Hôm nay,  

Sierra

06/08/202211:32:00(Xem: 4229)

Truyện ngắn

sierra 

 

Tên của tôi là Sierra. Mẹ đặt cho tôi như vậy. Tại sao lại là Sierra?

 

Tôi chưa bao giờ gặp mẹ để trả lời câu hỏi của tôi. Bà đã bay xa với ông nha sĩ chữa răng cho bà rồi, lúc tôi mới lên bốn tuổi. Từ lúc đó, cha tôi không bao giờ vui sống, từ mười lăm năm nay, không bao giờ ông hở môi nói điều gì. Trong suốt những năm đó, với một người mẹ là những tấm bưu thiếp và người cha chỉ sử dụng âm thanh để diễn đạt tư tưởng, cuộc sống của tôi không có gì là phấn khởi. Tôi đã mồ côi cha lẫn mẹ khi họ vẫn đang còn hiện diện trên cõi đời này, và tôi cũng không biết gì về thế giới quanh tôi. Tôi cứ kéo lê cuộc sống như thế, ngày qua ngày, cô đơn, xao lãng việc học hành, không bè bạn, không tình yêu. Chỉ có cái tên của tôi cho tôi nhận thức về vũ trụ xung quanh mình.

 

Trí tưởng tượng của tôi hiện ra nào những dãy núi, với đỉnh cao cho vót trên tận mây xanh, những cảnh quan nên thơ trải màu xanh ngọc bích, nào những dòng sông róc rách trong suốt, những hình bóng sặc sỡ sắc màu, tiếng nhạc cuồng nhiệt hay du dương làm đầu óc không còn u tối... Tôi thả hồn mình phiêu lưu đến một nơi chốn xa xăm.

 

Sierra. Bao nhiêu đêm dài không ngủ, tôi tự ru mình bằng cái tên này, khi lắng nghe âm vang như một nguyện ước về một tương lai rực rỡ. Đến năm lên hai mươi tuổi, niềm nguyện ước đã giúp cho tôi còn tồn tại này đã biến thành như một món nợ mà nhân loại phải trả cho tôi , nhưng không ai cáng đáng được. Ta không thể tên là Sierra để ngồi đó nhìn cuộc đời đi qua, không cảm xúc, không rung động. Ta không thể tên Sierra. Thế nhưng đó là cuộc sống của tôi. Không có đỉnh núi cao vời sừng sững, không có sông suối long lanh róc rách, không có điều mỹ quan hay nét đẹp nào dành cho Sierra.

 

Thế rồi tôi từ bỏ tất cả, nào việc học tập không dạy dỗ tôi được điều gì, nào người Cha Thầm Lặng, và tôi ném bỏ hết tất cả những bưu thiếp của bà vợ ông nha sĩ. Tôi đã bay, rồi bay nữa, rồi ngồi trên tàu hỏa, rồi nhiều chuyến tàu hỏa nữa... Tôi thú vị nhắm mắt đưa mình lắc lư theo con tàu, tận hưởng bao nhiêu cảnh quan hùng vĩ, nào màu xanh ngọc bích, xanh mượt mà của những cánh rừng bao la, xanh nhạt của quả hạnh nhân, nào những ngọn núi chót vót như bức tranh vẽ bằng than làm thành móng sắt trên nền trời xanh thẳm. Khi lên đến độ cao vời vợi, tôi ngừng chân bên một ven hồ phủ màu xanh bạc sương giá; nơi đây tôi nghe tâm hồn mình dịu lại. Đêm đó tôi ngủ trong một nhà chứa tàu thuyền, trên mình là tấm chăn được dệt bằng tay tôi mua trên tàu hỏa. Đến sáng, một con thuyền ghé vào, không có ai trên đó ngoài người lái thuyền; ông ta đến giao giỏ cá cho khách sạn duy nhất trong vùng. Sau khi trở về, người đàn ông quàng khăn màu sặc sỡ trên vai đến ngồi xuống cạnh tôi rồi đưa cho tôi một trái bắp nướng; tôi lặng lẽ gặm bắp. Mặt trời chói chang trên đỉnh đầu đang nung đốt vầng trán tôi. Mỗi khi nhìn thấy chú chim nào là là trên mặt hồ, ông ấy lại nêu cho tôi biết tên nó bằng một giọng khàn khàn nhưng êm dịu, và tên mỗi con chim như là một món quà dâng cho tôi. Rồi khi ông ấy đứng lên, lại dang tay mời tôi leo lên thuyền, và chỉ cho tôi xem từ xa kia những hòn đảo nhô lên như những bó hoa xanh mướt khổng lồ.

