Hôm nay,  

Edmonton có... ma

13/10/202222:06:00(Xem: 4286)
Truyện ngắn vui

IMG_3328


Sắp hết giờ làm, chị bạn làm chung nhìn tôi than thở:

 

– Cái xe của chị bị hư mang đi sửa, mấy bữa nữa mới xong!

 

– Ủa, vậy hồi chiều chị đi làm bằng gì?

 

– Thì chị đi xe bus.

 

Nghe vậy, tôi nhanh nhẩu:

 

– Để em đưa chị về, chứ mùa này tối thui, mà ban đêm nửa tiếng mới có chuyến xe bus chạy tới trạm, chờ được xe thì người đã lạnh cóng!

 

Nói xong, tôi cũng nhớ ra, nhà chị kế bên cái khu đất, nơi có một bệnh viện nhỏ đã bị bỏ hoang khá lâu, cỏ cây xung quanh úa màu, hoang lạnh, ít người dám bước qua. Chị đã từng kể về những chuyện rợn tóc gáy mà chòm xóm xung quanh kể cho nhau nghe. Có khi nửa đêm người ta thấy một căn phòng trên lầu bệnh viện sáng đèn và một bóng người bên cửa sổ lặng lẽ nhìn xuống đường phố, hoặc có người đi làm về khuya ngang qua đây đã nghe tiếng phụ nữ khóc nức nở, và có lần người ta thấy một người ngồi cả đêm trên chiếc ghế đá bên trạm xe bus trước cửa bệnh viện nhưng khi đến gần thì bóng người ấy biến mất.

 

Nhớ lại những chuyện đó, tôi cũng hơi rùng mình, nhưng đã lỡ làm… “quân tử nhất ngôn”, nói rồi không thể nuốt lời chỉ vì... sợ ma (là người ai làm thế!). Vả lại, trên xe sẽ có tôi và chị, thì có gì phải lo!

 

Mười một giờ đêm, hết giờ làm, chúng tôi pha ly White Hot Chocolate mang lên xe uống cho ấm áp. Trời tháng mười năm nay nhiều gió lạnh, từ 4 giờ chiều đã âm u xám xịt. Đường khuya vắng vẻ, khác với mùa hè, chả ai ra đường giờ này nếu không có việc. Để không khí bớt căng thẳng và ám ảnh bởi mấy chuyện “ma quái”, tôi nói chuyện về mùa Giáng Sinh sắp tới. Đến đầu đường, có một ngôi nhà thờ cổ sừng sững mấy cây cổ thụ to đen dưới bóng tháp chuông làm tôi hết hồn, cứ tưởng có ai đứng đấy… đợi chúng tôi vào giờ này. Đây là đoạn đường một chiều khá dài. Dân cư san sát nhau nhưng cửa đóng then cài im lìm, ánh đèn trước ban công mờ ảo vàng vọt, làm trời đêm thêm ảm đạm theo từng cơn gió rít.

 

Rồi cũng đến khu bệnh viện, dù tôi cố ý không nhìn, vẫn lắng nghe chị bạn nói chuyện, nhưng mắt tôi vẫn thấy bãi đất hoang ấy, ngay bên trái, sát tầm mắt. Building bệnh viện xa xa, cũ kỹ đổ nát, và những lùm cỏ dại cao ngang lưng người lay động trong bóng đêm, tạo thành những hình thù chập chờn, quái dị. Dù sao, cảnh vật hoang tàn nơi nào cũng như nhau, nhất là vào ban đêm. Chúng tôi nói chuyện, cười đùa, và chẳng có gì xảy ra khi xe chạy ngang qua bệnh viện. Vậy là “thoát” rồi, tôi thầm nghĩ khi dừng xe, thả chị bạn xuống trước cửa nhà, rồi ấn nút lock các cửa xe, chuẩn bị “an toàn trên xa lộ”.

