Hôm nay,  

Phượng xưa

24/05/202217:17:00(Xem: 3920)

Truyện ngắn

hoangquan

Mùa phượng vĩ – Tranh Đặng Mậu Tựu.

 

Trưa vàng, cỏ biếc, trời xanh,

Môi ai chín đỏ đầu cành phượng xưa.

(Thơ Trần Dạ Từ)

 

“Kính thưa quý khách, chúng ta sắp sửa đáp xuống phi trường Tambo. Thành phố Johannesburg chào đón quí khách với nhiệt độ 20 độ C…” Tôi choàng tỉnh, sau hơn mười tiếng đồng hồ mệt mỏi của chuyến bay xuyên lục địa. Phi cơ một lèo xuôi nam, từ Munich xuống Johannesburg, cùng kinh tuyến, bởi vậy, không chênh lệch giờ. Cất cánh tối Chủ Nhật, sáng Thứ Hai có mặt, đúng giờ cho họp hành, hội nghị. Nếu bay về hướng đông, tôi đã gần tới Bangkok, có thể cảm nhận được chút hơi hướm quê nhà Á Châu yêu dấu.

 

Nơi đây, Johannesburg của nước Nam Phi, là hai thế giới trong một thành phố. Công ty tôi có quy định rất nghiêm ngặt về chuyện đi lại trong quốc gia này. Để bảo đảm vấn đề an ninh cho nhân viên, văn phòng luôn sắp xếp người đón đưa chu đáo. Tôi đảo mắt nhìn quanh, bắt gặp một người đưa cao tờ giấy có những mẫu tự ngoằn ngoèo, trông giống tên tôi. Tôi thở phào nhẹ nhõm. Thấy tôi đến gần, người đàn ông nhoẻn miệng cười. Màu da đen sẫm làm răng anh ta như trắng hơn. Tôi liên tưởng đến quảng cáo kem đánh răng Hynos ở Việt Nam, cách đây mấy thập niên. Sau khi nhận mặt người quen, anh ta lịch sự thăm hỏi thường tình, nhanh nhẹn kéo phụ va– li cho tôi.

 

– Hi, Miss Thi. How are you? How was your flight? Chào Cô Thi. Chuyến bay của cô thoải mái chứ?

 

Tôi mỉm cười:

 

– Cám ơn anh. Cũng tạm.

 

Đó là chuyến bay đêm, a night flight. Các đồng nghiệp gọi đùa là nightmare flight. Anh ta tự giới thiệu:

 

– Tôi là Moffat. Tôi sẽ đưa cô về Radisson Blu. Cô lo thủ tục nhận phòng. Tôi sẽ trở lại một tiếng đồng hồ sau đó, đón cô đến văn phòng.

 

Tự nhiên trong đầu tôi chuyển tên Moffat thành Mô-Phật. Mô-Phật có khuôn mặt tròn tròn, hiền hậu, đôi chút dáng dấp của các chú tiểu. Nhưng nước da nặng màu bánh gai hơn màu bánh mật. Tôi luôn cố gắng sáng tác mẹo vặt “bồi dưỡng” trí nhớ ngắn hạn của mình. Phải làm như vậy, để nhớ tên, nhớ số, nhớ những chi tiết lặt vặt, mình không có cơ hội ghi chép. Lầm lẫn, hoặc quên có thể gây ra tình huống vụng về, khó xử.

 

Vừa trải qua những ngày đông đến sớm ở Munich, đôi ngày có mưa tuyết ướt lạnh, buổi sáng sương muối rét cóng, tôi thấy lòng mình rộn lên niềm vui, giữa bình minh, trong nắng sớm nhẹ nhàng của thành phố Johannesburg.

 

Tôi lịch sự hỏi thăm về những chuẩn bị của Nam Phi cho mùa giải túc cầu thế giới trong năm tới. Mô-Phật như trúng đài, kể huyên thuyên, chỉ trỏ khắp nơi:

 

– Cô xem này, đây là đường xe điện ngầm, dẫn ra phi trường, dự định sẽ xong đầu năm tới. Cô có thấy bên kia không? Một cái cầu được xây song song, mới giải quyết thỏa đáng lượng xe cộ đông đảo.

 

Tôi dạ nhịp:

 

Yes, yes, I see.

 

Tôi khơi thêm đôi ba câu hỏi để đáp lại tấm thịnh tình của Mô-Phật. Bỗng nhiên, mắt tôi như reo lên mừng rỡ, khi thấy những tàng hoa màu tím, như ngợp trời, điểm ít lá xanh, thật đẹp. Tôi vội đổi đề tài:

 

– Moffat, mấy cây hoa màu tím là hoa gì xinh quá vậy?

 

Mô-Phật vui vẻ:

 

– Jacaranda đó cô ạ. Hoa mùa hè đấy.

