Hôm nay,  

Con cám ơn

01/04/202211:42:00(Xem: 3291)

Truyện ngắn

 

lao cai
 

Tôi thích ăn phở và người Việt Nam nào đa số đều ưa ăn phở. Phở gà Hiền Vương thơm phức, được trang điểm thêm chùm trứng màu vàng ngà bên hành ngò xanh mướt, bắt mùi.

 

Phở Bolsa, phở ở Little Saigon, Cali, ôi tô phở mới hấp dẫn làm sao cả về phẩm và lượng, tô thì lớn, phở thì nhiều, thịt tái, nạm, gầu đầy ắp, nước phở thơm lóng lánh sóng sánh mùi hành, ngò, húng quế, ngò gai trộn thoang thoảng quế hồi vừa thơm lừng vừa bát ngát.

 

Quê hương Việt Nam tôi đó, ai đi đâu xa vời vợi cũng đảo mắt có ý tìm ăn phở… phở được ví với người tình mà! Người tình phở đó là nói các quý ông… Còn bản thân tôi khi tới San José vào tiệm phở gì ở ngay bến xe đò Hoàng cạnh khu chợ Việt Nam đầy trái cây Á Đông, tiệm phở chỉ một chữ PHỞ thôi, nhưng rất khang trang rộng rãi, cháu tôi gọi cho tôi tô phở gà, lòng gà, tô phở mang ra trước mặt, tôi lặng người nhìn… sao cả cái tô cái đĩa và bát phở nó giống thế, phải gọi đây là phở Nam Xuyên Lý Quảng mới đúng. Tôi lấy máy nhỏ ra chụp hình. Nó thơm quá, đẹp quá, mùi phở, mùi quê hương hòa lẫn mùi ân tình cũ của Saigon năm xưa!

 

Câu chuyện tôi thuật sau đây là phở mà phở chỉ là phụ, còn người ăn phở và bán phở mới là chính. Câu chuyện ăn phở tình nghĩa này may mắn không diễn ra ở Hà Nội ngày nay, không diễn ra ở phố Lý Quốc Sư thủ đô ngàn năm văn vật thời mở cửa này, mà xảy ra ở một con phố nhỏ, đường lên miền cao mà xưa gọi là miền thượng du, miền Bắc Việt Nam.

 

Tiệm phở đó mang tên phở Hiền, tọa lạc ở thành phố Lào Kai, phía đông bắc Hà Nội, là miền cao, xưa gọi là thượng du, nơi tọa lạc dãy núi Hoàng Liên Sơn, rồi Lai Châu, rồi Hà Giang… Tôi cũng không hiểu sao tôi đại kỵ đại ghét phe thắng cuộc mà tôi lại lần mò lên đó. Có thể tôi cảm câu hát: « Đường lên núi rừng, sao hãi hùng, ôi gió lộng…» nhạc của nhạc sĩ Trần Hoàng (Quảng Trị) nhưng mà không, nay đường lên núi rừng hết hãi hùng, hết vắng vẻ rồi, có lên cao so với đồng bằng, nhưng không ngút ngàn như xưa nữa, mà giờ có đường đi, có đường xa lộ từ Hà Nội lên Lào Kai đi khoảng 3 giờ, nếu mà đi đường xa lộ thì thư thả hơn, mất khoảng 6 giờ đồng hồ, bạn có thể ngắm cảnh rừng xa xa, những con đường vòng vèo uốn khúc, thành phố khá khang trang và nhiều mái nhà đủ màu sắc có một chút hỗn độn, nhưng cũng có những con đường mòn vắng vẻ thưa thớt, khá yên tĩnh mà nếu muốn đi bộ mon men theo bờ cỏ non, bạn có thể vừa đếm bước vừa đọc thơ thiền:

 

Khi xưa bên lối cỏ mòn,

Sư Cô gánh nước lên non tưới vườn.

Ê a câu kệ vô thường,

Rớt theo giọt nước bên đường cỏ khô.

