Hôm nay,  

Tìm vui cuối đời

23/05/202221:00:00(Xem: 4438)

Truyện ngắn

thanhduong

 

Mẩu đăng tìm bạn bốn phương trên báo làm bà Phượng cảm động và ngưỡng mộ: “ Người đàn ông cô đơn mỗi tuần mang hoa đến mộ phần của vợ, 70 tuổi, nhà cửa ổn định, tài chính vững vàng, tinh thần thảnh thơi, bao dung vị tha. Muốn tìm một phụ nữ 65 tuổi trở xuống để cùng nhau tìm niềm vui cuối đời.”

 

Người đàn ông tuổi xế chiều có nhà cửa và tài chính vững vàng đương nhiên là người khá giả lại thêm tấm lòng bao dung vị tha. Bà thú vị hào hứng nhất điều này. Ông chắc là người chồng tốt luôn thương yêu vợ. Bà ước gì sau này bà qua đời có một người đàn ông nào sẽ vì bà hằng tuần mang hoa đến viếng mộ vợ như thế. Vừa thắm thiết tình vừa lãng mạn biết bao.

Bà Phượng đang cần tìm một người đàn ông có đủ hai điều kiện tình cảm và tiền bạc. Bà hài lòng lời rao tìm bạn vì mình đúng tiêu chuẩn ông ta mong muốn và ngược lại ông ta cũng là mẫu người bà đang tìm kiếm.

 

Hai người đã email qua lại và gọi phone để tìm hiểu về nhau. Ông Năng góa vợ hai năm nay, các con thì ở xa. Ông muốn tìm người phụ nữ khác để bù đắp cho bao lâu nay phải chăm sóc và chiều chuộng người vợ suốt mấy năm trời nằm liệt giường sống đời thực vật sau cơn stroke rồi mới chịu ra đi.

Bà Phượng thì khác hoàn cảnh. Chồng bà mê bồ trẻ, bỏ bê bà. Hai vợ chồng li dị và không con cái.

 

Bà muốn tìm người đàn ông tử tế, rộng lượng, cùng nhau vui hưởng hạnh phúc sau mấy năm trời cuộc sống gia đình sóng gió làm bà tiêu điều héo hon và nhất là có thêm người cùng bà trả cho hết gánh nợ nhà cửa bà đang cưu mang.

 

Hai tâm hồn cô đơn khắc khoải bỗng gặp nhau cuối đường.

Sau những hình ảnh gởi trao họ hẹn ngày gặp mặt. Bà Phượng ở Nam California, ông Năng ở tiểu bang khác sẽ bay đến Cali và ở nhà đứa con trai. California của cộng đồng người Việt không xa lạ gì với ông. Địa điểm hẹn thơ mộng, là một bờ biển đẹp của thành phố Newport Beach. Bà Phượng đã chuẩn bị kỹ cho lần đầu hội ngộ, mái tóc nhuộm màu hung tươi trẻ, bộ váy áo gọn xinh, cái áo khoác buông lơi trên bờ vai, dĩ nhiên không thể thiếu mùi nước hoa thơm nhẹ nhàng quyến rũ. Không ai có thể tin người phụ nữ này đã 65 tuổi. Ông Năng đầu đội chiếc mũ kiểu Scotland cổ điển nhưng không bao giờ lỗi thời, cổ quàng khăn màu xám bên chiếc áo sơ mi màu mận chín, ông trẻ trung thanh lịch và tao nhã như một văn nhân đúng như bà Phượng đã hình dung và mơ ước.

 

Nàng thơ và chàng văn cùng sánh vai đi bộ dọc theo bãi biển, gió biển lồng lộng, tiếng sóng vỗ vào ghềnh đá rì rào, mùi hương thơm từ hai phía trao nhau theo mỗi cơn gió càng làm hai trái tim thêm mơ màng say sóng dù sóng biển kia chỉ chạm nhẹ theo bước chân họ trên bãi cát mềm.

 

Chàng đã cầm tay nàng âu yếm hỏi:

 

– Mình về với nhau nhé?

 

Nàng dịu dàng ngoan ngoãn như cô gái mới mười bảy tuổi:

 

– Vâng ạ.

