Hôm nay,  

Edmonton có... ma

13/10/202222:06:00(Xem: 4310)
Truyện ngắn vui

IMG_3328


Sắp hết giờ làm, chị bạn làm chung nhìn tôi than thở:

 

– Cái xe của chị bị hư mang đi sửa, mấy bữa nữa mới xong!

 

– Ủa, vậy hồi chiều chị đi làm bằng gì?

 

– Thì chị đi xe bus.

 

Nghe vậy, tôi nhanh nhẩu:

 

– Để em đưa chị về, chứ mùa này tối thui, mà ban đêm nửa tiếng mới có chuyến xe bus chạy tới trạm, chờ được xe thì người đã lạnh cóng!

 

Nói xong, tôi cũng nhớ ra, nhà chị kế bên cái khu đất, nơi có một bệnh viện nhỏ đã bị bỏ hoang khá lâu, cỏ cây xung quanh úa màu, hoang lạnh, ít người dám bước qua. Chị đã từng kể về những chuyện rợn tóc gáy mà chòm xóm xung quanh kể cho nhau nghe. Có khi nửa đêm người ta thấy một căn phòng trên lầu bệnh viện sáng đèn và một bóng người bên cửa sổ lặng lẽ nhìn xuống đường phố, hoặc có người đi làm về khuya ngang qua đây đã nghe tiếng phụ nữ khóc nức nở, và có lần người ta thấy một người ngồi cả đêm trên chiếc ghế đá bên trạm xe bus trước cửa bệnh viện nhưng khi đến gần thì bóng người ấy biến mất.

 

Nhớ lại những chuyện đó, tôi cũng hơi rùng mình, nhưng đã lỡ làm… “quân tử nhất ngôn”, nói rồi không thể nuốt lời chỉ vì... sợ ma (là người ai làm thế!). Vả lại, trên xe sẽ có tôi và chị, thì có gì phải lo!

 

Mười một giờ đêm, hết giờ làm, chúng tôi pha ly White Hot Chocolate mang lên xe uống cho ấm áp. Trời tháng mười năm nay nhiều gió lạnh, từ 4 giờ chiều đã âm u xám xịt. Đường khuya vắng vẻ, khác với mùa hè, chả ai ra đường giờ này nếu không có việc. Để không khí bớt căng thẳng và ám ảnh bởi mấy chuyện “ma quái”, tôi nói chuyện về mùa Giáng Sinh sắp tới. Đến đầu đường, có một ngôi nhà thờ cổ sừng sững mấy cây cổ thụ to đen dưới bóng tháp chuông làm tôi hết hồn, cứ tưởng có ai đứng đấy… đợi chúng tôi vào giờ này. Đây là đoạn đường một chiều khá dài. Dân cư san sát nhau nhưng cửa đóng then cài im lìm, ánh đèn trước ban công mờ ảo vàng vọt, làm trời đêm thêm ảm đạm theo từng cơn gió rít.

 

Rồi cũng đến khu bệnh viện, dù tôi cố ý không nhìn, vẫn lắng nghe chị bạn nói chuyện, nhưng mắt tôi vẫn thấy bãi đất hoang ấy, ngay bên trái, sát tầm mắt. Building bệnh viện xa xa, cũ kỹ đổ nát, và những lùm cỏ dại cao ngang lưng người lay động trong bóng đêm, tạo thành những hình thù chập chờn, quái dị. Dù sao, cảnh vật hoang tàn nơi nào cũng như nhau, nhất là vào ban đêm. Chúng tôi nói chuyện, cười đùa, và chẳng có gì xảy ra khi xe chạy ngang qua bệnh viện. Vậy là “thoát” rồi, tôi thầm nghĩ khi dừng xe, thả chị bạn xuống trước cửa nhà, rồi ấn nút lock các cửa xe, chuẩn bị “an toàn trên xa lộ”.

