Hôm nay,  

YÊU

21/06/202221:24:00(Xem: 3426)

Truyện ngắn

sad woman

Tất cả bọn họ đã bỏ về cả rồi. Phòng khách trống vắng, những điếu thuốc lạnh tanh, chén đĩa bẩn thỉu, những cái gạt tàn đầy ắp, tất cả khiến tôi buồn nôn...

 

Ủa, cái gì vậy, Marie đã bỏ quên chiếc khăn quàng đỏ thật đẹp của cô nàng kìa.

 

Một buổi tối thật vui! Mọi người đã đến đông đủ. Nhưng không thấy chàng đâu cả. Tôi đã mong mỏi, hy vọng biết bao rằng chàng sẽ đến. Tôi đã phải hầu hạ mọi người, rồi nói, rồi cười. Nhưng tôi, tôi chỉ muốn có một điều, đó là nhìn thấy mái tóc đen rối bời và tia nhìn chế giễu của chàng. Tôi tưởng tượng hình ảnh của chàng đứng tựa vào khung cửa và nói:

 

– Hình như ta quen nhau phải không?

 

Không, tôi và chàng không quen biết nhau, không, tôi không hề biết chàng, tôi không bao giờ biết chàng sẽ làm gì, sẽ nói những gì, tôi luôn hồi hộp, chờ đợi, mong muốn.

 

Những lúc chàng ở bên tôi, tôi nhảy từ ngôi sao này sang ngôi sao khác, tôi lắc lư, đong đưa trên ông trăng, tôi lượn quanh dải Ngân Hà, và từ nơi tận cùng của tâm hồn mình, cuối cùng tôi biết vì sao tôi được sinh ra. Chỉ vì như vậy thôi, để tôi mất hút trong mớ tóc của chàng, để lấy ngón tay vẽ lên mi mắt của chàng, để được chàng hôn.

 

Khi chàng không có đây, trái tim tôi tan nát, tư tưởng của tôi phủ một màu đen tối, tôi hụt hẫng vì vắng đôi tay chàng, không có bất cứ điều gì làm cho tôi nguôi ngoai sự thiếu vắng đó, trái tim tôi thổn thức đau buồn, toàn thân tôi tan biến, tôi không còn niềm vui nào nữa. Tại sao chàng không đến? Chàng biết tôi trông đợi chàng mà; lần sau cùng gặp nhau, tôi không muốn năn nỉ, nên chỉ nói:

 

– Anh sẽ ghé chứ?

 

Ôi, tại sao tôi dùng cái động từ ngu xuẩn thế nhỉ – "ghé qua " – Tôi đã tổ chức buổi tiệc này là cho chàng, để giới thiệu chàng với tất cả bạn bè của tôi! Chúng tôi đã đi lại với nhau trong suốt sáu tháng trời mà chưa ai biết mặt chàng cả!

 

Tôi muốn chàng lẫn vào thế giới của tôi, tôi muốn mọi người nhìn thấy chàng và tôi tay trong tay, tôi muốn dùng chữ "Chúng Tôi", tôi muốn vặn cổ sự cô đơn của tôi, vào ngày trong đại ấy, vào buổi tối quan trọng ấy, để mình không còn là con số lẻ nữa.

 

Hỏng bét! Suốt buổi tối hôm đó tôi có cảm tưởng như mình là con số 1 To Tướng – cô đơn, lẻ loi.

Ôi, tôi nghĩ mình là gì vậy?

 

Chàng chưa bao giờ nói tiếng yêu với tôi. Chưa bao giờ hứa hẹn tôi bất cứ điều gì. Không. Chàng nhận tôi vì tôi đã dâng cho chàng, bởi vì tôi muốn sở hữu lấy chàng trên tất cả mọi thứ, tôi cần phải biết từng hạt phân tử của làn da chàng, hơi thở của chàng, mùi hương của chàng, bởi vì với tôi, dâng cho chàng có nghĩa là chiếm lấy, chiếm lấy chàng, giữ lấy chàng trong hàng nghìn giây, một buổi yến tiếc thật sự, một sự tràn ngập về giác quan và tâm hồn, say mê, sở hữu.

 

Còn chàng thì chưa bao giờ nói điều gì, chàng chỉ thích lặng lẽ, chàng thể hiện lời nói bằng thân thể, đôi tay, đôi môi chàng. Rồi khi chàng ra đi tôi chỉ còn sự im lặng ở lại với tôi. Không có cả một cuộc gọi, không có một dấu hiệu nào, một sự lãnh đạm thật tệ hại, một bậc thầy về sự xa cách, ôi cả một nghệ thuật của sự thiếu vắng!

 

Tất cả những cảm xúc đó thật tôi không thể nào chịu đựng nổi, quá sức to lớn, chúng mang tôi đi xa quá, vì sau đó tôi không thể nào trở lại như trước được nữa, tôi không biết phải hiện hữu như thế nào, tôi không biết phải có cử chỉ động tác nào nữa, không biết chữ nào nữa, và tất cả mọi thứ khác đều như những hải đảo thật xa xôi.

 

Tiếng chuông ngoài cửa vang lên. A, đúng rồi, Marie, và khăn quàng của cô ta.

 

Mái tóc đen rối bời, tia nhìn chế giễu, đứng tựa vào khung cửa.

 

Trên nền trời màu xanh sẫm như biển, chị Hằng tròn vo, sáng chói, đang nháy mắt nhìn tôi.