 

– Pacha Mama, Pacha Mama. Ông ấy vừa lặp đi lặp lại vừa đưa tay cho tôi nắm.

 

Tôi leo lên thuyền, và sau vài tiếng nổ lạch bạch như tiếng hắt hơi ***, thuyền lướt nhẹ trên mặt hồ như khảm xà cừ. Không lâu sau chúng tôi đến một bãi biển ngập tràn cát trắng bao quanh bởi từng dãy núi đồi, rồi như để tô điểm thêm cho cảnh quang kỳ diệu này, những cành cây bạch đàn khổng lồ nhẹ đong đưa theo làn gió thoảng. Ông ấy đưa tay cho tôi và chúng tôi bước về phía những túp lều vách đất và mái bằng lau sậy. Một đàn trẻ con chạy ùa về phía chúng tôi, trong những chiếc áo ấm đủ màu và đầu đội nón rơm, chúng bao quanh tôi, tay kéo vạt áo tôi, nắm chặt lất tay tôi, vui đùa, miệng thì ríu ra ríu rít.

 

Từ đằng xa, một cô bé đang nhìn chúng tôi nhưng không đến gần. Bọn trẻ con gọi " Soria, Soria", nhưng bé vẫn bất động. Những người phụ nữ chạy đến, và ông ấy vừa nói thật nhanh vừa chỉ trỏ về phía tôi. Họ kéo tôi vào thôn làng thơm mùi lửa đốt bằng củi, mang thức ăn cho tôi và tôi được nếm chén trà có vị chát. Đôi mắt họ ánh lên niềm vui rạng rỡ. Tay họ thì múa may. Tôi trải qua một giấc ngủ thật dài, đến khi thức dậy, thấy bên cạnh mình là một tô đầy bắp ngô, và cô bé Soria không chịu nhập bọn với lũ trẻ lúc chiều đang ngồi nhìn tôi ở chân giường nệm rơm của tôi. Rồi sau đó những người đàn bà mang cho tôi một chiếc váy dài bằng vải bông màu vàng nghệ, một chiếc áo cánh màu sặc sỡ, và đôi dép tết bằng rơm.

 

Cứ thế ngày tháng lặng lẽ trôi qua, cô bé Soria vẫn lẩn quẩn bên tôi. Đám phụ nữ dạy cho tôi làm việc. Đi lấy len thô từ dê cừu, giặt rửa, nhuộm màu, rồi dệt thành cuộn. Họ dạy cho tôi cày cấy, trồng trọt, tưới bón, thu hoạch. Họ còn dạy tôi tự mình nhào bột nướng bánh, nấu rau củ tràn ngập tia nắng mặt trời, được màn đêm thấm đẫm tinh hoa tươi thắm từ lòng đất ."Pacha Mama",  Mẹ Đất . Họ cũng dạy tôi cách câu cá bằng một cây lau bén nhọn. Và họ còn dạy tôi chăm sóc cây cối, dạy thêu may, hát hò. Họ cũng dạy tôi vui cười với những chuyện không đâu, không bao giờ than vãn, khắc phục sự thiếu kiên nhẫn, chế ngự cơn nóng giận, và tất cả những điều có thể xúc phạm đến cuộc sống. Về phần tôi, tôi không hề biếu tặng gì họ ngoài con người của tôi, không phải cái tôi của ngày trước, mà con người của tôi có được ngày hôm nay hoặc đúng hơn là con người đáng lẽ đã được như thế này từ xa xưa lắm rồi. Tôi không còn mồ côi nữa, mà có chị có em, có cha mẹ, và là một người mẹ, và tôi đã tìm được chỗ đứng của mình trong vũ trụ. Còn Soria thì đã cho tôi sự trìu mến của bé, đi theo từng bước chân của tôi, tết tóc cho tôi , vuốt trán tôi với đôi bàn tay nhỏ bé rám nắng vàng rôm của nó, và thì thầm cho tôi nghe tên của tôi.