Ngày nay lối cũ tình cờ,

Thấy như lai trụ bên bờ nở hoa!

 

Ở cái thành phố Lào Kai đó, tôi vô tình gặp hai cha con người đó đi ăn phở.

 

Xin dài dòng một chút, tôi là người đồng chua nước mặn, Thái Bình, tôi đã theo cha tôi về Hải Phòng lúc 5 tuổi là năm 1950. Năm năm sau, 1955, tôi di cư vào Nam, sống đi học ở Saigon tới 1975. Rồi sau 1975 tôi sống với cộng sản tới năm 1982. Suốt bảy năm chung sống với họ, thật tôi mắc bệnh chán nản và không một chút ưu ái nào với họ hàng bà con từ miền bắc vào thăm. Phải nói là tôi ghét họ. Ghét chế độ, ghét cộng sản, ghét cả con người vùng miền đó, dù từ nơi đó tôi được sinh ra.

 

Nay tôi đã gần hết cuộc đời và tôi vẫn thấy cái gì ở chỗ đó là đều xấu, rất xấu. Nhưng lần đó, tôi trở về, về dối già nơi chôn nhau cắt rốn và tôi gặp: hai cha con người đó đi ăn phở.

 

Lúc đó tôi chẳng chú ý tới ngoại cảnh xung quanh nữa, vì hình như đi bộ nhiều, tôi mỏi cẳng và thấm mệt, tôi ghé vào quán phở bình dân ở miền cao, nhưng khá ngăn nắp và sạch sẽ, được kể như là chu đáo khang trang với một bà chủ quán ăn mặc nền nếp quần đen, áo cánh trắng, tóc bới gọn gàng và ăn nói vừa phải, lịch sự, nếu muốn gọi là phong độ cũng được.

 

Tôi đã ăn xong một tô phở chín nhỏ và uống nước thêm, cũng xin ngồi nghỉ lại chốc lát nơi quán. Tiệm cũng trung bình có hai dãy, mỗi dãy 3 bàn, vị chi có cả thảy 6 bàn cho khách. Quầy nấu và tủ kính bày hàng lại ở trong cùng. Mặt ngoài cửa có cái bàn dài như bàn học trò có bày 1 khay nước, 1 bình trà và một lọ cổ cắm đầy hoa mẫu đơn, mà trong Nam ta gọi là bông trang.

 

Tôi đã ăn rồi thì dĩ nhiên có thể quan sát họ một cách tự nhiên vô tư, nhưng để cho kín đáo, tôi lôi trong giỏ ra một cuốn sách nhỏ, làm như chăm chú đọc, tôi cũng lấy điện thoại cầm tay ra để ngay trước mặt. Nhưng mà tôi tò mò thiệt!

 

Hai cha con người đó đi ăn phở. Người cha lối 50 tuổi, người tầm thước, hơi gầy, mặc một bộ đồ bộ đội cũ, sờn vai, sờn gấu tay áo. Ông đã bỏ mũ xuống bàn, hai cha con nói chuyện vui vẻ, à thì ra ông ta là một bộ đội phục viên, họ vui vẻ lắm vì mấy tháng rồi mới được gặp lại nhau. Ông ta vá lốp xe ở bên đường ngay vòng đai lối vào thị xã, kiếm ăn tạm qua ngày. Còn anh con trai là sinh viên năm thứ nhất, ban công nghệ thông tin ở Hà Nội về thăm nhà.

 

Người con trai manh mảnh cao, còn rất trẻ, khoảng 19, 20 tuổi gì đó. Trông nhanh nhẹn có vẻ tháo vát. Anh kể với cha là ngoài giờ học ở trường, anh có đi kèm thêm như gia sư cho một em nhỏ, mà tiếc rằng tháng này bé học sinh đó bệnh, nên anh kiếm chẳng được bao nhiêu. Về thăm nhà kỳ này, anh nói nhỏ giọng xuống nghe không rõ lắm, dường như anh muốn mua món quà gì đó tặng bố mẹ mà mua không nổi, vì chỉ còn ít chục ngàn trong túi, sau khi đã chi phí tiền xe cộ. Không quan trọng quà cáp, con về là bố vui lắm rồi, mình gọi phở ăn đi, hôm nay bố trả, bố có tiền đây con. Hai người gọi phở, người con trai đi khuất vào gần bà chủ quán, nói nhỏ:

 

– Bác cho cháu 2 tô phở, một tô có thịt và một tô không thịt, xin thêm nước và hành hoa thưa bác.