 

Nhưng khi xe vừa lăn bánh thì tôi thấy trên màn hình xe, dấu hiệu nhắc nhở “seatbelt” đỏ đèn liên tục! Kỳ vậy cà? Thường thì cả hai người ngồi hàng trên (tài xế và ghế bên cạnh) phải cài seatbelt, nếu cả hai, hoặc một trong hai người quên cài, thì dấu hiệu ấy sẽ nhấp nháy để nhắc nhở. Giờ trên xe chỉ còn mình tôi, vẫn seatbelt từ lúc rời chỗ làm, chị bạn đã xuống xe, hay là chị ấy để quên đồ đạc trên ghế nên dấu hiệu vẫn nhắc vì tưởng còn người ngồi? Tôi quờ tay qua chiếc ghế bên cạnh, không có đồ vật nào còn sót lại, kiểm tra dây seatbelt bên đó có vướng víu, cũng không có gì, mà dấu hiệu màu đỏ ấy vẫn cứ đập vào mắt tôi, là sao?! Tôi bắt đầu đổ mồ hôi, tim đập hối hả! Có lẽ nào, khi chị bạn mở cửa xe bước xuống, đã có “ai đó” bước vào xe ngồi cạnh tôi, nên dấu hiệu seatbelt mới nhắc nhở?! Xe vẫn chạy và dấu hiệu ấy vẫn lì lợm ngoan cố, khiến tôi hoảng sợ, không dám nhìn qua chiếc ghế trống, người run lên muốn khóc. Tôi không biết phải làm gì, vì không thể dừng xe bước ra ngoài giữa đêm vắng còn nguy hiểm hơn. Tôi có nên gọi số khẩn cấp 911 cho cảnh sát hay là gọi chồng tôi đến… giải cứu?!

 

Tôi bắt đầu rối trí, lắp bắp gọi tên Chúa, Phật, Thánh Alla, và các thần linh trên cõi đời, rồi lấy hết can đảm, run rẩy quay qua thầm thì với… chiếc ghế bên cạnh:

 

– “Người ấy” ơi! Nếu “người ấy” quá giang một đoạn đường trên xe tôi để tìm chút hơi ấm trong đêm Thu giá lạnh, thì bây giờ xin người hãy xuống xe, để tôi còn về!

 

Vừa dứt lời thì đến ngã tư, có tiệm McDonalds đèn sáng thì kỳ diệu thay, dấu hiệu seatbelt cũng vụt tắt, không còn nhấp nháy nữa.

 

Về đến nhà, còn chưa hoàn hồn, tôi lật đật lên mạng tìm Google thì biết thêm thông tin về cái bệnh viện ấy. Charles Camsell Hospital, được xây dựng từ 1945 là nơi chữa bệnh lao phổi giai đoạn cuối cho những người dân da đỏ, sau đó liên tiếp là những câu chuyện tang thương lẫn huyền bí xảy ra, như có tiếng la hét vào đêm khuya, hoặc ai đó hát khe khẽ trong gió, và hiện nay bệnh viện đã bị bỏ hoang hơn 20 năm. Tôi lập tức kể cho chồng tôi nghe toàn bộ câu chuyện, anh ấy cười khẩy:

 

– Em bị thần hồn nát thần tính đó thôi, vì cái sensor của seatbelt đôi khi cũng bị hư.

 

Tôi quả quyết:

 

– Xe mình từ ngày mua đến nay cũng mấy năm, chưa bao giờ có vấn đề như hôm nay.

 

– Chưa có không có nghĩa là không có, và đêm nay xảy ra thì có gì lạ!

 

– Sao nó không hư lúc khác mà đúng lúc em đi qua bệnh viện bỏ hoang đó, và sau khi em năn nỉ “người ấy” là hết ngay tức khắc?

 

– Em mệt rồi nên đi ngủ, đừng nghĩ suy vớ vấn nữa, chả có ma cỏ gì đâu!

 

Sáng hôm sau là cuối tuần, tôi đang ở trong bếp hầm nồi bún măng vịt cho bữa trưa thì chồng tôi mở cửa bước vào, hớn hở báo tin:

 

– Đã có câu trả lời cho em rồi nhe! Anh mới mang xe đi thay nhớt, họ bảo cái sensor của seatbelt bị lỗi, nên có khi nó “sáng nắng chiều mưa”, em nghe rõ chưa?

 

Tôi nghi ngờ:

 

– Thế à? Anh có chắc không?

 

Anh ấy chợt nhìn tôi, dè dặt hỏi:

 

– Vậy em đã kịp kể chuyện “bí hiểm” này cho ai nghe chưa? Anh hy vọng là chưa!