 

Về cánh đàn ông thì họ làm cho cuộc sống chúng tôi thăng hoa thêm với nghề câu của họ, họ ra đi từ sáng sớm, thăm dò lòng hồ huyền bí, cho thuyền bè lướt nhẹ trên mặt nước. Họ chỉ mang về những thứ cần thiết cho bữa ăn trong ngày, tận hưởng được phúc lợi từ dòng nước ánh bạc. Sau này tôi mới biết đến Yuma, anh ấy đã quan sát tôi từ nhiều tháng qua. Vào một đêm trăng sáng vằng vặc, anh ấy đến gần tôi. Và từ đó không bao giờ rời xa tôi nữa. Anh đã cho tôi tình yêu, sự hoà hợp, sự dâng hiến. Anh đã xây một căn nhà cho gia đình chúng tôi bằng đất nung, mái bằng lau sậy, căn nhà rộng vừa đủ cho anh ấy, tôi, và Soria. Anh ấy đã chạm khắc trên một thân cây gỗ xẻ sáu chữ, rồi đem treo lên trên cánh cửa.

 

Khi có khách đến nhà chúng tôi, họ có thể nhìn thấy hàng chữ như là một câu thần chú làm nguyện ước cho một tương lai sáng lạng: SIERRA.

 

-- Constance Delange
(TháiLan dịch)

Phụ chú:

 

Hồ Titicaca là hồ cao nhất thế giới có thể đi thuyền được, ở độ cao 3,812 m (12,507 feet) trên mực nước biển. Tọa lạc trên đỉnh Altiplano trong dãy Andes trên biên giới của Peru và Bolivia. Cư dân nơi đây sinh sống chủ yếu bằng săn bắt nghề đánh bắt cá và hái lượm. Những ngôi nhà được làm bằng cây lau sậy nổi trên mặt nước của bộ lạc Unos.

 

Tác giả đã viếng hồ Titicaca và cảm tác đoạn văn trên.