 

Nhưng khi xe vừa lăn bánh thì tôi thấy trên màn hình xe, dấu hiệu nhắc nhở “seatbelt” đỏ đèn liên tục! Kỳ vậy cà? Thường thì cả hai người ngồi hàng trên (tài xế và ghế bên cạnh) phải cài seatbelt, nếu cả hai, hoặc một trong hai người quên cài, thì dấu hiệu ấy sẽ nhấp nháy để nhắc nhở. Giờ trên xe chỉ còn mình tôi, vẫn seatbelt từ lúc rời chỗ làm, chị bạn đã xuống xe, hay là chị ấy để quên đồ đạc trên ghế nên dấu hiệu vẫn nhắc vì tưởng còn người ngồi? Tôi quờ tay qua chiếc ghế bên cạnh, không có đồ vật nào còn sót lại, kiểm tra dây seatbelt bên đó có vướng víu, cũng không có gì, mà dấu hiệu màu đỏ ấy vẫn cứ đập vào mắt tôi, là sao?! Tôi bắt đầu đổ mồ hôi, tim đập hối hả! Có lẽ nào, khi chị bạn mở cửa xe bước xuống, đã có “ai đó” bước vào xe ngồi cạnh tôi, nên dấu hiệu seatbelt mới nhắc nhở?! Xe vẫn chạy và dấu hiệu ấy vẫn lì lợm ngoan cố, khiến tôi hoảng sợ, không dám nhìn qua chiếc ghế trống, người run lên muốn khóc. Tôi không biết phải làm gì, vì không thể dừng xe bước ra ngoài giữa đêm vắng còn nguy hiểm hơn. Tôi có nên gọi số khẩn cấp 911 cho cảnh sát hay là gọi chồng tôi đến… giải cứu?!

 

Tôi bắt đầu rối trí, lắp bắp gọi tên Chúa, Phật, Thánh Alla, và các thần linh trên cõi đời, rồi lấy hết can đảm, run rẩy quay qua thầm thì với… chiếc ghế bên cạnh:

 

– “Người ấy” ơi! Nếu “người ấy” quá giang một đoạn đường trên xe tôi để tìm chút hơi ấm trong đêm Thu giá lạnh, thì bây giờ xin người hãy xuống xe, để tôi còn về!

 

Vừa dứt lời thì đến ngã tư, có tiệm McDonalds đèn sáng thì kỳ diệu thay, dấu hiệu seatbelt cũng vụt tắt, không còn nhấp nháy nữa.

 

Về đến nhà, còn chưa hoàn hồn, tôi lật đật lên mạng tìm Google thì biết thêm thông tin về cái bệnh viện ấy. Charles Camsell Hospital, được xây dựng từ 1945 là nơi chữa bệnh lao phổi giai đoạn cuối cho những người dân da đỏ, sau đó liên tiếp là những câu chuyện tang thương lẫn huyền bí xảy ra, như có tiếng la hét vào đêm khuya, hoặc ai đó hát khe khẽ trong gió, và hiện nay bệnh viện đã bị bỏ hoang hơn 20 năm. Tôi lập tức kể cho chồng tôi nghe toàn bộ câu chuyện, anh ấy cười khẩy:

 

– Em bị thần hồn nát thần tính đó thôi, vì cái sensor của seatbelt đôi khi cũng bị hư.

 

Tôi quả quyết:

 

– Xe mình từ ngày mua đến nay cũng mấy năm, chưa bao giờ có vấn đề như hôm nay.

 

– Chưa có không có nghĩa là không có, và đêm nay xảy ra thì có gì lạ!

 

– Sao nó không hư lúc khác mà đúng lúc em đi qua bệnh viện bỏ hoang đó, và sau khi em năn nỉ “người ấy” là hết ngay tức khắc?

 

– Em mệt rồi nên đi ngủ, đừng nghĩ suy vớ vấn nữa, chả có ma cỏ gì đâu!