 

Tôi thú nhận:

 

– Em vừa nói chuyện phone với chị Nở, trưởng nhóm “Loan Báo Tin Mừng” của nhà thờ, hay nói đúng hơn là chị ấy phone dặn dò em chiều nay đi đọc kinh, nên nhân tiện… vui miệng em lỡ kể cho chị ấy nghe rồi!

 

– Trời! Chị Nở là trưởng ban “Loan Báo Tin Mừng” mà anh cứ ngỡ chị là trưởng ban “Loan Báo Tin Đồn” cơ đấy, coi như cả xứ đạo biết rồi còn gì! Vậy còn bên Hội Người Việt em đang làm thiện nguyện, em đã kịp… vui miệng cho ai nghe chưa?

 

– Thì sáng nay lúc đi bộ ra hồ tập thể dục, em có gặp… bác Tám là mẹ của anh Nam, Hội trưởng Hội Người Việt, mà bác Tám cũng là phật tử siêng năng của Chùa Trúc Lâm…

 

Chưa nghe dứt câu, chồng tôi đưa hai tay lên trời:

 

– Thôi rồi! Thế thì cả thành phố Edmonton đã biết hết! Rồi họ sẽ đi loan truyền câu chuyện “Edmonton có ma” của cô Loan MC, và có người sẽ bảo em mê tín, hoang tưởng!

 

Tôi đâm ra hoang mang:

 

– Vậy những tin em đọc được trên Google về Bệnh Viện Hoang này thì sao?

 

– Bệnh viện hoang và người chết là có thật, còn những chuyện “ma” trở về đó cũng là chỉ là tin đồn, vả lại, chuyện của em là sự ngẫu nhiên tình cờ, em không nên vội vàng kết luận rồi loan tin không chính xác …

 

Tôi bỗng thấy ân hận vì cái tật nhanh nhẩu đoảng của mình, dù đã “biết bao lần tôi đã hứa, hứa cho nhiều rồi lại… quên!” Nhìn nồi bún măng tôi chẳng còn hứng thú nêm nếm vẽ vời gì nữa, thì chồng tôi, một lần nữa, sáng mắt reo lên như thuở xưa Archimedes la lên Eureka:

 

– A! Anh biết rồi! Tháng mười là tháng Halloween, coi như câu chuyện của em chỉ là chuyện… hài hước nhân mùa Lễ ma quỷ, không sợ ai hiểu lầm gì nữa.

 

Vậy mà tôi không nghĩ ra. Tôi mừng rỡ, nhìn chồng âu yếm, thầm cám ơn anh đã cứu tôi khỏi “một bàn thua trông thấy”. Tôi cũng reo lên:

 

– Để em phone cho chị Nở và bác Tám ngay bây giờ!

 