 

Bà chủ cẩn thận để hai tô phở nghi ngút khói trong một cái khay khá đẹp mang ra, người con đặt nhẹ tô phở với thịt trước mặt cha và tự nhiên ăn tô của mình sau khi mời bố. Chắc có lẽ đói!

 

Ông bố trang bị chanh, ớt, tương, tiêu, rồi từ từ gắp từng lát thịt bò sang bát của con:

 

– Con ăn đi, ăn còn có sức mà học, bố già rồi, ăn nhiều chất béo không tốt cho sức khỏe.

 

Người con ngỡ ngàng bịn rịn nhìn cha một giây, rồi rón rén gắp lại thịt sang tô phở của ông.

 

– Bố ơi, bố già rồi, bố cần bồi dưỡng, sức con trai trẻ mà bố.

 

Họ gắp qua gắp lại, sau đó hình như thỏa thuận với nhau chia thịt đều làm hai phần.

 

– Bố ơi, bố mẹ ráng giữ gìn sức khỏe tốt nhé, chờ một vài năm nữa con học xong… hoặc là con về ở cùng bố mẹ, hay là xin được việc làm tốt ở đâu thì con mang bố mẹ theo con tới ở chung.

 

Hai bố con ăn từ tốn, chậm rãi vừa rì rầm tâm sự. Hình như cũng khá lâu rồi họ mới được gặp nhau. Tôi thiu thiu tựa đầu vào thành ghế ngủ gật sau tờ báo rộng.

 

Bà chủ quán tựa cột nhìn xa xa, quán vắng khách, giờ đúng ngọ, vài con chim chìa vôi đuổi nhau lào xào trên bờ rào cây chành giành nhu nhú đầy nụ vàng tươm.

 

Tôi nghe tiếng dép bước nhẹ nhàng, người chủ quán quay vào trong, có tiếng phì phò bật lò bếp, mấy phút sau, có tiếng dép, vẫn là bà chủ quán từ trong bếp đi ra, tay bưng đĩa thịt bò còn bốc khói, bà dừng lại đặt đĩa xuống bàn ăn của hai người khách duy nhất, bà nói trước, tôi ngủ gật, nhưng tôi nghe rõ giọng bà nói, khoan thai và từ tốn, vừa đủ nghe, tôi cố gắng lắm mới nghe lóm được, bà nói như giọng điệu từ từ và ấm áp như của vợ nói với chồng, của người mẹ chu đáo nói với con:

 

– Đây, thịt bò tái tương gừng đây, bố con ăn đi, ăn ngon miệng nhé! Tiếc là ở đây, bác không có tương Cự Đà, bác chỉ có tương bần thôi. Cha con dùng thử.

 

Cậu con trai vội lật đật đứng lên:

 

– Dạ thưa bác, con không có gọi thêm đĩa thịt này. Xin bác cất đi cho.

 

Nhưng bà không cất đi, bà nhẹ để tay lên vai người bạn trẻ giải thích:

 

– Con ơi, bác vừa giật mình nhớ ra ngày hôm nay là ngày kỷ niệm đúng 10 năm bác mở quán ăn này, nên thịt bò không tính tiền, bác chiêu đãi khách. – bà hạ giọng – nhờ trời phật gia hộ, mười năm qua bác kiếm đủ ăn. Con cứ nhìn bình hoa ở cửa ra vào là con thấy đó, bác kỷ niệm!”

