Hôm nay,  

Ngọn lửa Bengale

24/03/202209:14:00(Xem: 3874)

Truyện dịch

feu de bengale

 

Đôi tay, cánh tay, thân mình của anh bê bết máu, Anh đã men theo hàng rào kẽm gai suốt mười cây số mà không thể luồn bên dưới rào được. Anh cũng không hề thấy một nơi nào có kẽ hở để lách qua. Nhưng mà ở ngay phía bên kia, chỉ cách chừng năm mươi phân thôi, ở bên trên những vòng dây có gai nhọn hoắt làm rách toạc mọi thứ, một thế giới khác sẽ hiện ra, nơi đó nhà cửa không đổ sụp xuống, nơi đó đàn bà, trẻ con không lẩn trốn như thú vật, và đàn ông thì không còn sợ hãi, không còn chịu cảnh đói rách lạnh rét nữa.

 
Bằng bất cứ giá nào, anh phải làm được, phải qua được phía bên kia; anh nghe tiếng lũ chó khàn giọng vì đã sủa quá nhiều, tiếng những tên lính la hét ba người đang bị vướng vào những vòng dây quái ác làm họ bị thương tích.
 

Còn anh, chúng sẽ không bắt được anh đâu. Anh không muốn. Anh đã hãi sợ sự kinh hoàng. Nỗi thống khổ. Niềm tuyệt vọng.

 

Anh sẽ trèo lên đó, bám thật chặt vào, rồi nhảy, bay lên khỏi hàng rào kẽm gai này. Những vết thương toác da làm rát buốt trên khắp thân thể sẽ không làm cho anh chùn lòng. Anh không thể nào vượt qua hành trình toàn đá giăm sắc nhọn hàng ngàn cây số dưới cái nóng như thiêu như đốt, nhai quả mọng màu tím đắng ngắt nhặt được trong đám cúc gai, đã phải liếm mồ hôi của chính mình để thế nước, để rồi bây giờ chịu thua, phải ngừng lại trước những cuộn dây kẽm gai sắc nhọn này. Không, không đời nào!
 

Lũ chó đang đến gần, anh nghe thấy chúng chạy rần rần, gầm gừ hung tợn. Ánh mặt trời quất mạnh trên gáy. Anh đã chui đầu qua được giữa hai hàng kẽm gai sắt thép, hai má rướm máu, thân mình gắng sức tột cùng, vất vả len qua đường dây chật hẹp, hàng đinh đâm sâu vào da thịt; giờ đây anh bị kẹt cứng rồi, anh không thể cử động được nữa, cái đầu qua được phía bên bờ tự do, hai chân thì còn mắc lại bên kinh hoàng và hận thù.
  

Không thể bỏ cuộc, phải tin, vẫn phải tin tưởng vào cuộc sống, vào cuộc đời xưa kia, trước khi có sự điên rồ của loài người, nghĩ đến nguồn sinh lực tràn đầy sức sống, phải nghĩ đến tiếng cười trẻ thơ, nghĩ đến tương lai, đến những điều ta có thể thực hiện được, ngay gần đây, phía bên kia đây thôi.

 

Thu hết sức lực, anh nâng mạnh thân hình lên khỏi hàng dây, những con dao găm sắc nhọn xẻ thịt anh ra, máu me đầm đìa chảy xuống chân, sự đau buốt tột cùng mang thêm sinh lực đến cho anh; bây giờ anh chỉ cần nhích thật mạnh đôi chân lên, như một người lớn tuổi bị liệt phải sử dụng sức mạnh đôi tay để cử động, anh tự đẩy mình lên.
 

Có tiếng la to: “Kìa, một tên nữa kìa! Nhanh lên, quất vào lũ chó đi nào, để chúng chụp cho được hắn ta! Khẩn trương lên đi, hắn sắp chạy thoát rồi, hắn sẽ qua được phía bên kia mất thôi.”

  

Và anh, trong một nỗ lực tối hậu, giương căng toàn bộ cơ bắp và chuyển đẩy toàn bộ thân mình xuống vùng đất trú an toàn. Anh nằm sập xuống, bẹp dí, thân mình vấy đầy máu mà sức nóng hầm hập đã làm khô đi.

  

Thoát rồi, ôi đã thoát được rồi, anh đã thành công rồi. Giã từ nỗi kinh hoàng triền miên, nỗi sợ hãi đã hết thật rồi. Anh cần vài phút để bình tâm và có sức để gượng dậy, rồi anh sẽ bước đi và đến gặp những người sẽ bảo vệ anh, đem lại nhân cách cho anh.
 