Kim Loan

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Chiếc xe đò rẽ vào ngả ba Lộ Tẻ, chạy chậm lại rồi ngừng hẳn. Trên xe một số người nhốn nháo, ló đầu ra cửa sổ xem có chuyện gì. Anh phụ xe nhảy xuống vội vàng chạy về phía trước. Đã hơn 2 giờ chiều, trong xe hầm nóng và trở nên ồn ào. Vài phút sau, anh phụ xe trở lại và báo tuyến đường về Rạch Giá đã đóng vì nước lũ về ngập một số đoạn đường dài phía trước. Tất cả bà con phải xuống xe, hoặc tìm nhà nghỉ tạm chờ nước rút, hoặc bao đò máy về Rạch Giá. Đó là một buổi chiều giữa mùa nước nổi, tôi theo dòng người bước xuống xe, trời hanh nắng và đứng gió. Đường xá, đò ghe tôi không biết rành, chắc là phải tìm nhà xin trọ, chờ nước rút.
Rứa là tui được hưởng hai cái bánh nhỏ thanh tao dòn rụm, bột họ pha răng mà mê rứa không biết, kèm mấy lát vả, lát khế, rau sống chấm nước tương pha chế ngon ơi là ngon. Tỉnh táo bao tử rồi hắn chở tui đi vòng thành phố Huế, qua khu Thương Bạc, ủa bữa ni răng mà người đông rứa, bớt vẻ yên tĩnh như ngày xưa, tiệm quán cũng mọc lên khó còn đất trống. Vừa đi hắn vừa kể nỗi gian khổ lúc trẻ, nay thì hậu vận quá tốt, con có địa vị thành công, chồng cưng yêu nhiều hơn lúc tuổi xế chiều, mà nhìn kỹ hắn tươi đẹp mặn mà ghê, chắc hạnh phúc gia đình biến sắc thêm xinh hè. Đi nửa ngày hắn thả tui về nhà” tau bận chút chuyện, sẽ gặp mi sau nữa nghe. Tui cám ơn hắn, gần 50 năm tuy xa mà hắn vẫn nhớ, vẫn đầy tình bạn thân thiết như hồi mô.
Sàigòn cũng như Phan Rang không có 4 mùa, nhất là mùa Thu. Nhưng Sàigòn cũng như Phan Rang đều có những đêm trăng Thu mờ ảo đẹp và buồn giống như mắt của em.
Cuộc điện thoại đã dứt mà Tử Linh vẫn còn đứng tần ngần một lúc rồi mới quay trở ra hiên, ngồi xuống cái ghế gỗ mà khi nãy cô đang ngồi, vừa đọc sách, vừa nhâm nhi tách trà nóng và những chiếc bánh madeleine thơm mùi vanilla trước khi tiếng chuông điện thoại từ trong phòng khách buộc cô phải chạy vào...
Ba đứa chơi thân với nhau tự thuở nào, thiên hạ ai cũng bảo ba đứa ấy như hình với bóng, họ còn kháo nhau là mật thiết hơn cả tam tinh, tam điểm, tam tụ, tam anh… Chẳng cần kết nghĩa đào viên nhưng chúng sống chết có nhau, chưa bao giờ rời nhau một li hay một khoảnh khắc nào. Thỉnh thoảng cũng có xung đột giữa ba đứa nhưng rồi cũng trôi qua êm thấm. Cả ba nương tựa nhau, hỗ trợ nhau, sinh hoạt qua lại với nhau. Thật tình mà nói thì chỉ có hai mới đúng, vì thằng Tưởng vốn là đệ tử ruột của thằng Tâm mà ra, tuy nhiên vẫn có sự khác biệt nào đó nên thiên hạ cho là ba, nói cho cùng thì là bộ bà cũng đúng hay khắt khe bảo bài trùng cũng không sai.
Lật bật đã tới tháng 9 mùa tựu trường. Lòng nao nao nhớ thời học sinh nhỏ nhít đất thần kinh xưa. Ở Huế, mùa tựu trường cũng tưng bừng rộn rịp như bất cứ nơi nào khác trên đất quê nhà. Cũng bâng khuâng luyến tiếc những ngày hè tươi đẹp chóng qua. Cũng nao nức trở lại trường lớp gặp bạn thầy cũ, mới. Có khác chăng mặt mũi mấy cô mấy cậu học trò đều phảng phất một vẻ nghiêm trọng. Làm như mình đã trưởng thành tới nơi!
Cách đây 5 năm ông bà này có cho một cậu sinh viên Việt nam trẻ tuổi, đáng tuổi con cháu xin mướn phòng ở trọ học tại nhà ông bà cho đến đầu năm tới 2025, cậu sinh viên này sẽ tốt nghiệp đại học 4 năm với văn bằng cử nhân