 

Tần ngần một phút! Hai cha con tiếp tục ăn, hình như họ khen với nhau thịt bò mềm và ngọt quá. Ăn xong họ uống nước trà. Người cha xoay xoay bình trà ấm, ấm ấm bàn tay, ông cảm thấy thật dễ chịu, người con trai ý tứ gạt chanh và chút ớt còn cặn vào chén nước mắm nhỏ. Chén nhỏ anh xếp vào trong chén lớn, 2 tô xếp gọn vào lòng hai cái đĩa đựng tô, đũa và muỗng xếp thứ tự gác lên thành miệng bát, mảnh khăn ăn còn lại, anh cũng ý tứ lau sạch bàn ăn.

 

Hai cha con ngồi tâm sự rì rầm với nhau, khoảng nửa giờ sau thì họ chào cảm ơn, từ giã chủ quán ra đi nhẹ nhàng như gió thoảng.

 

Bà chủ quán tiễn khách rồi đứng tì tay bên bàn cửa tiệm, bà ngó theo hai bố con người khách vừa ăn xong, vừa ra đi. Bà cứ nhìn theo mãi cho tới lúc bóng họ vừa khuất hẳn dưới con đường dốc xa xa. Bà đã nhìn, đã quan sát thằng con trai đó lúc nó thong thả xếp từng cái chén nhỏ vào lòng cái tô lớn. Bà thầm nhủ giá mình có thằng con khả ái như thế thì hạnh phúc biết bao! Bà cứ đứng như thế đợi gió chiều nhè nhẹ đến, rồi cũng đến lúc phải quay vào dẹp bàn ăn của khách. Hoa gạo đỏ đã bắt đâu rơi trên vai áo! Bà mỉm cười khi thấy chén bát thằng bé đã xếp gọn gàng. Bà nhấc lên khỏi mặt bàn, dưới cái đĩa cuối cùng thì bà thấy có một tờ giấy bạc 50.000 đồng chặn ở dưới! Con cám ơn.

 

Bà bỏ đống bát bước vội ra cửa ngó theo hướng hai bố con vừa đi khỏi, nhưng họ đã đi đâu đó khuất xa rồi!

 