 

Tôi liên tưởng đến phượng hồng, hoa học trò của Việt Nam. Tai tôi nghe lan man những lời cắt nghĩa của Mô-Phật. Nhưng trí tôi lại bâng khuâng, lãng đãng đâu đâu với những câu hát… những chiếc giỏ xe chở đầy hoa phượng, em chở mùa hè của tôi đi đâu… Phải rồi! Hoa mùa hè là phượng. Hoa học trò màu tím là phượng tím. Tại sao không! Sau này, tôi mới vỡ lẽ ra rằng mình quá lạc hậu. Biết bao nhiêu người xuýt xoa gọi Jacaranda là phượng tím tự hồi nảo, hồi nao. Chứ tôi nào phải người đặt tên cho Jacaranda đâu. Xe chạy gần những hàng cây, tôi kịp thấy những lá lăn tăn giống lá hoa phượng. Qua nhiều ngõ phố, những hàng phượng tím hai bên đường như chụm đầu tình tự với nhau. Trời ơi, giá mà bây giờ có thể níu cành, ngắt vài cánh hoa, chiếc lá, thích thú mê tơi. Tôi mằn mò quanh quẩn hỏi thăm Mô-Phật, muốn được xuống xe, chụp một tấm hình đứng cạnh phượng tím. Mô-Phật lắc đầu quầy quậy:

 

– Không được đâu cô ơi. Cô nhìn thấy không? Sát sau hàng cây là những hàng rào, có ghi rõ công ty bảo vệ an ninh. Nếu cô lại gần, họ sẽ nổ súng. Hậu quả ra sao, ráng chịu.

 

Thấy tôi thất vọng, Mô-Phật an ủi:

 

– Hôm nào làm việc xong ở đây, cô thu xếp đi chơi Pretoria một chuyến. Ở đó cơ man là Jacaranda. Thể nào cô cũng toại nguyện.

 

– Ừ, đành vậy. Chắc chắn tôi sẽ tìm dịp đi Pretoria.

 

Pretoria là thủ đô hành chánh của nước Cộng Hòa Nam Phi. Pretoria nổi tiếng với những hàng cây Jacaranda, rộ nở từ tháng mười. Mùa hoa, thành phố như như khoác chiếc màu xanh tím, yêu kiều, diễm lệ. Bởi thế, Pretoria còn được gọi là Jakarandastad, thành phố Phượng Tím. Mùa Jacaranda trùng vào mùa thi vào đại học. Cho nên, ở đó, thí sinh truyền miệng nhau rằng, nếu ai được hoa Jacaranda rơi trúng đầu, có quyền nghêu ngao rằng... Hôm nay ngày thi, bao nhiêu người đi. Xe! rộn rịp. Lớp! tràn người, niềm vui vấn vương... đây bao tiếng cười đắc ý khoe rằng, “Phen này ta trượt thì ai đậu cho” ...

 

Buổi chiều ở phòng họp, sau khi trình bày cho đồng nghiệp những phương án quản lý tín dụng, lúc tôi đề nghị nghỉ giải lao, là lúc điện thoại di động của tôi reo. Đám bạn đồng nghiệp đùa, ai đó đã sắp xếp giờ giấc rồi.

 

– Thi đó hả? Nguyên đây, Nguyên Việt Nam, Nguyên Quảng Ngãi đây.

 

Tôi ngạc nhiên quá đỗi. Nghĩ thầm, trời đất, ở đâu Nguyên có số điện thoại của tôi. Tôi vui, nhưng không nén nổi tò mò:

 

– Biết rồi, nhớ ra rồi, khỏi phải kê khai lý lịch. Làm sao Nguyên có số điện thoại của Thi vậy?

 

Tiếng Nguyên cười thích thú:

 

– “Théc méc” làm chi. Thi có rảnh để nói chuyện không?

 

Tôi vội giải thích:

 

– Không rảnh. Thi đang đi làm ở Nam Phi. Nhưng nói chuyện vẫn được.

 

Nguyên hối hả:

 

– Đang ngồi chung với đám bạn bè cũ. Tụi nó chọc ghẹo Nguyên, thách Nguyên có dám gọi cho Thi hay không.

 

Xem ra cuộc điện đàm còn nhiều điều hấp dẫn, tôi đưa tay ra dấu với đồng nghiệp xin thêm vài phút. Nguyên huyên thuyên:

 

– Nhiều bài hát Nguyên thích lắm Thi ạ: Đường Xưa, Phượng Hồng… Bây giờ Thi cho phép Nguyên hát vài câu tâm đắc thôi nghen.