Rồi anh cũng quỳ xuống được, anh nghe lũ chó thở hổn hển, bọn lính quát mắng ầm ĩ ở đâu đó rất gần đây.

 

Muộn mất rồi bọn bay ơi, bọn bay không làm gì ta được nữa rồi!

 

Chúng đã không bắt anh lại được! Thoát rồi! Anh đã thoát thật rồi!

 

Anh gượng đứng dậy, chao đảo, và lại cố đứng thẳng lên, bước một bước, rồi bước nữa trên vùng đất hứa.

 

Trước mặt anh là con đường trải nhựa, rồi đằng xa kia, cách vài trăm thước một ngôi nhà hiện ra.

Thế là không cần phải chạy nữa, không cần phải lẩn trốn nữa. Anh đã thực sự thành công.

Cơn đau tột cùng ở vùng thắt lưng làm anh quằn người, anh không hề biết, cơn đau đã bật tung lên trong người anh như một ngọn lửa Bengale, rồi anh ngã qụy xuống, không một tiếng la, rồi bao nhiêu hình ảnh nối tiếp nhau hiện ra... Anh nhìn thấy ổ bánh mừng sinh nhật lúc anh vừa tròn mười tuổi, bên trên là những ngọn nến nhiệm màu không bao giờ tắt. Anh nhìn thấy nụ cười của mẹ anh, rồi những nụ hồng trong vườn...


Đêm tối xuống dần ở mi mắt anh, cơn đau dịu nhẹ hẳn. Anh sẽ ngủ một lát, rồi sau đó mọi việc sẽ yên ổn thôi…

 

Thật vậy, từ nay mọi việc sẽ ổn thôi.

 

– Constance Delange, tháinữlan dịch

 

Ghi chú của tác giả:

 

Nhân vật cảm nhận trong cơ thể như ngọn pháo bông bừng lên khi bị trúng đạn, một sự bùng nổ như thuốc súng trong pháo bông (nghĩa thứ nhì của từ Lửa Bengale), và ta cũng tin tưởng rằng anh sẽ thành công; ngọn lửa Bengale cũng biểu lộ nỗi mừng vui khi đạt được mục đích: TỰ DO!  (Nghĩa thứ nhất của từ “Lửa Bengale” là “pháo bông để mừng”).

 

Ghi chú của dịch giả:

 