Cũng như các trại tỵ nạn khác, ở Thailand cũng có một khu “nhà tù” dành cho những người tỵ nạn không chấp hành quy định của Bộ Nội Vụ Thái hay của Cao Ủy tỵ nạn. Thời hạn ở tù tùy theo mức độ phạm quy, có khi từ một vài ngày cho tới một hai tuần. “Tù nhân” cũng đủ loại, nhẹ thì có những người mua lén đồ ngoài hàng rào, thức quá giờ giới nghiêm, quên làm vệ sinh khu nhà được phân công, nặng hơn là thành phần đánh lộn, gây mất trật tự trong trại, trộm cắp vặt, trốn ra ngoài trại đi chơi.
Tháng 7 năm 1954, hiệp định Genève chia đôi đất nước Việt Nam, người Pháp thất bại ở mặt trận Điện Biên Phủ, trả lại chủ quyền miền Bắc cho việt cộng. Việt Minh kéo từ mạn ngược và khắp nơi chúng đã ẩn náu về tiếp thu thủ đô Hà Nội và sau đó, toàn thể các tỉnh thành phía Bắc cho vào tới vĩ tuyến 17. Chúng ta mất một nửa giang sơn. Pháp có 80 ngày chuyển giao Hà Nội, 100 ngày giao Hải Dương, 300 ngày trả Hải Phòng, rồi chấm dứt. Việt cộng nằm vùng trong miền Nam cũng tự do ra Bắc tập kết, dù rất ít, nhưng làn sóng người miền Bắc di cư vào Nam thì đông nườm nượp… như nước vỡ bờ, họ chạy trốn, họ sợ cộng sản, họ sợ cái chế độ tam vô đang rượt đuổi sau lưng. Họ ra đi lánh nạn, đa phần phải bỏ lại gia sãn của cải, mồ mả cha ông… họ ra đi nhanh, mau lẹ nhất là các thành phố Hà Nội Hải Phòng, các xứ họ đạo công giáo Bùi Chu, Phát Diệm… có người vội vã đến chỉ ôm theo một tấm ảnh đức mẹ Maria… họ rủ nhau cứ xuống Hải Phòng là có tàu há mồm, há mồm chờ sẵn, chờ họ lên tàu và chở họ vô miền Nam.
Hà Nội có mùa Thu, Ninh Thuận quê tôi ở đó chỉ có hai mùa nắng gió. Buổi sáng mai hôm ấy mẹ tôi âu yếm nắm lấy tay tôi dẫn tôi đi qua con đường làng Xóm Động, rồi đến con đường cái quan tráng nhựa. Mẹ tôi nắm lấy tay tôi dẫn tôi đi qua cầu "Ông Cọp", rồi cầu "Nước Đá" và đến tận cửa trường tiểu học Phan Rang. Tôi cúi đầu đi qua cổng trường có tấm biển lớn có hàng chữ Tây: "Indochine Francais- École Primaire De Phanrang"...Giữa sân trường có cột cờ với lá cờ ba màu của Pháp treo tận chót vót. Trường của tôi hình như vừa quét nước vôi và có cửa kiến, tôi thoáng nghe mùi cửa sổ mới sơn.
Trước năm 1975, ngày đó tôi còn là một cậu thiếu niên ham thích đọc tiểu thuyết trinh thám mạo hiểm của Người Thứ Tám với nhiều câu truyện phiêu lưu, hồi hộp của chàng điệp viên Z-28 đào hoa, đẹp trai Tống Văn Bình. Tôi còn nhớ chàng điệp viên tài giỏi, võ nghệ siêu quần của chúng ta được phái đi thi hành một nhiệm vụ tình báo tại Maldives, một đảo quốc mà khi chúng ta nhìn về phía chân trời, nơi Trời và Biển gặp nhau, vì chính chúng ta cũng đang sống trên mặt nước...
Khoảng gần ba giờ chiều tôi rời khách sạn Ninh Kiều, cuối đường Hai Bà Trưng, nhìn ra sông Cần Thơ. Trời hanh nóng và đứng gió. Giấc ngủ trưa dài sau bữa ăn nhẹ, khiến tôi tỉnh táo và phấn chấn hẳn lên. Hãy còn sớm, hai giờ nữa tôi mới có hẹn với gia đình người bạn thân ở nhà hàng Hoa Sứ. Thời gian đủ để tôi dạo chơi và ghé chợ Cần Thơ tìm mua một vài thứ đồ lưu niệm… Vài cơn gió nhẹ mang theo hơi nước từ dòng sông thổi dọc theo công viên thật dễ chịu. Bến Ninh Kiều ngày nay thật khang trang và đẹp. Đi dọc mé sông, từ đây tôi có thể nhìn thấy chiếc cầu treo Cần Thơ sừng sững, hiện đại. Phía trước khách sạn là nhà hàng nổi và không xa là chiếc du thuyền nhà hàng lộng lẫy về đêm. Du khách vừa ăn tối vừa dạo cảnh quanh sông và có cảchương trình văn nghệ thật đặc sắc của miền Tây sông nước


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.