 

Ủa, sao mà trùng hợp dữ vầy ha. Mới sáng nay, khi say mê ngắm những hàng phượng tím của Johannesburg, trí tôi đã reo lên, nhớ đến những câu: Cánh phượng hồng ngẩn ngơ/ Mùa hè đến trường khắc nỗi nhớ trên cây/ Ai cũng hiểu chỉ một người không hiểu/ Nên có một gã khờ ngọng nghịu đứng làm thơ...

 

Nguyên ê a:

 

– Ai về sau dãy núi Kim Bôi, nhắn giùm tim tôi chưa phai nhoà...

 

Tôi phì cười, cắt ngang:

 

– Ủa, Nguyên định giới thiệu cho trung tâm ca nhạc mời Thi đóng vai sơn nữ hả?

 

Giọng Nguyên bỗng nghiêm chỉnh, đổi cách xưng hô:

 

– Mình không biết tại sao. Mình rất thích bài hát này. Mỗi khi nghe những lời ca này, mình lại nghĩ đến bạn... Mà thôi, chắc Thi đến giờ phải làm việc há? Cho mình hát một câu nữa nghe, “Hỡi người xa xăm đó, biết nhau thì xa nhau…”

 

Tôi vẫn giữ tiếng cười. Nói với Nguyên, cho tôi gởi lời thăm bạn bè, chúc tất cả vui vẻ. Tôi nhủ thầm, hên quá, mình chưa xài điện thoại có hình. Không thôi, chắc Nguyên sẽ thấy tôi bổi hổi, bồi hồi.

 

Trở về phòng họp, trí tôi lan man, không tập trung được. Cũng may, tôi đã “nhuyễn như cháo” mấy đề tài tôi trình bày, nên không lạng quạng. Sau màn thảo luận, hỏi đáp như thường lệ, tôi thở phào nhẹ nhõm, khi mọi người bảo không còn thắc mắc gì nữa.

 

– Vậy chúng ta kết thúc buổi hội thảo hôm nay nhé.

 

Yogi rủ rê:

 

– Thi đi ăn tối với tụi mình chứ?

 

Tôi thoái thác:

 

– Cám ơn Yogi. Hôm nay mình hơi mệt. Để tối mai nha.

 

Tôi chỉ muốn ăn qua loa, dành thì giờ nghỉ ngơi và cho đầu óc rong chơi. Từ vuông cửa sổ phòng khách sạn, tôi nhìn mông lung xuống thành phố bên dưới. Trong nắng chiều tà, những tàng phượng tím đẹp quyến rũ lạ lùng. Cuộc sống đôi khi có những tình cờ kỳ diệu. Bao lần đến Johannesburg, mảnh đất ở phương nam châu Phi vẫn tạo nhiều ấn tượng trong tôi. Nhưng mãi lần này, tôi mới thấy những hàng phượng tím. Những cây Jacaranda bao năm khoe sắc ở thành phố này, chứ đâu phải mới rộ nở cho tôi ngắm lần này đâu! Thật lạ, thấy phượng tím, bỗng dưng tôi lại nhớ mấy câu hát trong bài Phượng Hồng, một bài hát dường như hơi thời thượng đối với tôi. Bài hát ra đời khi tôi đã sống xa Việt Nam. Lẽ thường, với tâm hồn “cổ” của tôi, thấy phượng, tôi tất nghĩ đến Yêu người! Yêu Phượng! Yêu hoa đầu mùa, yêu mầu rực rỡ, yêu em mù loà... Vậy rồi, vài tiếng đồng hồ sau, nhận điện thoại của Nguyên, của người bạn ấu thơ, nghe nhắc đến bài hát Phượng Hồng. Cảm giác mang mang, bâng khuâng, khó tả trong hồn. Hoàng hôn ở thành phố Johannesburg của Nam Phi, lục địa xa lắc quê nhà, tôi đang chầm chậm những bước lần qua lối xưa, tìm về ký ức của mấy chục năm trước.

 