 

*

 

Ông Năng sẽ thu xếp nhà cửa để dọn về California ở chung với bà Phượng vì bà không muốn rời khỏi nơi đây. Thương yêu vợ cách mấy ông cũng đành để bà ở lại rồi thỉnh thoảng về thăm mộ phần chắc bà ấy cũng thông cảm cho. Bà Phượng muốn ông Năng về ở chung là có ý đồ riêng, hi vọng ông Năng sẽ giúp bà trả góp tiền nhà hằng tháng hay biết đâu ông hào hoa lịch sự móc tiền túi ra trả hết nợ cho bà thì bà sẽ hoàn toàn làm chủ căn nhà này.

 

Bà Phượng nôn nao chờ đợi người mới, cuộc sống mới với bao hi vọng tràn trề. Mấy bà bạn thân của bà Phượng bàn tán:

 

– Phượng muốn tìm lại hạnh phúc đánh mất từ người chồng phản bội trước kia đấy.

 

Bà khác thì thực tế:

 

–  Nghe đâu ông này giàu có lắm, chắc Phượng vừa tìm người chồng, vừa tìm người phụ trả tiền nhà.

 

–  Ừ nhỉ, sau khi li dị Phượng lấy căn nhà, tiếp tục trả mortgage, một mình làm sao trả cho nổi nhà cửa ở Cali này chứ!

 

Một bà khác lại thực tế hơn:

 

– Tôi như Phượng cứ ở một mình, hoa mộng gì, tình yêu gì ở cái tuổi cuối mùa, ai cũng trở tính trở nết rồi thành “hoa cẩm chướng” của đời nhau.

 

Lời ong tiếng ve rồi cũng lắng xuống, ông Năng đã dọn đến ở với bà Phượng sau một buổi tiệc ra mắt họ hàng, con cái và bạn bè đôi bên. Chẳng biết nhà cửa tiền bạc ông đã tính toán và để nơi đâu, bà Phượng chưa tiện hỏi, ông đến với bà cùng chiếc xe hơi cũ mèm, ông giải thích:

 

–  Chiếc xe mua từ lúc mới tinh đến giờ, là kỷ niệm yêu quý của vợ chồng anh nên dù cũ anh cũng chẳng nỡ rời.

 

Ông ăn ở thật có tình có nghĩa. Bà Phượng cũng khéo léo “khoe” căn nhà tình nghĩa của mình:

 

–  Căn nhà của em cũng thế, mua từ lúc hai vợ chồng hạnh phúc ấm êm, nay dù tình duyên gãy đổ nhưng em vẫn muốn giữ làm kỷ niệm trong đời dù hằng tháng trả mortgage cũng vất vả lắm.

 

Đoạn bà nhấn mạnh:

 

– Nay có anh về căn nhà càng có ý nghĩa đối với em.

 

Khi về ở với nhau ông Năng không thể cả ngày đội chiếc mũ flat-cap điệu đàng. Thì ra đầu ông bị hói nặng, từ phía trước tới đỉnh đầu không còn lấy một sợi tóc để gió có cớ thổi bay.

Bà Phượng thất vọng nhưng nhìn ngày này qua ngày nọ thành quen và bà tự an ủi thì mái tóc mình cũng bạc và xác xơ dần. Vấn đề chính là ông Năng giàu có và bao dung kìa. Bà vẫn cố giữ gìn hình ảnh đẹp trước mắt ông, mỗi tháng nhuộm tóc một lần khi màu tóc bạc chớm hiện ra nơi chân tóc đường ngôi. Khi đã được chồng yêu thì nói gì chồng chẳng nghe theo.

 

Họ xứng đôi vừa lứa, hai người cùng cảm thấy đủ yên vui hạnh phúc trong thời gian đầu cuộc tình còn mới mẻ. Chiếc xe cũ của ông Năng từ ngày về California nó thường xuyên dở chứng, nay hư cái này mai hỏng cái khác nằm ì một chỗ, lại thấy ông Năng mang ra tiệm sửa.

 

Bà Phượng thăm dò góp ý:

 

–  Anh bán xe cũ mua xe mới mà đi cho khỏe thân. Anh thấy xe của em từ ngày anh về đây có hư hỏng gì đâu. Đi gần hay đi xa em đều an tâm.

 

Ông trả lời cho xong:

 

– Ừ… ừ… để anh tính.