Vịnh Bengale là một trong những vịnh lớn nhất thế giới, nằm ở phía đông bắc Ấn Độ Dương. Thuở xưa, khi những phương tiện liên lạc còn thô sơ, “lửa Bengale” được nhân viên báo hiệu đường sắt dùng để báo tàu ngừng đột ngột để tránh va chạm. “Lửa Bengale” cũng được gọi là pháo sáng, là một dụng cụ làm pháo bông. Ánh sáng có nhiều màu nhưng màu đỏ là thường dùng hơn cả.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Rứa là tui được hưởng hai cái bánh nhỏ thanh tao dòn rụm, bột họ pha răng mà mê rứa không biết, kèm mấy lát vả, lát khế, rau sống chấm nước tương pha chế ngon ơi là ngon. Tỉnh táo bao tử rồi hắn chở tui đi vòng thành phố Huế, qua khu Thương Bạc, ủa bữa ni răng mà người đông rứa, bớt vẻ yên tĩnh như ngày xưa, tiệm quán cũng mọc lên khó còn đất trống. Vừa đi hắn vừa kể nỗi gian khổ lúc trẻ, nay thì hậu vận quá tốt, con có địa vị thành công, chồng cưng yêu nhiều hơn lúc tuổi xế chiều, mà nhìn kỹ hắn tươi đẹp mặn mà ghê, chắc hạnh phúc gia đình biến sắc thêm xinh hè. Đi nửa ngày hắn thả tui về nhà” tau bận chút chuyện, sẽ gặp mi sau nữa nghe. Tui cám ơn hắn, gần 50 năm tuy xa mà hắn vẫn nhớ, vẫn đầy tình bạn thân thiết như hồi mô.
Sàigòn cũng như Phan Rang không có 4 mùa, nhất là mùa Thu. Nhưng Sàigòn cũng như Phan Rang đều có những đêm trăng Thu mờ ảo đẹp và buồn giống như mắt của em.
Cuộc điện thoại đã dứt mà Tử Linh vẫn còn đứng tần ngần một lúc rồi mới quay trở ra hiên, ngồi xuống cái ghế gỗ mà khi nãy cô đang ngồi, vừa đọc sách, vừa nhâm nhi tách trà nóng và những chiếc bánh madeleine thơm mùi vanilla trước khi tiếng chuông điện thoại từ trong phòng khách buộc cô phải chạy vào...
Ba đứa chơi thân với nhau tự thuở nào, thiên hạ ai cũng bảo ba đứa ấy như hình với bóng, họ còn kháo nhau là mật thiết hơn cả tam tinh, tam điểm, tam tụ, tam anh… Chẳng cần kết nghĩa đào viên nhưng chúng sống chết có nhau, chưa bao giờ rời nhau một li hay một khoảnh khắc nào. Thỉnh thoảng cũng có xung đột giữa ba đứa nhưng rồi cũng trôi qua êm thấm. Cả ba nương tựa nhau, hỗ trợ nhau, sinh hoạt qua lại với nhau. Thật tình mà nói thì chỉ có hai mới đúng, vì thằng Tưởng vốn là đệ tử ruột của thằng Tâm mà ra, tuy nhiên vẫn có sự khác biệt nào đó nên thiên hạ cho là ba, nói cho cùng thì là bộ bà cũng đúng hay khắt khe bảo bài trùng cũng không sai.
Lật bật đã tới tháng 9 mùa tựu trường. Lòng nao nao nhớ thời học sinh nhỏ nhít đất thần kinh xưa. Ở Huế, mùa tựu trường cũng tưng bừng rộn rịp như bất cứ nơi nào khác trên đất quê nhà. Cũng bâng khuâng luyến tiếc những ngày hè tươi đẹp chóng qua. Cũng nao nức trở lại trường lớp gặp bạn thầy cũ, mới. Có khác chăng mặt mũi mấy cô mấy cậu học trò đều phảng phất một vẻ nghiêm trọng. Làm như mình đã trưởng thành tới nơi!
Cách đây 5 năm ông bà này có cho một cậu sinh viên Việt nam trẻ tuổi, đáng tuổi con cháu xin mướn phòng ở trọ học tại nhà ông bà cho đến đầu năm tới 2025, cậu sinh viên này sẽ tốt nghiệp đại học 4 năm với văn bằng cử nhân
Cũng như các trại tỵ nạn khác, ở Thailand cũng có một khu “nhà tù” dành cho những người tỵ nạn không chấp hành quy định của Bộ Nội Vụ Thái hay của Cao Ủy tỵ nạn. Thời hạn ở tù tùy theo mức độ phạm quy, có khi từ một vài ngày cho tới một hai tuần. “Tù nhân” cũng đủ loại, nhẹ thì có những người mua lén đồ ngoài hàng rào, thức quá giờ giới nghiêm, quên làm vệ sinh khu nhà được phân công, nặng hơn là thành phần đánh lộn, gây mất trật tự trong trại, trộm cắp vặt, trốn ra ngoài trại đi chơi.