Chúc Thanh

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Chị Hai đã uống một ly nước đầy và đi làm việc tiếp. Đoan vào lại chỗ của mình. Như một phản xạ, Đoan lại cho tay vào túi, làm như tìm xem trong đó có sót lại một viên kẹo chăng. Mơ hồ, Đoan nhớ ngày xưa Đoan hay ví một hành động “vớt vát” nào đó như là “tìm con cá sót lại trong chiếc giỏ của cô Tấm.” Mắt Đoan cay cay. Bỗng như thấy mình đang đi vào lại đường cây còng. Mùa mưa, những chiếc lá trên cao đọng nước, rũ nhè nhẹ xuống tóc Đoan, nghe mát. Hai túi áo blouse lúc nào cũng đầy kẹo. Đoan vào trại bệnh. Những dãy giường đầy người. Thay băng xong cho ai, Đoan tặng người ấy một viên kẹo
Ở đây tôi chỉ muốn đưa một vài nét chính của các môn Khí công mà tôi đã tập qua, để người đọc theo đó sẽ chọn được một môn pháp thích hợp cho mình tập. Chả thế người xưa thường hay nói “Tùy bịnh chọn công“, tùy theo thể chất và sức khoẻ mà chọn cách tập Khí công.
Ngày tựu trường năm nay, trường Việt Ngữ Suối Mở Offenbach đón tiếp 14 học trò mới với tuổi tác, trình độ tiếng Đức, tiếng Việt chênh lệch khá nhiều. Tạm thời, cô giáo gọi lớp này là Lớp Mới. Giờ học đầu tiên, cô giáo chưa thực sự “dạy” chữ, chỉ “dỗ” các học trò. Hy vọng học trò sẽ thấy học tiếng Việt không khó lắm và tìm thấy niềm vui khi đến trường Việt Ngữ mỗi thứ Bảy. Chờ cho học trò tìm chỗ ngồi xong, cô giáo giới thiệu mình, và tập cho học trò chào hỏi. Nghe các em đồng thanh: “Con chào cô giáo”, lòng cô giáo rộn lên niềm vui, liên tưởng câu châm ngôn “tiên học lễ, hậu học văn” mình được học ngày xưa.
Cô vẫn nhìn thẳng phía trước, không nhìn ngang nhìn ngửa. Anh liếc nhìn cái túi xách giữa hai đùi cô, thấy cộm lên, nghĩ rằng trong ấy có một khẩu súng ngắn, đã lên đạn, lát nữa sẽ kề vào thái dương của anh. Anh nín thở.
Tháng tư 1976, sau một mùa đông ở North Dakota, vừa có bằng lái xe, tôi bỏ việc, bỏ lại một vùng quá bình an, quá tử tế, nhưng cũng quá cô quạnh này, đi thẳng về hướng tây...
“Anh nhớ đến dự lễ trao đẳng cấp Đại Bàng cho thằng con em nha! Để mừng cho em và cháu…” Tôi nhận được điện thoại như vậy từ C., một người bạn trẻ có con trai là hướng đạo sinh thuộc Liên Đoàn Trường Sơn, được nhận danh hiệu Đại Bàng vào ngày 16/08/2025. Đã lâu rồi, kể từ khi hai thằng con ngưng sinh hoạt hướng đạo để đi học đi làm, tôi không có dịp trở về thăm lại liên đoàn. Công việc thì nhiều, thời gian thì ít. Nhưng lần này thì không từ chối được rồi!
Đó là tháng 6-1989, lần đầu đến New York và vào một bảo tàng viện nổi tiếng ở đây, tôi tình cờ, tới chỗ treo một bức tranh trừu tượng khổng lồ, cao khoảng 2 mét, ngang khoảng 6 mét. Tôi kinh ngạc với sự giàu có ở đây, bảo tàng viện này dành riêng ra một căn phòng lớn, đơn giản, sang trọng, chỉ để trưng bày một bức tranh đó...
Tôi bị bắt tại huyện Tân Hiệp chiều ngày hai mươi, giáp Tết. Lý do, mang theo hàng không giấy phép. Thế là tiêu tan hết vốn lẫn lời mà tôi chắt chiu, dành dụm gần cả năm nay. Nhớ đến mẹ và gia đình trong những ngày Tết sắp tới, tôi vừa buồn vừa tức đến bật khóc. Xui rủi, biết trách ai. Tiễn, anh phụ lơ, đã cẩn thận cất dấu hàng cho tôi, vã lại anh cũng quá quen biết với đám công an trạm kiểm soát. Không ngờ chuyến nầy bọn công an tỉnh xuống giải thể đám địa phương, nên tôi bị “hốt ổ” chung cả đám. Đây không phải là lần đầu bị bắt, nhưng lại là lần đầu tiên tôi đi chuyến vốn lớn như vầy. Năm ký bột ngọt, năm ký bột giặt, hơn chục ống thuốc cầm máu và trụ sinh hàng ngoại. Bột ngọt, bột giặt không nói gì, nhưng hai thứ sau hiếm như vàng mà giới “chạy hàng” chúng tôi gọi là “vàng nước”. Nên thay vì đưa về khu tạm giam huyện chờ lập biên bản, hồ sơ xét xử tôi nghe bọn công an thì thầm, bàn tán giải thẳng về khám lớn tỉnh Rạch Giá.
