trời. Tất cả mọi sinh hoạt đều hướng về việc chuẩn bị để đón một mùa xuân mới, chào đón nguyên đán và mấy ngày xuân trước mặt. Lúc nhỏ là mùi vải thơm của bộ đồ mới, mùi gạo nếp ngâm cho nồi bánh và hương thơm ngào ngạt cho sàng phơi mứt dừa, mứt bí, mứt gừng ngoài sân. Những đêm ngủ gà ngủ gật ngồi canh bên nồi bánh tét cùng với má, với gia đình xúm quanh. Mùi bếp lửa, mùi khói hương, mùi áo mới lan tỏa của tuổi thơ ngan ngát những ngày xa...
Người ta được nuôi lớn không chỉ bằng thức ăn, mà còn ở lời ru, tiếng hát, và những câu chuyện kể. Chú bé cháu của bà thích được bà ôm vác, gối đầu lên vai bà. Có khi bà mở nhạc từ chiếc nôi cho chú nghe thay cho lời hát, chiếc nôi chú bé đã nằm khi mới lọt lòng mẹ. Có khi bà hát. Bà không ru à ơi, nhưng âm điệu dân gian len vào trong từng lời hát. Chú bé mãi rồi ghiền nghe giọng hát của bà.
Lóng rày tôi hay tẩn mẩn viết về những hồi tưởng tuổi thơ, nhất là những côn trùng ngày xa xưa đó như chuồn chuồn, bươm bướm, ve sầu, dế mèn…Nhiều lúc ngồi nghĩ lẩn thẩn: tại sao vậy? Chắc đó là tâm trạng của người tuổi sắp hết đếm số, tiếc nuối những khi còn cắp sách tới trường. Cắp sách tới trường không phải là chuyện vui nhưng tuổi học trò thì vui thật. Lúc nào, khi nào, chỗ nào cũng toàn thấy chuyện vui chơi. Bạn chơi là người nhưng nhiều lúc là những côn trùng quanh quẩn bên người. Một ông bạn mới gặp nhướng mắt hỏi tôi viết về những bạn chơi nhiều hơn hai chân nhưng chưa thấy nhắc tới bạn của ông ấy. Đó là bọ ngựa. Ông này thuộc loại rắn mắt. Tôi không chung tuổi thơ với ông nhưng chắc ông cũng thuộc loại phá làng phá xóm. Ông kể chuyện ăn me chua trước mấy ông lính thổi kèn trong hàng ngũ khiến mấy ông thợ kèn này chảy nước miếng thổi không được. Tôi thuộc loại hiền nên không có bạn không hiền như bọ ngựa. Ông ta thì khoái bọ ngựa.
“Mày có vợ hồi nào vậy?” chưa kịp chào, mẹ đã ném ra câu hỏi bất ngờ. Tôi lặng thinh. Cục nghẹn trong cổ họng. Tiếng mẹ đã khàn nhưng nghe vẫn quen, vẫn gần gũi, nhưng đặm chút ngạc nhiên và thấp thoáng chút phiền muộn. Hệt như lần hỏi tôi mười mấy năm trước rằng Sao con trốn học. Đường dây điện thoại chợt kêu ù ù, như thể có máy bay hay xe vận tải cơ giới hạng nặng chạy qua chỗ mẹ đứng. Cũng có thể tại tai tôi ù. Tôi cũng không chắc lắm. Giọng nói mẹ chìm vào khối tạp âm hỗn độn. Mẹ lặp lại câu hỏi trong tiếng động cơ rì rầm. Rồi tất cả im vắng bất ngờ. “Hở con?” Mẹ nói.
Bê, con trai của Mẹ, đã theo Mẹ đến giảng đường từ thuở còn trong bụng Mẹ. Suốt thời gian đại học của Mẹ, Bê có nhiều đóng góp khác nhau theo từng thời kỳ. Khi Mẹ làm bài kiểm tra môn Đầu Tư và Tài Chính trong lục cá nguyệt đầu tiên, Bê mới ba tháng tuổi. Mẹ nhẩm tính, bài thi một tiếng rưỡi, đi về từ nhà đến trường thêm một tiếng rưỡi. Như vậy, Bê phải xa Mẹ ít nhất ba tiếng đồng hồ. Mẹ biết tính Bê, mỗi hai tiếng đồng hồ Bê oe oe đòi bú sữa Mẹ. Bê xấu đói lắm, đòi mà không được, Bê nhăn nhó um sùm. Ngày hôm đó, dì Thành đến giữ Bê. Dì Thành rất hồi hộp. Dì chưa có em bé, chẳng biết phải làm sao cho đúng ý Bê. Mẹ thi xong, phóng ra xe về nhà. Mẹ bắt đầu sốt ruột. Mẹ xa Bê đã hơn ba tiếng đồng hồ. Giờ này Bê chắc Bê đã thức giấc. Hy vọng Bê chịu khó nhâm nhi món trà thảo dược cho trẻ sơ sinh trong khi chờ Mẹ về. Thời đó chưa có điện thoại di động. Bởi vậy, có lo cũng để bụng, chứ Mẹ chẳng biết làm sao. Mẹ ba chân bốn cẳng chạy ba tầng lầu. Vừa đến cửa đã nghe tiếng Bê khóc ngằn ngặt.
Khi chơi những bản nhạc hay, Khang khóc theo giai điệu. Mước mắt chảy, tay kéo tình xuống lên, thân hình diệu dẻo theo cảm hứng. gần như mê cuồng, không biết mình là ai. Tôi cảm nhận được cái hay xuất thần nhưng không hiểu. Khang nói: -- “Cậu Út biết không, cái hay của âm nhạc làm cho lòng sung sướng nhưng cái đẹp của âm nhạc làm cho hồn cảm động. Khi món quà quá lớn, quá sức yêu, không thể cười, chỉ có thể khóc.” Tôi nghĩ, những lúc như vậy, Khang không chơi đàn, mà múa với hồn oan.
Tôi làm việc giữ xe cho một casino ở ngoại ô Toronto, gọi là parking attendant. Đó là nghề mà thanh niên ít chịu làm, phần vì lương thấp, mức tối thiểu, hồi đó 5 đồng một giờ, nhưng lý do chính là vì nó buồn. Bãi đậu xe nằm dưới hầm tối, không nhìn thấy người qua lại, nếu ở ngoài trời cũng sau lưng nhà cao tầng. Không ai làm chỗ đậu xe ở khung cảnh xinh đẹp, nơi ấy dành cho hàng quán. Đi học ban ngày, tôi làm thêm ban đêm là việc thích hợp, có thể thỉnh thoảng ngồi học bài. Nhân viên trong phiên gác trước tôi là cô gái bằng tuổi hoặc cùng lắm lớn hơn một hai tuổi, nhưng không hiểu sao cô vẫn có thói quen gọi tôi là em và xưng chị.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.