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Nếu Thanksgiving ở bên Mỹ mang màu sắc rộn rã chuẩn bị cho mùa Giáng Sinh, thì Thanksgiving bên Canada lại rơi vào Tháng Mười dịu êm, có đủ màu sắc nâu vàng đỏ của lá cây chuyển màu cuối Thu, với màu cam của những trái pumpkins cho lễ hội Halloween . Những ngày này, gia đình tôi chộn rộn với những đợt “thu hoạch” cuối cùng, chuẩn bị dọn dẹp vườn tược sạch sẽ trước khi mùa lạnh đang đến. Theo ý nghĩa nguyên thủy của Thanksgiving là Tạ Ơn đất trời cho mùa màng bội thu, thì năm nay gia đình tôi cũng xin được Tạ Ơn. Mấy cây táo và plum trúng mùa trĩu quả, hái mấy lượt vẫn không hết. Những quả plum tím căng mọng ngọt ngào, vừa đem tặng bạn bè, hàng xóm, vừa để đông lạnh ăn dần, mà vẫn còn mấy rổ tươi đầy ắp. Mùa táo, nhiều gia đình Việt Nam thích đem ngâm chua ngọt, trong khi những người bản xứ làm mứt táo, hoặc sên táo làm apple pie, một trong những món bánh khoái khẩu của nhiều người trong bàn ăn Thanksgiving bên cạnh pumpkin pie .
Nhạc sĩ Hùng Lân mất vào ngày 17/9/1986 tại Sài Gòn. Hôm nay, ngày 17/9/2025 tôi nhớ tới ông. Tính ra đã 39 năm. Ba năm trước, tại nhà thờ Phanxicô Dakao đã có một lễ giỗ 36 năm ngày mất của ông. Linh mục Đỗ Xuân Quế, chủ tế lễ giỗ, đã nói trong thánh lễ: “‘Hôm nay là lễ giỗ thứ 36 của ông Phêrô Hoàng Văn Hương tức là nhạc sĩ Hùng Lân. Ông là người đáng cho chúng ta trân trọng và quý nhớ. Vậy chúng ta hãy cùng nhau cầu nguyện cho ông được vào nước Thiên Chúa. Nếu ông đã được vào rồi thì xin nhớ đến chúng ta là những người đang tiếp tục cuộc hành trình nơi dương thế đang hướng về Nước Trời.” Sau thánh lễ là chương trình tưởng niệm trong đó có tiết mục trình diễn nhạc của Hùng Lân, cả nhạc đạo lẫn nhạc đời. Người dẫn chương trình cho tiết mục này là nhạc sĩ Cao Huy Hoàng, đến từ Phan Thiết. Ông chia sẻ: “Nếu ngày ấy, thầy Hùng Lân qua đời, Chúa hỏi ‘nén bạc của ta đâu?’, thầy có lẽ không trả lời hoặc chưa trả lời kịp thì hôm nay, chúng ta có thể nhìn lại và thấy được rằng nén bạc của thầ
« Chưa gặp em tôi đã nghĩ rằng, có người con gái đẹp như trăng… khi gặp em rõ thấy một bà chằng! » … Chằng tinh, hay chằn tinh là một loài người hay cũng coi là một loài quỷ hung ác. Tùy vào hoàn cảnh, tùy vào người ta gặp, ta đối diện. Nay thế giới có nhiều loại chằn tinh, chằn ở trong mọi lãnh vực, chính trị, văn hoá, kinh tế, giáo dục và cả trong xã hội v.v…Do đấy, ta muốn tìm hiểu nguyên do chằn ở đâu ra. Hẳn là trong văn hóa Nam Bộ Việt Nam - Ấn Độ - Khmer…? Theo tác giả Huỳnh Thanh Bình, chằn là một loại sinh vật truyền kỳ, làm hộ pháp, canh giữ chùa, tháp, chánh điện phật giáo nam truyền và chiếm vị trí quan trọng trong văn hóa và tâm linh của người Khmer nam bộ, phổ biến trong kho tàng truyện kể dân gian và tuồng tích sân khấu của đa phần người Đông Nam Á.
Cả ông ta và tôi cùng cười xòa. Ui, mình đúng là đãng trí thứ thiệt. Phần Lan đã gia nhập Eurozone từ 1999 và dùng Euro ngay từ buổi đầu như những quốc gia thành viên khác. Ngày trước, nhắc đến những thủ đô bắc Âu, người ta thường nghĩ đến Oslo giàu có của Na Uy, Copenhagen trẻ trung của Đan Mạch. Giờ đây, Helsinki dần dà từng bước góp mặt vào danh sách những thủ đô được du khách ưa chuộng. Sức thu hút của thành phố ngày càng tăng. Từ 15 năm nay, Helsinki là một trong những thành phố tân tiến nhất Âu châu.
Bà xỏ chân vào đôi dép, lê lẹp xẹp vào buồng. Bà lấy ra một bịch nhựa trong đó đựng trăm thứ lặt vặt không ra hình thù gì. Bà nhìn trước, ngó sau như người ăn trộm. Chị mua ve chai đứng ở ngoài cửa bếp. Như một việc đã quá quen thuộc, chị đón lấy cái túi, móc vào cái cân xách. Trước kia chị phân loại giấy ra giấy, nhựa ra nhựa, nay thì hai bên đã thỏa thuận với nhau là có một cái giá trung bình cho toàn thể. Bà thì nhìn đăm đăm vào mớ hàng lặt vặt ấy như nhìn một thứ gì quý giá lắm. Mà không quý sao được, vì đó là kết quả của nhiều tuần bà lượm lặt và cất giữ.