Thời mẫu giáo ở trường thầy Thống, tôi đã là học sinh chăm chỉ, khi bập bẹ đánh vần. Những năm tiểu học, tôi đều đặn hãnh diện mang những bảng danh dự đủ màu đem về nhà trình Ba Mạ. Xong lớp Năm, đám học trò tiểu học thi vào trung học. Ba Mạ cho tôi theo học luyện thi Đệ Thất ở trường thầy Khiêm. Thời ấy, đa số các học sinh lớp Năm ở Nữ Tiểu Học, Nam Tiểu Học đều “vâng lệnh song thân” đi dùi mài kinh sử ở các trung tâm luyện thi của thị xã Quảng Ngãi. Khi vào trường thầy Khiêm, con gái học chung với con trai. Nguyên là một trong những khuôn mặt nổi bật trong đám nam sinh trường thầy Khiêm. Nguyên nổi, nhờ học rất giỏi, mà phá phách cũng kinh khủng. Mấy gốc mận, gốc ổi, oằn thân vì những trò leo trèo của đám con trai. Chúng truy những trái mận chua, ổi chát. Đã đời, chúng săn đâu đó vài con sâu, cho ngo ngoe dọa, tụi con gái sợ hãi, mặt mày xanh lét. Nguyên có khi “thò què, thọt quẹt” lấy dây thun, quấn giấy tròn, bắn tụi tôi. May, các thầy giáo cấm tiệt không cho đem ná gỗ vào trường. Chớ không, những màn ẩu đả với món vũ khí này chắc hẳn khốc liệt lắm. Từ nhỏ, tôi có “tật” thích mình học giỏi và nể người học giỏi. Bởi vậy, tôi để ý đến Nguyên, luôn muốn làm sao giỏi cho bằng. Nguyên chọc phá, tôi quạu. Nhưng Nguyên học giỏi quá, làm tôi “nực” hơn. Cứ như vậy, thuở đó, hai đứa tôi “trộm nhìn nhau” ra vẻ... tình thù rực nắng. Hình như toàn bộ học sinh luyện thi ở trường thầy Khiêm đều đậu vào hai trường trung học công lập, nam sinh vào Trần Quốc Tuấn, nữ sinh vào Nữ Trung Học. Từ đó, chúng tôi... đường đời hai lối. Tôi hết xụ mặt vì bị địch thủ bắn dây thun. Tôi thôi ấm ức vì đối thủ nhanh tay hơn, tìm ra đáp số của bài toán đố hóc búa “vừa gà, vừa chó, bó lại cho tròn, đếm đủ 100 chân” hoặc phép tính động tử cùng chiều, nghịch chiều... Tôi hân hoan vào trường Nữ Trung Học, yêu kính thầy cô, mến thân bè bạn ở ngôi trường con gái gần bốn năm. Sau biến cố 1975, trường Nữ Trung Học dành cho học sinh trung học đệ nhất cấp, tên gọi trong chế độ mới là trường cấp II. Học trò trung học đệ nhị cấp, tức cấp III, chuyển sang trường Trần Quốc Tuấn, nam nữ học chung. Niên khóa 1975– 1976, tôi vào lớp 10B, trường Trần Quốc Tuấn. Học môn chính là Văn và Anh Văn. Tôi gặp lại Nguyên, học lớp 10C, ban Toán Lý. Học khác lớp, khác ban, tôi chẳng ngó ngàng đến “cố nhân”, để “kình” nhau chuyện học hành như thuở học luyện thi. Vả lại, sau biến động 1975, cuộc sống êm đềm của gia đình tôi trải qua nhiều bất trắc. Đang là một học trò chỉ một đam mê học hành, tôi có nhiều trăn trở, âu lo khác. Tôi đâm ra thờ ơ sách vở. Ba tôi đang đâu đó nơi trại cải tạo. Nhà sách của Mạ tôi đã “cống nộp”. Giờ chỉ còn quán cà phê là phương tiện sinh sống của cả gia đình. Nhà không còn người giúp việc, tôi phải đảm trách việc “chạy bàn”. Quán cà phê của nhà tôi rất đông khách, rất nhiều nam sinh Trần Quốc Tuấn. Lúc đó, tôi chỉ là con bé 15, 16 tuổi, cái tuổi với những tự ái vặt, kỳ quái. Tôi không ngại cực thân, nhưng tôi tủi phận. Vì mình phải bưng bê phục vụ cho đám bạn, mà lúc gặp trên trường, mình nghinh nghinh, làm mặt lạ. Nguyên thỉnh thoảng đến quán cà phê cùng các bạn khác. Tôi tảng lờ, như chưa gặp những trang công tử này bao giờ. Mặt mày nhăn nhó, khó thương. Có lần, một tên trong đám “cá độ”:

 

– Đứa nào chọc cho cô hàng cà phê cười, tao đãi một chầu.

 

Tôi mặc kệ, lạnh lùng dằn mấy tách cà phê xuống bàn. Tên khác lên giọng:

 

– Thi hổng nói, hổng cười. Ờ, mà sao hông cười một nụ để bán cho được hàng.

 

Tôi nín cười không được, vội tuôn ra sau nhà, bật cười rích rích. Rồi lại khoác bộ mặt lựu đạn ra đối đầu với khách hàng.

 

Hết năm lớp 10, nhà tôi bị tịch thu. Lý lịch đen ngòm. Mấy chị em tôi phải “di dân” vô Sài Gòn để có cơ hội cắp sách đến trường. Từ đó, hình ảnh Nguyên bị dồn chung với những kỷ niệm thời học luyện thi, mờ nhạt, dần trôi vào quên lãng.