 

Nhưng ông vẫn cố giữ chiếc xe cũ cho bằng được dù mấy lần sửa, tiền công sửa chắc cũng sắp sửa bằng giá trị rẻ mạt của chiếc xe đã lỗi thời và cũ kỹ. Có khi ông Năng phải mượn xe bà Phượng. Bà tò mò và thắc mắc nghĩ thầm, tiền bạc của cải ông để dành làm gì mà không lấy ra xài cho những chuyện hợp lý như mua xe? Con cái ông đều khá giả, chúng đâu cần ông để của hồi môn. Hay là ông Năng chưa tin cậy bà nên vẫn giữ của phòng thân?

 

Sau một năm đời bỗng chẳng bình yên, tai họa ập đến, bà Phượng bị té ngã từ thang lầu xuống đất, vào nằm bệnh viện và về nhà với cái chân bó bột phải nằm trên giường dài hạn.

Ông Năng chăm sóc từ miếng ăn giấc ngủ, từ thay quần áo đến giúp đỡ bà vệ sinh cá nhân.

 

Trưa nay ông Năng vừa nấu xong nồi cháo thịt, đang lúi húi lục trong rổ bát tìm cái môi để múc ra một bát cháo cho nguội thì bà Phượng nũng nịu nhờ vả:

 

– Anh ơi trong lúc chờ cháo nguội anh pha cho em ly trà chanh với lại thay cho em cái khăn lau tay khác đi và anh giặt nốt…

 

Chắc lục đục trong bếp nãy giờ mới nấu xong nồi cháo, lại chưa tìm thấy cái môi nên ông Năng bực mình sỗ sàng ngắt ngang:

 

–  Nấu xong nồi cháo đi tìm gia vị hành ngò tiêu ớt của bà đã mệt cả người, chưa kịp xong bà lại sai tiếp. Muốn có ly trà chanh thì bà phải nói hộp trà bà cất nơi nào, chanh bà để nơi đâu và đợi tôi nấu nước sôi pha trà. Bà hành tôi vừa vừa chứ!

 

Bà hờn mát đổi cách xưng hô:

 

– Thế mà ông đã hứa sẽ yêu tôi, chiều chuộng tôi đến ngàn đời.

 

Ông Năng chưa hết bực, quát lên:

–  Phải, Nhưng nếu bà không nằm ăn vạ một đống như thế này.

 

Bà Phượng kinh ngạc và tức tưởi:

 

–  Ối giời ôi, ông ăn nói thô lỗ với tôi thế hả!

 

Nỗi lòng ông được dịp tuôn ra:

 

– Tôi thế đấy. Nói thật với bà nhé, suốt năm qua chung sống với bà tôi cố giữ hình ảnh người đàn ông tao nhã, mỗi lần chúng ta sánh đôi ra ngoài đường tôi phải ăn mặc chỉnh tề, quàng khăn lên cổ, đội mũ lên đầu và ăn nói văn hoa cho bà vừa lòng, tôi ngao ngán đến tận cổ rồi.

 

Bà Phượng bẽ bàng:

 

– Tôi đang định sau khi khỏi bệnh sẽ thưởng công ông chăm sóc tôi, mua tặng ông mấy cái khăn quàng nữa cho ông tha hồ chưng diện…

 

– Thôi khỏi! Người ta làm diễn viên lên sân khấu chốc lát là xong vai, còn tôi diễn cả năm trời, oải lắm rồi.

 

– Vậy mà tôi cứ tưởng ông mãi là người trong mộng của đời tôi.

 

– Thực tế đi bà ơi, ban đầu tôi cũng nghĩ bà là nàng thơ mà tôi may mắn bắt gặp giữa đường đời. Nhìn kìa, bà nằm trên giường bệnh hơn tháng nay tóc tai xác xơ bạc thếch chưa nhuộm và khuôn mặt bơ phờ với những vết nhăn nơi khóe môi, khóe mắt…

 

Bà Phượng giật mình nhớ ra mái tóc đã quá hạn chưa nhuộm. Bà cố bào chữa:

 

– Thì ai già mặt không có vết nhăn, đừng có thấy mấy bà tuổi từ 50, 60 trở đi mặt không có vết nhăn mà tưởng họ trẻ lâu, thẩm mỹ viện căng da cả đấy. Còn mái tóc này ư, mai mốt khỏi bệnh tôi sẽ nhuộm lại…

 

– Thôi khỏi. Điều ấy không quan trọng với tôi nữa.