Cho tới bây giờ, thỉnh thoảng trong giấc ngủ tôi vẫn nằm mơ tới chuyện thi Tú tài và giật mình tỉnh dậy, mừng húm mà mồ hôi vẫn đổ ra. Trong lần thi Tú Tài I, tôi đã thức đêm thức hôm học đến bị yếu phổi. Chữ “Tú Tài” nặng nhọc với tôi như vậy tuy nghĩa của nó là “đẹp đẽ, có khả năng, tài giỏi”.Ông Tú Xương có lẽ cay đắng với chữ “Tú Tài” không kém gì tôi. Ông vác lều chõng đi thi tất cả 8 lần, từ khoa Bính Tuất (1886) tới khoa Bính Ngọ (1906). Ba lần đầu ông đạp vỏ chuối, tới lần thứ tư, năm Giáp Ngọ (1894), ông mới vớ được cái Tú Tài nhưng là Tú Tài đậu vớt, chữ ngày đó gọi là “Tú Tài Thiên Thủ”. Ông chết với cái danh Tú Tài, chẳng bao giờ kiếm được cái “Cử Nhân” mặc dù vẫn cặm cụi đi thi.
*SONG THAO Tôi chừ chỉ chơi thể thao trên ghế sa-lông, ngồi coi người ta chơi. Thứ tôi coi người ta chơi là hockey, tennis và đôi khi bóng tròn. Mình không còn khả năng thì coi người ta chạy nhảy cũng là một cách chơi. Cách chơi biết mình biết ta. Các ông bạn tôi cũng chơi như tôi. Có điều mỗi người chơi theo ý thích riêng của mình. Ông Hoàng Xuân Sơn, ông Luân Hoán cũng na ná như tôi. Nhưng ông Luân Hoán hơi ngả về bóng tròn. Ông Hồ Đình Nghiêm máu mê hơn. Ông sa đà vào bóng tròn. Thời gian vừa qua, ông coi giò coi cẳng các nữ nhân tranh giải bóng tròn thế giới FIFA một cách mê mệt. Ngày ngày ông bá cáo bà con trên Facebook tường tận về từng cặp chân vàng mà trắng, cô nào đá hay, cô nào chụp banh giỏi, ông rành như có họ hàng thân thiết.
Bạn có thể xem bài này như truyện ngắn. Có thể gọi là nhiều truyện ngắn trong một truyện ngắn, hay là ghép từ nhiều mẩu truyện. Bạn cũng có thể đọc như tùy bút, hay bản tin, hay là vân vân... nghĩa là bất cứ những gì có chữ, có thể đọc lên, có thể nghe được như âm thanh. Đó là những gì tự nhiên hiện lên trong trí nhớ của tôi, những gì tôi bất chợt nghe bên tai khi ngồi bên sông, ven biển, góc rừng, hay khi nửa đêm nhìn ra hàng hiên.
Chẳng hiểu vì sao, vào lúc bắt đầu cảm thấy già, tôi lại lẩm cẩm đi tìm lại định nghĩa về chữ “bạn”. Bạn tôi là ai? Tại sao tôi lại kết bạn với họ? Lúc trẻ đã từng có một thời suýt bị vợ bỏ vì “lo cho bạn nhiều hơn cho gia đình”; nhưng khi đến độ tuổi “lục thập nhi nhĩ thuận” tôi lại đâm ra làm biếng gặp hầu hết những nhóm bạn từng một thời thân thiết.
Hôm đó, cô nhất định phải giết cây dạ quỳnh. Khi đêm tối bao phủ, cô sẽ ra tay. Lấy một con dao bén để xắt cành lá nó ra từng mảnh nhỏ. Lấy chai thuốc Draino loại hủy hoại rễ cây để ngâm hết các rễ của nó. Nó phải chết một cách tiệt tích, không còn một chút cơ hội nào sống sót. Nó phải bị phơi khô trên cao vì Quỳnh đụng đất sẽ có thể mọc lại. Cô biết, giết Quỳnh là mất đi tiếng nói vo ve chị em tâm sự. Cô đơn khi có Quỳnh sẽ thay vào cô đơn không có Quỳnh. Cô sẽ bắt đầu một cô đơn khác.
Càng lớn tuổi chừng nào, thì người ta lại thường hay nhớ tới những kỷ niệm trong dĩ vãng của mình nhiều bấy nhiêu. Nhất là những người cao niên đã về hưu, không còn bị ràng buộc bởi những công việc làm thường ngày của mình như trước kia, nên có nhiều thì giờ rảnh rỗi ngồi ở nhà một mình, để hồi tưởng lại những kỷ niệm buồn vui khó quên trong cuộc đời mình, rồi để có những lúc tâm sự cho nhau nghe lại những kỷ niệm khó quên này, trong những dịp tiệc tùng họp mặt bạn bè.
Lộc đã chết! Tích ngỡ ngàng khi nghe tin đó. Chàng không tin vào tai mình. Làm sao Lộc có thể chết được? Mình mới gặp anh ấy có tuần trước thôi mà! Trông anh còn khỏe mạnh, tự tin, tràn đầy sức sống. Vậy mà bây giờ anh đã không còn nữa. Cái chết của anh có cái gì đó không thật. Và có lẽ đó là lần đầu tiên Tích đứng trước nhận thức trực tiếp và thâm sâu về tính chất phi lý của một sự kiện quá bình thường trên đất nước chiến tranh này.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.