 

Cách đây nhiều năm, trong lần về Việt Nam cùng đại gia đình, tôi có vài “sự kiện lịch sử” đáng nhớ. Ngày nọ, tôi “ế độ”, bạn bè tôi lặn đâu mất tiêu. Nói theo giọng nam của đứa em họ:

 

– Ủa, bữa nay chị hỏng có “mục”, có “nhọt” gì hết trơn dzẩy?

 

Chị tôi gạ, theo chị đến nhóm họp bạn của chị:

 

– Nghi học lớp chị nói, em hắn là bạn của mi!

 

Tôi lơ đễnh:

 

– Em ảnh tên gì vậy?

 

– Ô, chị quên hỏi. Để chị gọi Nghi, rủ em hắn đến chơi luôn.

 

Khi đến họp bạn, chị tôi dẫn tôi đến gặp anh Nghi. Tôi không hề nhớ chút gì về anh Nghi. Anh Nghi thân thiện:

 

– Ngồi chơi đi em. Để anh gọi Nguyên, hối nó mau mau tới đây.

 

Ồ, ồ, có phải Nguyên hồi tiểu học không hè, tôi nghĩ thầm. Anh Nghi điện thoại, nói nói, cười cười một hồi, rồi đưa điện thoại cho tôi:

 

– Nguyên muốn gặp em nè.

 

Tôi bỗng rụt rè:

 

– Dạ, Thi đây.

 

Một tràng cười khanh khách:

 

– Trời đất, sao dạ thưa lễ phép quá vậy! Biết ai đây không?

 

Nếu anh Nghi không nói là Nguyên, đành chịu, chớ biết sao nổi. Tôi làm ngon:

 

– Biết chớ, biết chớ!

 

Nguyên vội vàng:

 

– Nguyên đang trên đường đến đó. Sẽ mang cho Thi một món quà đặc biệt. Chút nữa gặp nói chuyện nhiều nghe.

 

Bạn bè chị tôi nói cười rân ran. Tôi ngồi hóng chuyện, ngọ nguậy nhìn ra cửa chờ Nguyên. Lát sau, thấy một “bác” với mái tóc muối tiêu, muối nhiều, tiêu ít, đang đi về phía bàn của tôi, tôi nhìn thoáng “bác”, rồi lại lóng ngóng dõi mắt tìm tìm Nguyên. Chợt nghe tiếng chào rất gần bên tai:

 

– Thi hả? Về Việt Nam thấy vui không?

 

Tôi ráng giấu nỗi ngạc nhiên, “ông bác” này là Nguyên đó sao. Tại Nguyên già sớm, hay tại tôi trẻ lâu. Ký ức tôi đang loay hoay tìm gạch nối giữa cậu bé láu lỉnh thuở xưa và ông bác tóc bạc bây giờ. Nguyên kéo ghế ngồi bên cạnh. Tôi đằng hắng, rồi hỏi một câu... lãng nhách:

 

– Nguyên khỏe không?

 

– Ừ, Thi thấy đó. Khỏe re như con bò kéo xe. Thi chắc vui triền miên. Thấy Thi cũng vậy, y như hồi xưa.

 

Nếu bây giờ tôi khách sáo rằng, Nguyên cũng vậy, nghe chẳng thuận tai chút nào. Tôi giơn giỡn:

 

– Mấy chục năm qua rồi, mà Nguyên nói Thi giống như hồi xưa! Bộ, hồi đó Thi đã già sẵn rồi, nên giờ không già thêm sao?

 

– Đó, đó, giống cái kiểu hỏi cắc cớ đó mà.

 

Nguyên rút trong túi áo một bao thư đưa tôi:

 

– Món quà cho Thi đây. Nguyên giữ món quà này hơn 30 năm rồi đó nghen.

 

Tôi hồi hộp quá chừng, cám ơn và xin phép khui quà. Trời ơi! Tấm hình chụp lớp học luyện thi vào trung học. Sau khi thi đậu, thầy Khiêm tổ chức cho các thí sinh đi du ngoạn ở Cấm Ông Nghè. Nguyên láu táu:

 

– Bao nhiêu năm bôn ba, có khi đầu đường xó chợ, Nguyên gởi tấm hình nhờ bà già cất chung với giấy tờ quan trọng. Cho nên tấm hình không bị thất lạc. Bao nhiêu năm, Nguyên cứ nghĩ, sẽ gặp lại Thi, để tặng Thi món quà này đó.