 

– Constance Delange

(tháilan dịch)

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Một thời gian ngắn sau Hiệp Định Genève tháng 7, 1954, gia đình chúng tôi rời Phủ Cam dọn vào ở trong khuôn viên trường Đồng Khánh. Măng chúng tôi dạy môn Nữ Công Gia Chánh, và có lẽ vì là một quả phụ với 6 con, nên được Bà Hiệu Trưởng Nguyễn Đình Chi, ưu ái giúp đỡ cho gia đình được sống trong 2 căn phòng trên lầu Ba (bên phải, nếu từ cổng trước nhìn vào). Cùng ở trên lầu Ba sát cạnh gia đình chúng tôi là gia đình của bà quả phụ Trần Thi, mà chúng tôi thường kêu là Dì Hoàn vì Dì là bạn của Măng tôi từ khi 2 người học chung với nhau tại trường Đồng Khánh trong thập niên 30. Gia đình Dì cũng đông không kém gia đình tôi – 7 người. Dì ít cười và có vẻ nghiêm khắc. Các nữ sinh nghỉ trưa tại trường rất sợ gặp “Bà Thi”, dễ bị Bà la rầy hay cho “kỷ luật”, nhất khi bị bắt gặp đi lang thang trong hành lang thay vì phải ở trong phòng học.
Hạo chỉ có cậu Tân là người cậu duy nhất. Mẹ Hạo là chị cả trong gia đình có bốn người con. Mẹ, dì Hiên, cậu Tân và dì út Hậu. Cậu Tân vốn là một nông dân chính hiệu. Hình như cậu học mới qua bậc tiểu học là cậu bỏ cây bút để cầm cái cày, cái cuốc. Đến năm cậu trên bốn mươi, cậu đã có bảy người con, bốn trai, ba gái. Có lẽ cậu thấy cuộc sống làm một người nông dân quá cực hay sao mà cậu nhảy ra tham gia chánh quyền. Cậu được bầu làm xã trưởng...
Những chuyến xe ngập ngừng, chậm chạp lăn trên con đường gập ghềnh để chuyên chở đoàn người đi thăm cha, anh, em, con, chồng ở khắp nơi trong những trại tù, nơi mà lớp người mới gọi là "Trại Học Tập Cải Tạo" nghe ngược ngạo, chua chát nhiều đắng cay. Từ Quốc Lộ 1, phải đi khoảng chừng 2 cây số, trên một con đường mòn, xuyên qua rừng cây gỗ quý cẩm lai là đến trại tù cải tạo Hàm Tân...
Cuộc hôn nhân ngắn ngủi vài năm của Bình với người vợ cũ tan vỡ. Mộng Điệp là người phụ nữ vật chất, đứng núi này trông núi nọ, tính nết đanh đá chua ngoa luôn có những lời nặng nhẹ chê bai chồng không biết kiếm tiền giỏi như người ta...
Chuỗi dài thời gian của quá khứ ta còn giữ được. Giữ được mãi mãi cho đến khi trí đã mòn sức đã kiệt. Giây phút hiện tại coi như chẳng có gì. Nó vuột khỏi tay ta từng sát na rồi cũng tan biến vào quá khứ đề xếp hàng cùng với chuỗi thời gian đã qua. Tương lai là điều chưa có, chưa đến nên ta cũng chẳng làm chủ được gì của những điều ở cõi xa thẳm diệu vợi...
Hôm đi Cần Thơ, đứa cháu gọi bằng chú kể chuyện đi Hòn Kẽm- Đá Dừng, ranh giới tự nhiên hiện nay giữa 2 huyện Quế Sơn-Hiệp Đức, một địa danh mà thời trung học và đến mãi sau này tôi vẫn nghĩ là vùng núi non hiểm trở phía thượng nguồn sông Thu Bồn, nơi được biết đến nhiều bởi trận lụt kinh hoàng ở Quảng Nam năm Giáp Thìn 1964...
Mùa hè một chín bảy hai, cha tôi tử trận ở Long Mỹ, để lại một vợ và bốn con. Mẹ lúc đó mới ba mươi sáu, tôi mười lăm và thằng Thanh vừa bảy tuổi. Sau gần ba tháng bàng hoàng, tang thương mẹ tôi trở lại với cuộc sống cơm áo đời thường với đàn con nhỏ dại...
Ngồi trên bãi biển Nha Trang khi thủy triều xuống cuốn nước xa bờ để lại vạt cát dài màu trắng mịn, và lúc nắng chiều chiếu xiên trên mặt biển gợn sóng lăn tăn, trông như dải lụa dát vàng lung linh đến tận các hải đảo xa mờ mây nước, khách nhàn du sẽ mê mẩn với sắc màu kỳ diệu của buổi chiều tà mà quên hết cảnh huyên náo chung quanh...
Buổi tối hôm ấy, Quân đến nhà Phượng chơi như thường lệ. Sau vài câu thăm hỏi tình hình bệnh của má Phượng, chàng thầm thì...
Mấy nay phân xưởng Debug của hãng máy tính nhận người vô liên tục, hàng hóa đang cần gấp. Hoài Hương lướt web và thấy hãng IMF đang cần nhiều người làm việc, có thể làm bán thời gian hoặc toàn phần...
Hoạt đạp chiếc xe đạp cà tàng đi lang thang trên khắp những con đường Sài Gòn để mua đồ phế liệu...
Tôi thuộc lứa sinh viên “tú tài Mậu Thân, cử nhân Nhâm Tý”, nhưng chỉ được vế đầu, còn đỗ cử nhân thì phải đợi đến… Giáp Dần...


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.