Tháng 7 năm 1954, hiệp định Genève chia đôi đất nước Việt Nam, người Pháp thất bại ở mặt trận Điện Biên Phủ, trả lại chủ quyền miền Bắc cho việt cộng. Việt Minh kéo từ mạn ngược và khắp nơi chúng đã ẩn náu về tiếp thu thủ đô Hà Nội và sau đó, toàn thể các tỉnh thành phía Bắc cho vào tới vĩ tuyến 17. Chúng ta mất một nửa giang sơn. Pháp có 80 ngày chuyển giao Hà Nội, 100 ngày giao Hải Dương, 300 ngày trả Hải Phòng, rồi chấm dứt. Việt cộng nằm vùng trong miền Nam cũng tự do ra Bắc tập kết, dù rất ít, nhưng làn sóng người miền Bắc di cư vào Nam thì đông nườm nượp… như nước vỡ bờ, họ chạy trốn, họ sợ cộng sản, họ sợ cái chế độ tam vô đang rượt đuổi sau lưng. Họ ra đi lánh nạn, đa phần phải bỏ lại gia sãn của cải, mồ mả cha ông… họ ra đi nhanh, mau lẹ nhất là các thành phố Hà Nội Hải Phòng, các xứ họ đạo công giáo Bùi Chu, Phát Diệm… có người vội vã đến chỉ ôm theo một tấm ảnh đức mẹ Maria… họ rủ nhau cứ xuống Hải Phòng là có tàu há mồm, há mồm chờ sẵn, chờ họ lên tàu và chở họ vô miền Nam.
Hà Nội có mùa Thu, Ninh Thuận quê tôi ở đó chỉ có hai mùa nắng gió. Buổi sáng mai hôm ấy mẹ tôi âu yếm nắm lấy tay tôi dẫn tôi đi qua con đường làng Xóm Động, rồi đến con đường cái quan tráng nhựa. Mẹ tôi nắm lấy tay tôi dẫn tôi đi qua cầu "Ông Cọp", rồi cầu "Nước Đá" và đến tận cửa trường tiểu học Phan Rang. Tôi cúi đầu đi qua cổng trường có tấm biển lớn có hàng chữ Tây: "Indochine Francais- École Primaire De Phanrang"...Giữa sân trường có cột cờ với lá cờ ba màu của Pháp treo tận chót vót. Trường của tôi hình như vừa quét nước vôi và có cửa kiến, tôi thoáng nghe mùi cửa sổ mới sơn.
Trước năm 1975, ngày đó tôi còn là một cậu thiếu niên ham thích đọc tiểu thuyết trinh thám mạo hiểm của Người Thứ Tám với nhiều câu truyện phiêu lưu, hồi hộp của chàng điệp viên Z-28 đào hoa, đẹp trai Tống Văn Bình. Tôi còn nhớ chàng điệp viên tài giỏi, võ nghệ siêu quần của chúng ta được phái đi thi hành một nhiệm vụ tình báo tại Maldives, một đảo quốc mà khi chúng ta nhìn về phía chân trời, nơi Trời và Biển gặp nhau, vì chính chúng ta cũng đang sống trên mặt nước...
Khoảng gần ba giờ chiều tôi rời khách sạn Ninh Kiều, cuối đường Hai Bà Trưng, nhìn ra sông Cần Thơ. Trời hanh nóng và đứng gió. Giấc ngủ trưa dài sau bữa ăn nhẹ, khiến tôi tỉnh táo và phấn chấn hẳn lên. Hãy còn sớm, hai giờ nữa tôi mới có hẹn với gia đình người bạn thân ở nhà hàng Hoa Sứ. Thời gian đủ để tôi dạo chơi và ghé chợ Cần Thơ tìm mua một vài thứ đồ lưu niệm… Vài cơn gió nhẹ mang theo hơi nước từ dòng sông thổi dọc theo công viên thật dễ chịu. Bến Ninh Kiều ngày nay thật khang trang và đẹp. Đi dọc mé sông, từ đây tôi có thể nhìn thấy chiếc cầu treo Cần Thơ sừng sững, hiện đại. Phía trước khách sạn là nhà hàng nổi và không xa là chiếc du thuyền nhà hàng lộng lẫy về đêm. Du khách vừa ăn tối vừa dạo cảnh quanh sông và có cảchương trình văn nghệ thật đặc sắc của miền Tây sông nước
Nàng tỉ tê với nhỏ bạn về những cuộc “thảo luận” sôi nổi của vợ chồng nàng. Bằng mọi giá, nàng muốn giữ cho đứa con có tuổi thơ tươi đẹp, hạnh phúc. Bao năm qua, đã có lúc nàng buồn rầu nghĩ, mình như con gà đẻ trứng vàng. Chỉ được việc, nhờ biết đẻ trứng vàng. Nàng không dám đề cập đến chuyện tiền bạc, sợ làm chồng buồn, cho rằng nàng cậy sức mạnh kim tiền lấn áp chồng. Nàng rất may mắn trong cuộc sống ngoài xã hội. Chưa ra trường, nàng đã nhận được hợp đồng làm việc với một trong những hãng hàng đầu của nước Đức. Ngược lại, chồng nàng quá lận đận. Cả năm trời, anh chạy đôn, chạy đáo tìm việc, mà vẫn phải nằm nhà. Nàng tự nhủ, tài lộc trời ban, gia đình sống thoải mái, chứ tính toán chi mà mất hòa khí vợ chồng. Tháng tháng, nàng thanh toán nợ to, nợ nhỏ, hàng hàng lớp lớp chi phí tất yếu của xã hội văn minh.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.