 

Tấm hình này tôi đã mất ngay lần bị tịch thu nhà. Tôi mân mê tấm hình đen trắng, hơi có sắc vàng vì lâu năm. Dù hình cũ, nhưng sắc nét. Tôi có thể nhận ra các bạn bè trong hình. Đám học trò tiểu học mặc đồng phục đầm trắng, đứng ngay ngắn. Con gái hàng trước, con trai hàng sau. Thầy Khiêm và một thầy giáo khác đứng hai bên. Dễ thương quá trời. Tôi mừng rỡ:

 

– Vui lắm đó Nguyên. Món quà rất, rất đặc biệt Nguyên à. Thi xin mượn đem ra tiệm chụp, rồi gởi lại Nguyên nghe.

 

Nguyên cười nhẹ:

 

– Không, đã nói là quà cho Thi mà.

 

Tôi cảm động:

 

– Vậy không biết nói chi hơn là cám ơn nhiều.

 

Sau đó, tôi còn ở Việt Nam hai tuần lễ. Nguyên chẳng liên lạc với tôi. Chỉ nghe chị tôi kể:

 

– À tình cờ hôm qua đi uống cà phê với Nghi, Nguyên có đi theo. Nó rù rì kể chuyện xưa cho chị nghe. Mà tụi bây học sau xa, chị có nhớ đứa nào là đứa nào đâu.

 

Chúng tôi về lại Đức, Nguyên thỉnh thoảng gọi điện thoại tán gẫu với chị tôi. Qua những mẩu chuyện đó đây, tôi biết thêm chút chút về Nguyên. Nguyên lưu lạc vào Sài Gòn. Hòn ngọc viễn đông của cuối thập niên 70, rơi vào tận cùng của nghèo khổ, nhọc nhằn. Nguyên có bao nhiêu nghề không tên. Hùn vốn với ông anh họ bán giày dép, mũ nón, công an đuổi chạy mấy lần, không những mất mớ hàng, mà cả đôi dép mang trong chân cũng vuột luôn. Nguyên có thời kỳ xin được chân bỏ nước đá cho mấy quán cóc cà phê trước trường Cao Đẳng Sư Phạm. Lúc đó, Nguyên biết tôi đang học ở Đại Học Sư Phạm, nhưng không có ý tìm. Nguyên kể đùa với chị tôi, tại hồi đó em lam lũ quá, nghèo quá, nên ngại, không dám tìm con Thi. Chớ khá khá một chút, cũng đứng chờ nó đi học về, để cua nó. Đó là những điều Nguyên kể cho chị tôi nghe chuyện của những năm khốn khó. Chứ khi tôi gặp lại Nguyên, Nguyên trông đà có dáng dấp của “đại gia”. Đi đâu, tiền hô hậu ủng, đường đường chủ nhân ông, oai vệ lắm. Lần khác, chị tôi nghe Nguyên kể, có lần vượt biên, ghe con của Nguyên bị lọt lại, Nguyên phải nằm “khám” hết mấy tháng. Một trong những người đi chuyến đó, được nước Đức tiếp nhận trong chương trình nhân đạo. Nguyên nói đùa với chị tôi:

 

– Phải chi em đi lọt, qua Đức, em gặp con Thi, em o nó được rồi.

 

Chị tôi cười cười:

 

– Em định tán cô nào, nhớ bỏ bớt chữ con trước tên, và đừng gọi là nó, mà gọi là cô ấy, gọi nàng... nghe cho êm tai. Với lại, con em chị, nhỏ đó “khíu chọ” ba vụ xưng hô lắm.

 

Nguyên cười khịt khịt:

 

– Dạ, em biết chứ chị. Nhưng nghĩ tới con Thi, em chỉ nhớ tới con bé tóc bum bê nhỏ xíu hồi học luyện thi à. Em nhớ tới đợt truyện của Duyên Anh, có con Thúy, thằng Vũ, thằng Khoa... Cho nên, chữ con dính như keo vô tên nó rồi. Lỡ con Thi kêu em là thằng Nguyên, em vẫn cứ thấy… tình tứ hà.

 

Chị tôi đổi giọng:

 

– Ừa, tùy ý chú mầy. Chị nói vậy cho vui, chớ chị hổng bàn ra, tán vô gì đâu nghen.

 

Phải chi, ngày xưa, thay vì giấu sách vở của tôi, Nguyên ép vài lá trứng cá trong tập tặng tôi. Phải chi, thay vì bắt con sâu dứ dứ cho tôi sợ điếng, Nguyên lấy lá dừa thắt cho tôi con châu chấu. Biết đâu, khi gặp lại, Nguyên không những tặng tôi tấm hình mấy chục học trò đứng lố nhố. Mà còn tặng thêm tấm hình, chỉ mỗi một cô bé mặc áo dài trắng, tóc ngang vai, ôm cặp đứng trước cổng trường Nữ Trung Học. Biết đâu, mặt sau tấm hình nghiêng nghiêng nét chữ nắn nót của tôi:

 

Trưa vàng, cỏ biếc, trời xanh,

Môi ai chín đỏ đầu cành phượng xưa.