 

Bà Phượng mai mỉa:

 

–  Ông nhìn lại ông đi, những lần gặp gỡ đầu tiên ông đội mũ tôi nào biết ông cố tình che đi cái đầu hói. Tôi còn có tóc để chải để nhuộm, đỡ hơn ông đấy!

 

Ông Năng thẳng thừng:

 

– Ván bài lật ngửa rồi, tôi với bà bất phân thắng bại nghe.

 

Bà Phượng tủi thân ôm mặt khóc, ông Năng đe dọa:

 

– Bà có thôi khóc đi không, đừng làm tôi điên máu thêm thì khỏi có trà chanh gì nữa, nước lạnh cũng không luôn!

 

– Này! Này! Ông đừng có giở thói vũ phu, chồng tôi khi xưa tuy có bồ bịch lăng nhăng nhưng chưa đối xử vô văn hoá với tôi đâu nhé.

 

– Này! Này! Bà nói ai vô văn hoá? Hả? Vợ tôi khi xưa tuy ốm đau nằm liệt giường nhưng chưa hành hạ tôi tàn khốc như bà nhé.

 

Bà Phượng giảm tốc độ nức nở, không dám trách ông Năng, dù sao ông cũng đã chăm sóc bà cả tháng nay và còn tiếp tục sau mấy lần tái khám nữa. Bà vẫn cần ông, đang chiêu dụ ông một ngày nào đó sẽ cảm thông và giúp đỡ bà trả tiền nhà. Bà dịu giọng nói như an ủi ông:

 

– Tôi bệnh rồi sẽ khỏi mà. Chỉ còn một tuần nữa là đủ hai tháng để tháo băng.

 

Ông Năng vẫn hậm hực:

 

–  Người già té ngã gãy xương chưa chết là may.Với lại ai dám bảo đảm là bà sẽ không xớn xác té ngã cầu thang hay trong phòng tắm lần nữa chứ? Tôi lại phải hầu…

 

– Trời ơi, ông trù ẻo tôi đấy hả? Ông biết chiều chuộng vợ lắm mà, người đàn ông mỗi tuần mang hoa đến mộ phần vợ từng làm tôi cảm động đâu rồi?

 

Ông Năng cười khan:

 

–  Ai rảnh mà mỗi tuần đi thăm mộ vợ và tốn tiền mua hoa chứ, tiền mua bó hoa tôi ăn tô phở cho sướng thân. Thoát được cảnh hầu hạ bà vợ nằm liệt giường, ai ngờ nay lại phải hầu hạ bà.

 

Bà Phượng được dịp vỡ òa những ấm ức bấy lâu:

 

– Bây giờ tôi mới hiểu vì sao ông vẫn đi cái xe cà tàng cũ rích, chắc chắn không phải vì nhớ thương hình bóng người vợ cũ, mà vì ông hà tiện, tiền bạc để dành cho nó mục nát ra à, để về bên kia thế giới tiêu xài với ma à?

 

Bà hăng máu gào thêm:

 

– Về ở với tôi cái gì ông cũng xài chung xài ké. Hôm nọ mượn tiền tôi mấy trăm đồng sửa xe còn chưa trả đấy nhé.

 

– Nợ tôi sẽ trả, hằng tháng tôi đều đưa bà mấy trăm đồng chứ có ăn nhờ ở đậu nhà bà đâu!

 

Bà Phượng cười khinh khỉnh:

 

–  Vài trăm đồng một tháng của ông chưa đủ tiền một đứa share phòng trong khi căn nhà này mỗi tháng tôi trả mortgage gần hai ngàn đồng bạc.Thế mà đăng lời rao tìm bạn vừa hoa mỹ vừa oai phong lẫm liệt nào ôm hoa đến mộ vợ, nào nhà cửa ổn định, tài chính vững vàng, tinh thần thảnh thơi, bao dung vị tha.