Quỳnh Lâm báo tin sẽ đến Đức trong tuần lễ đầu tháng 10. Nisha vội vàng thu xếp “sự vụ lệnh“ để công du sang Đức. Nisha lo đi chợ sắm sửa đầy mấy tủ lạnh, tủ đá, để mấy cha con sống còn trong thời gian nữ tướng đi xa. Chúng tôi hồi hộp quá, ngày nào cũng thư từ, nhắn nhủ, dặn dò đủ điều tẳn mà, tẳn mẳn. Điện thư qua, về hoa cả mắt. Thư nào chúng tôi cũng nhắc nhở nhau giữ gìn sức khoẻ, vì đứa nào cũng “lão” rồi. Khi gặp nhau, tụi tôi nhất thiết phải đầy đủ tinh thần minh mẫn trong thân thể tráng kiện. Có hôm, đến trưa, chưa nghe tăm tiếng, tôi sốt ruột, xuất khẩu làm thơ... bút tre:
Sống ở đây an toàn và bình an gần như một trăm phần trăm trong hiện tại và tương lai, nhưng không thể bình thản hóa quá khứ. Cuộc chiến khốc liệt giữa thiên thần và ma quỉ luôn ám ảnh ông. Có những điều gì thao thức, âm thầm nghi hoặc, nhoi nhúc sâu thẳm trong ông. Lòng tin vào ông Gót có phần nào lung lay. Đông cảm thấy có lỗi khi nghi ngờ bố, người đã giúp đỡ, bảo vệ ông và Vá. Nhưng nghi ngờ là một thứ gì không thể điều khiển, không thể đổi đi, không thể nhốt lại. Nó vẫn đến, mỗi lần đến nó vạch rõ hơn, nhưng vẫn mù sương như đèn xe quét qua rồi trả lại sương mù.
Trâm gật đầu nhè nhẹ. Đoan nghĩ thật nhanh đến một cảnh diễn ra mỗi đầu tháng trong sân trường. Nơi đó, các sinh viên xúm xít cân gạo và các loại “nhu yếu phẩm”, mang phần của mình về nhà. Rồi thì trong khu phố, cảnh những người dân xếp hàng “mua gạo theo sổ” cũng diễn ra mỗi ngày. Nói “gạo” là nói chung thôi, thật ra trong đó phần “độn” chiếm đa số. Phần “độn” có thể là bo bo, có thể là bột mì, cũng có thể là khoai lang hay khoai mì xắt lát phơi khô. Nồi cơm nấu từ gạo và một thứ khác được gọi là nồi “cơm độn.” Mỗi ngày hai bữa cơm độn. Bo bo thì quá cứng vì vỏ ngoài chưa tróc, nấu trước cho mềm rồi cho gạo vào nấu tiếp, trở thành một “bản song ca” chói tai. Khoai lang hay khoai mì xắt lát phơi khô thường bị sượng, ghế vào cơm rất khó ăn. Chỉ có bột mì tương đối dễ ăn hơn, vì người nấu có thể chế biến thành bánh mì, nui hay mì sợi
Mùa đông, tuyết đóng dầy trên mái nhà. Ấy là lúc bà ngoại cũng lo là lũ chim - những con chim của ngoại - sẽ chết cóng. Nhưng bà không biết làm gì để cứu chúng nó. Ngoại đi tới đi lui từ phòng khách qua nhà bếp. Thở dài. Rên rỉ. Rồi lẩm bẩm, “Lỗi tại tôi, lỗi tại tôi mọi đàng.” Bà ngoại tội nghiệp những con chim chết lạnh. Sinh nhật ngoại, chúng tôi chung tiền mua quà. Một con sáo trong chiếc lồng tuyệt đẹp. Bà ngoại cưng nó hơn cưng chị em tôi. Cho nó ăn, ngắm nghía bộ lông đầy màu sắc của nó. Chăm chú lắng nghe tiếng hót véo von lúc chớm nắng bình minh và buổi hoàng hôn nắng nhạt. Rồi một buổi sáng nọ tiếng chim thôi líu lo. Bà ngoại chạy ra phòng khách. Hấp tấp tuột cả đôi guốc mộc. Con chim sáo nằm cứng sát vách lồng. Hai chân duỗi thẳng. Cổ ngoặt sang một bên. Con chim của ngoại đã chết. Bà ngoại buồn thiu cả tuần lễ. Bố mẹ tôi bàn tính mua con chim khác. Bà gạt ngang.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.