 

-- Hoàng Quân

 

Lời nhạc từ những nhạc phẩm:

 

* Phượng Hồng của nhạc sĩ Vũ Hoàng, Thơ Đỗ Trung Quân

* Mùa Thi của nhạc sĩ Đỗ Kim Bảng

* Nụ Cười Sơn Cước của nhạc sĩ Tô Hải

* Tiếc Một Người của nhạc sĩ Thanh Bình

* Phượng Yêu của nhạc sĩ Phạm Duy

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Ba tôi là một sĩ quan truyền tin của quân đội VNCH. Gia đình tôi sống trong Bộ Tổng Tham Mưu, gần sát phi trường Tân Sơn Nhất. Vì sống trong trung tâm của Bộ Tổng Tham mưu nên ba tôi nói rất nguy hiểm và ba đã xây một cái hầm cho mẹ con tôi trốn đạn. Mẹ nói ba làm rất cực để giữ an toàn cho gia đình. Ba vì công việc nên đi hoài, mẹ ở nhà mỗi khi nghe đạn pháo nổ dắt chúng tôi chạy xuống hầm trốn đạn. Và ngày ấy đạn pháo bay như mưa, tôi còn nhớ cứ lâu lâu nghe tiếng súng bắn và nghe người ta la "chết rồi, máy bay cháy", hoặc "chết rồi, nổ rồi, cháy ..cháy" và trên radio thì cứ nghe bài hát "một cánh tay đưa lên, hàng ngàn cánh tay đưa lên quyết đấu tranh…. ".
Bài viết “Đánh Trận Là Một Nghệ Thuật” đã được đăng trên “The Journal of Military History” số 68 vào năm 2004. Đây là một quyển báo rất có uy tín của quân đội Hoa Kỳ từ năm 1937, chuyên đăng những bài nghiên cứu có giá trị về lịch sử quân đội của mọi nơi trên thế giới. Dù đã ra đời mười sáu năm, bài viết này có một giá trị lịch sử đặc biệt vì người viết đã tham khảo rất công phu nhiều tài liệu của cả Việt Nam Cộng Hòa, Hoa Kỳ và Bắc Việt. Bài viết này đã được Cố Thiếu Tướng Lê Minh Đảo, Cựu Tư Lệnh Sư Đoàn 18 Bộ Binh Việt Nam Cộng Hòa nhận định là chính xác đến 95%.
Máu đã đổ suốt từ thời chiến tranh cho tới lúc hòa bình 45 năm nay, những giọt máu của người dân trong nước khao khát nền Tự Do Dân Chủ vẫn còn chảy trong nhà tù với những bản án khắc nghiệt dành cho họ và những người đã chết đều có thật. Rất thật.
Vào sáng ngày 1 tháng 5-1975 Trung tá bác sĩ Hoàng Như Tùng, nguyên chỉ huy trưởng Quân Y viện Phan Thanh Giản - Cần Thơ, mặc đồ dân sự, trong tư thế quân phong, đưa tay lên chào vĩnh biêt Tướng Nguyễn Khoa Nam, Tư lênh Quân Đoàn IV, Quân Khu IV, Vùng 4 Chiến Thuật, trước sự kinh ngạc của một nhóm sĩ quan cấp cao của bộ đội cộng sản vì sự dũng cảm của bác sĩ Trung Tá Hoàng Như Tùng. Một sĩ quan của bộ đội cộng sản mang quân hàm thiếu tá tiến đến và yêu cầu bác sĩ Hoàng Như Tùng nhận diện Tướng Nguyễn Khoa Nam.
Dù tôi đã sống trên đất Mỹ nhiều năm rồi, nhưng thỉnh thoảng, trong giấc ngủ hằng đêm, tôi vẫn gặp ác mộng về những lần trốn chạy kinh hoàng của một người bị săn đuổi. Choàng tỉnh dậy giữa đêm, tôi nhớ lại rất rõ nét những giấc mơ vừa trải qua, mồ hôi toát ra như tắm vì tôi như vẫn còn nghe văn vẳng đâu đây tiếng kẻng báo thức rõ mồn một, tiếng kẻng của các trại giam cộng sản Việt Nam được làm bằng những cái niềng (rim) xe hơi và dùng 1 thanh sắt gõ vào tạo thành 1 âm thanh vang rất xa. Ai từng ở tù hay bị đày ra những trại cưỡng bức lao động, hoặc trại tập trung cải tạo của cộng sản Việt Nam thì không bao giờ quên được tiếng kẻng này.
46 năm sau biến cố cưỡng chiếm Hoàng Sa 1974, và 32 năm sau vụ thảm sát Gạc Ma nơi quần đảo Trường Sa 1988, cả hai đều do bàn tay vấy máu của Trung Cộng. Không chỉ bằng vũ lực, Bắc Kinh nay còn viện dẫn Công hàm 1958 của Phạm Văn Đồng ký như bằng chứng pháp lý gây khó khăn cho Việt Nam trong tranh chấp chủ quyền hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa
Kim lái chiếc xe Honda đi biếu cái bánh chưng cuối cùng vào lúc 7 giờ sáng ngày 30 Tết năm 1975. Tuy có bao nhiêu lần thức khuya học bài, nhưng đây là lần đầu tiên Kim thức trắng đến sáng, cái đầu nhức như búa bỗ, óc trống rỗng, người lâng lâng như muốn bay lên mây...
Mở đầu nhật ký tuần này xin được góp phần tưởng nhớ các nhân viên y tế, đặc biệt là các y tá (những thành viên trong đội ngũ thiên thần áo trắng ở tuyến đầu chống dịch bệnh Vũ Hán) ở khắp nơi trên thế giới đã "sinh nghề tử nghiệp". Tính đến đầu tháng 4 năm 2020, đã có hơn 100 "thiên thần áo trắng" qua đời vì bị lây nhiễm Coronavirus từ bệnh nhân, hơn một nửa là nhân viên y tế ở Ý.
Những dòng ký sự và nhận định sau đây, tường thuật lại những biến cố xảy ra tại Trường Y Sàigòn từ năm 1967-1971 và sau đó...do sự can thiệp của phái bộ Hội Đoàn Bác sĩ Mỹ -American Medical Association tại Saigòn (AMA-SAIGON) vào nội bộ Trường Y Saigon. Những sử liệu của bài nhận định này đều dựa trên những điều tường thuật của quyển sách thời danh SAIGON MEDICAL SCHOOL do 3 người viết: CH William Ruhe MD, Norman Hoover MD và Ira Singer PhD, tất cả ba vị này đều là nhũng người lãnh đạo và cố vấn cho cuộc can thiệp của phái bộ AMA vàoTrường Y Saigon từ năm 1967. Tập sách SAIGON MEDICAL SCHOOL do chính cơ quan AMA, xuất bản tại Mỹ năm 1988.
Dạo đó, đầu thập niên 70, dưới giàn hoa giấy, trong khoảng sân nhỏ nhà chúng tôi, thỉnh thoảng có những người lính thuộc mọi binh chủng của Quân lực VNCH. Họ ngồi hút thuốc, hay tay đàn miệng hát vì trong cư xá Đoàn Văn Cự ở Biên Hòa có khá nhiều chị đang học lớp 12 rất đẹp. Nhà chúng tôi ở đầu cư xá nên các chị thường phải đi ngang nhà chúng tôi trước khi về nhà mình.
Mẹ tôi bán thuốc tây để dành được một ít tiền cho chị em tôi đi vượt biên. Chuyến đầu mẹ cho ba chị em tôi đi nhưng bị đổ bể, đợt hai mẹ cho chị tôi đi với gia đình dì, và được Cap Anamur Đức vớt, đưa đến Đức vào năm 80. Một năm sau mẹ gửi hai anh em tôi cho cô chủ tàu ở Cần Thơ và chúng tôi được đưa lên tàu đánh cá nhỏ có 89 người.Thuyền rời bến, ngày đầu chúng tôi được phát nước uống, qua ngày thứ hai thì không còn giọt nước nào. Lúc đó vào tháng năm, nắng nóng, thuyền lại không có mui che nên ai cũng mệt lả, thuyền đông người lại quá chật hẹp không cựa quậy gì được, tôi chỉ cần nhút nhích một chút là bị người ta nhéo. Lúc đó tôi chỉ thấy chung quanh là biển rộng mênh mông, tôi nhớ nhà và cầu mong sao cho bị bắt để được về nhà lại.Trên thuyền bắt đầu có một chị bị sảng vì thiếu nước uống, rồi thì không biết ai đó lấy lon Guigoz truyền nước uống cho nhau nhưng ai hớp vô rồi cũng phun ra vì đó là nước biển, mặn quá, tôi cũng không ngoại lệ.
Trời Chicago cuối tháng Tư vẫn còn lạnh. Tuy thế anh em đi dự buổi họp điều-trị-tâp-thể đông hơn thường lệ. Nhiều anh em sĩ quan ở các nhóm khác, không phải họp hôm nay, họ cũng đến. Phòng họp dành cho buổi điều-trị-tập-thể của các anh em sĩ quan H.O. tại Asian Human Services -Chicago rộng rãi và tươm tất, được trang hoàng trang nhã với những bức tranh ấn tượng của Claude Monet, màu sắc hàì hòa gợi nhớ về một thuở thanh bình.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.