 

Ông Năng giải thích:

 

– Tôi đăng ôm hoa đến mộ vợ cho thơ mộng với cuộc đời, những điều còn lại tôi dí dỏm cho vui chứ không có ý lừa dối ai cả. Tôi nghèo mạt rệp, nhà cửa ổn định là ở diện housing đấy, tài chính vững vàng là tiền già lãnh hàng tháng cho đến chết đấy, có bảo hiểm sức khỏe chẳng tốn đồng nào là tinh thần thảnh thơi vô lo đấy. Ở tuổi già không phải lệ thuộc nhờ vả con cái, với tôi thế là quá sung sướng. Tôi chỉ nói lên sự thật tại bà quá giàu tưởng tượng mà thôi.

 

– Thế sao ông không nói huỵch tẹt ra cho tôi biết sớm.

 

– Tôi tưởng sẽ gặp người tình tri kỷ, ở với nhau sẽ hiểu nhau, nhưng bà chỉ dòm ngó tìm hiểu “gia tài” của tôi làm tôi càng ngại ngùng khó nói. Thôi thì tôi với bà chắp nối không có gì ràng buộc, bây giờ không hợp nhau thì chia tay.

 

Bà Phượng lại gào lên:

 

–  À, thì ra thế, đằng nào cũng rút lui nên ông không cần che đậy sự giả dối thêm nữa. Ông thách thức tôi đấy hả? Mời ông ra khỏi nhà tôi. Mời ông ra khỏi cuộc đời tôi.

 

–  Bà khỏi phải đuổi tôi cũng chạy bà luôn, tôi tưởng bà là một phụ nữ đã nếm mùi khổ đau sẽ cùng tôi tìm niềm vui cuối đời, nhưng tôi đã lầm và tiếc lắm. Bà biết tôi tiếc gì không?

 

Bà vênh mặt lên:

 

– Cuối cùng ông cũng phải tiếc tôi thôi.

 

– Tôi tiếc đã từ bỏ diện housing ổn định để dọn về đây ở với bà, trở về thành phố cũ tôi phải làm giấy tờ xin lại từ đầu mất nhiều công sức lắm. Bà rõ chưa?

 

*

 

Ông Năng trở về thành phố cũ của ông. Vài tháng sau bà Phượng đọc thấy lời rao tìm bạn bốn phương của ông lại xuất hiện trên báo, lần này ông kinh nghiệm đăng rất thực tế rõ ràng: “Người đàn ông nghèo góa bụa cô đơn luôn mơ ước có tiền để mua hoa mỗi tuần đến thăm mộ vợ, 70 tuổi, nhà ở housing, tiền già, medicare, medicaid đầy đủ. Muốn tìm một phụ nữ để tri kỷ, để yêu thương nhau suốt quãng đời còn lại”.

 

Thôi thì bà cũng cầu mong ông Năng tìm được một người tình tri kỷ, nếu không thì cũng vớ được một bà già handicap hay bà nhà quê chán con chán cháu đang ăn welfare muốn tìm chồng ra ở riêng, may ra sẽ ở với nhau lâu dài.

 

Còn bà, bà sẽ tiếp tục cho share phòng để có thêm lợi tức trả tiền nhà và yên phận sống một mình. Tìm được một tình yêu đã khó bà không mong gì tìm một lúc được cả tình lẫn tiền ở cái tuổi già này nữa.

 

– Nguyễn Thị Thanh Dương

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Hồng Linh đã về tới quê hương trong chuyến đi hoàn toàn bất ngờ. Một chương trình trao đổi kỹ thuật đặc biệt về tin học với các nước Châu Á, khi cô đang ở trong lãnh vực này. Chặng đầu tiên sẽ dừng ở miền Bắc, Việt Nam trong hai tuần lễ. Hai tuần lễ ở Hà Nội, ngoài những buổi hội thảo, Linh lang thang tìm thăm những địa danh mà mẹ cô thường nhắc. Hà Nội là nơi mẹ cô chào đời, nhưng khi mẹ mới mười tuổi thì ông bà ngoại đã phải dắt mẹ, cùng các cậu, các dì của cô vào miền Nam để lánh nạn Cộng Sản. Mới mười tuổi thôi, nhưng mẹ cô đã nhớ nhung, đã ôm ấp, đã cưu mang gìn giữ biết bao nhiêu là hình ảnh, là kỷ niệm thân thương về quê ngoại, với làng Đồng Du thuộc tỉnh Hà Nam và quê nội, với thôn Phương Viên, huyện Đan Phượng thuộc tỉnh Hà Đông.
Vừa ngồi được phút chốc thì thấy một thiếu phụ lên xe, nhìn cái bụng lum lum có bầu biết là chị ta khó nhọc lắm. Nó uể oải đứng dậy nhường chỗ cho chị ta, mặc dù nó đã đứng suốt ngày trong xưởng, hai chân mỏi muốn rũ ra. Xe buýt đầy nhóc, mọi người chen chân đứng như thế mà chị còn mang cái bầu nữa thì mệt phải biết. Nghĩ mình nhường ghế cho chị cũng là một hành vi đẹp nên dù có mệt nó vẫn thấy vui vui và thoải mái trong lòng.
Không ai (kể cả các nhà khoa học, các giáo sư Bác sĩ giỏi) có thể tiên đoán chính xác khi nào đại dịch chấm dứt? Bao giờ thì có thuốc chủng ngừa? Cũng chẳng dám kỳ vọng mọi thứ sẽ quay về như cũ, trước khi có đại dịch. Nhưng hy vọng những điều căn bản tồn tại nhiều trăm năm như bắt tay nhau, như vỗ vai nhau... sẽ trở lại sau đại dịch như "sau cơn mưa trời lại sáng". Hơn lúc nào hết, người ta cần có hy vọng để sống, để thêm nghị lực cùng nhau vượt qua đại dịch, và phân cách.
Rừng núi xanh mướt, không khí trong lành và hơi se se lạnh thấm vào từng chân lông kẽ tóc, len lỏi vào từng tế bào. Cái cảm giác khoan khoái thật dễ chịu, làm cho hai huynh đệ thọ nhận được sự bình an trong phút giây hiện tại. Cây cỏ xung quanh như tỏa ra một năng lượng tươi mát tràn đầy sức sống. Bất chợt sư huynh hỏi khẽ: - Dường như có đôi mắt nào đó đang theo dõi chúng ta? Cả hai dừng bước, nhìn quanh một tí thì phát hiện ra đằng sau bụi rậm có mẹ con nhà nai đang tròn xoe mắt nhìn, tai vểnh bắt sóng động của âm thanh, chúng có thể nghe được những âm thanh nhỏ nhất mà tai người không nghe được. Mẹ con nhà nai đang cảnh giác cao độ, toàn thân mượt mà vàng sậm điểm xuyết những đốm hoa màu trắng.
Chiều nay khi những giọt nắng đang lao xao ngoài song cửa, những tán cây thầm thì trong gió chuyện nhân gian, anh bỗng nhẹ nhàng nhớ đến em, người con gái "vội cất bước quên dấu yêu ngọt ngào" ngày ấy. Anh trầm mình trong ký ức về “từng góc phố bâng khuâng dịu êm”. Anh tình cờ biết được một bản tình ca mà tác giả của nó cảm giác rằng nó bị thất lạc khá lâu rồi như chuyện chúng mình vậy đó em: "Lời hát ấy hôm nao miên man, ru em một thời Từng ánh mắt bao dung đam mê, cho em ngọt bùi"
Sau công phu sáng, bước ra nhà bếp xé tờ lịch thì hiện ra hôm nay là ngày 6 tháng 6 năm 2020. Ngày 6 tháng 6, bỗng như que diêm nào bất ngờ bật lên trong ký ức tôi đã từ lâu lắng xuống. Tại sao hôm nay lại bật lên? Biết rằng băn khoăn cũng chẳng có câu trả lời, như mưa mới rạt rào đây mà giờ nắng đã lên rực rỡ. Muôn sự còn muôn thẳm sâu mà sự phán đoán ước lệ của suy tưởng vật lý chưa chạm tới được sự mầu nhiệm của tâm linh. Đủ duyên thì lộ, chưa đủ duyên thì ẩn. Chấp nhận vậy thôi. Ngày 6 tháng 6 năm 1944. Ngày có tên lịch sử là D-Day.
Sau hơn một tháng, các chuyên viên Public Health làm việc không ngưng nghỉ, CDC công bố 60 trang guidelines hướng dẫn chi tiết cho "đời sống cùng với COVID-19" ở các trường học, các trung tâm giữ trẻ, các nhà hàng, và các cơ sở thương mại từ lớn đến nhỏ.... Mới nhìn thoáng qua thì dễ bị...."ngộp" vì quá nhiều yêu cầu, nhưng chi tiết không có nghĩa là không thể thực hiện. Cho đến lúc nào có vaccine chủng ngừa, không còn lựa chọn nào khác. Lâu dần đời cũng quen. Một cách lạc quan, khả năng thích ứng với lối sống mới của mỗi người, thêm một lần nữa, được thử thách.
Một buổi chiều im vắng bên dòng sông Cái Lớn. Theo hướng gió mơn man trên rừng dừa nước, Tím đẩy mái chèo một cách khoan thai, nhẹ nhàng. Chiếc xuồng nhỏ rẻ nước, lặng lờ trôi ngang đồn Nghĩa Quân. Tiếng đàn và tiếng hát nghe văng vẳng xa xa. Khi xuồng đến gần, Tím thấy một người lính đang ôm “cây đàn số 8” – do trẻ em trong làng đặt tên; vì không đứa nào biết cây đàn này tên là Guitar mà chỉ thấy thùng đàn giống như số 8 – ngồi trên hầm chống pháo kích.
Xe đò vừa vào Phan Rang thì kỷ niệm cũng vừa tràn về thốc tháo trong lòng bà, như làn gió nóng của miền Trung nắng cháy đang lùa vào các khung cửa xe một cách hăm hở. Bà gỡ đôi kính mát xuống để nhìn hai bên đường cho rõ hơn. Phan Rang. Con đường Thống Nhất. Bốn mươi năm. Nhưng bà ngạc nhiên vì thấy mình không đến nỗi lạc lõng sau những năm tháng dài như thế. So với nhiều thành phố khác, Phan Rang dường như không thay đổi gì mấy. Rõ ràng là con đường cũng như mấy thập kỷ qua, không được mở rộng ra chút nào. Từng hàng cây cổ thụ dễ đến trăm năm vẫn còn lác đác chạy dài theo hè phố. Nhà cửa có lô nhô nhiều căn cao hơn trước, nhưng chưa đủ để thành phố có một khuôn mặt khác lạ đối với người lữ khách lâu ngày vừa trở lại.
Tiếng khánh réo rắt ngân dài và lan toả trong không gian như những vòng sóng tròn, càng loang xa vòng tròn càng lớn, bao trùm cả đất trời. Âm thanh bay lên tận trời xanh, xuyên thấu vào lòng đất như mũi dùi chọc thủng cả địa ngục A Tỳ. Bọn quỷ đói rùng rùng kéo về hướng phát ra tiếng khánh, chúng đông hơn quân Nguyên, hình thù quái dị, trông gớm ghiếc vô cùng. Cứ thường lệ mỗi buổi chiều, chúng ngóng đợi tiếng khánh để được ăn bữa chiều.
Cũng vì ích kỷ muốn ăn ngon, muốn ăn bổ, nên con người đã tạo cho con virus Corona có cơ hội lây từ thú sang người ở Vũ Hán và chỉ với một thời gian ngắn đại dịch đã bùng phát gần như ở tất cả các quốc gia trên thế giới, hiện nay vẫn còn tiếp diễn chưa chịu dừng lại.
Một trong những cuộc đua Marathon nổi tiếng, và lâu đời nhất thế giới dành cho người tham dự từ nghiệp dư đến chuyên nghiệp từ khắp các quốc gia là Boston Marathon bị hủy bỏ . Cuộc đua truyền thống dài hơn 26 miles (khoảng 42km) hàng năm chạy qua 8 thành phố của Massachusetts bắt đầu từ năm 1897 chỉ có 15 người tham dự, là một trong 6 cuộc đua Marathon quan trọng nhất thế giới hàng năm. Lần đầu tiên trong 124 năm, sự kiện thể thao hàng năm -có lúc quy tụ đến nửa triệu người quan sát và hơn 38 ngàn vận động viên- bị hủy bỏ trong năm 2020 vì đại dịch cúm Tàu. Ngay cả trong hai thế chiến (1914-1918 và 1939-1945), Boston Marathon vẫn được tổ chức , và là một truyền thống văn hóa cả trăm năm của Bostonians.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.