 

Sáng hôm sau là cuối tuần, tôi đang ở trong bếp hầm nồi bún măng vịt cho bữa trưa thì chồng tôi mở cửa bước vào, hớn hở báo tin:

 

– Đã có câu trả lời cho em rồi nhe! Anh mới mang xe đi thay nhớt, họ bảo cái sensor của seatbelt bị lỗi, nên có khi nó “sáng nắng chiều mưa”, em nghe rõ chưa?

 

Tôi nghi ngờ:

 

– Thế à? Anh có chắc không?

 

Anh ấy chợt nhìn tôi, dè dặt hỏi:

 

– Vậy em đã kịp kể chuyện “bí hiểm” này cho ai nghe chưa? Anh hy vọng là chưa!

 

Tôi thú nhận:

 

– Em vừa nói chuyện phone với chị Nở, trưởng nhóm “Loan Báo Tin Mừng” của nhà thờ, hay nói đúng hơn là chị ấy phone dặn dò em chiều nay đi đọc kinh, nên nhân tiện… vui miệng em lỡ kể cho chị ấy nghe rồi!

 

– Trời! Chị Nở là trưởng ban “Loan Báo Tin Mừng” mà anh cứ ngỡ chị là trưởng ban “Loan Báo Tin Đồn” cơ đấy, coi như cả xứ đạo biết rồi còn gì! Vậy còn bên Hội Người Việt em đang làm thiện nguyện, em đã kịp… vui miệng cho ai nghe chưa?

 

– Thì sáng nay lúc đi bộ ra hồ tập thể dục, em có gặp… bác Tám là mẹ của anh Nam, Hội trưởng Hội Người Việt, mà bác Tám cũng là phật tử siêng năng của Chùa Trúc Lâm…

 

Chưa nghe dứt câu, chồng tôi đưa hai tay lên trời:

 

– Thôi rồi! Thế thì cả thành phố Edmonton đã biết hết! Rồi họ sẽ đi loan truyền câu chuyện “Edmonton có ma” của cô Loan MC, và có người sẽ bảo em mê tín, hoang tưởng!

 

Tôi đâm ra hoang mang:

 

– Vậy những tin em đọc được trên Google về Bệnh Viện Hoang này thì sao?

 

– Bệnh viện hoang và người chết là có thật, còn những chuyện “ma” trở về đó cũng là chỉ là tin đồn, vả lại, chuyện của em là sự ngẫu nhiên tình cờ, em không nên vội vàng kết luận rồi loan tin không chính xác …

 

Tôi bỗng thấy ân hận vì cái tật nhanh nhẩu đoảng của mình, dù đã “biết bao lần tôi đã hứa, hứa cho nhiều rồi lại… quên!” Nhìn nồi bún măng tôi chẳng còn hứng thú nêm nếm vẽ vời gì nữa, thì chồng tôi, một lần nữa, sáng mắt reo lên như thuở xưa Archimedes la lên Eureka:

 

– A! Anh biết rồi! Tháng mười là tháng Halloween, coi như câu chuyện của em chỉ là chuyện… hài hước nhân mùa Lễ ma quỷ, không sợ ai hiểu lầm gì nữa.

 

Vậy mà tôi không nghĩ ra. Tôi mừng rỡ, nhìn chồng âu yếm, thầm cám ơn anh đã cứu tôi khỏi “một bàn thua trông thấy”. Tôi cũng reo lên:

 

– Để em phone cho chị Nở và bác Tám ngay bây giờ!

 

Kim Loan

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Cậu Hà người Bắc di cư năm 1954, cậu di cư có một thân một mình khi còn trẻ, nên cậu cũng không có nhiều phương tiện được học hành nhiều. Khi lớn lên ở miền Nam, lối chừng 19, 20 tuổi khoảng năm 1965-1966, cậu từ giã học đường đăng lính, cậu đi lính Việt Nam Cộng Hòa ngành Biệt Động Quân. Sau chuyển qua Thám Báo. Cậu đóng quân như ở miền đồng ruộng, lúc bấy giờ còn loáng thoáng xa xa, ít dân cư, tiếp giáp một bên Đồng Ông Cộ, miệt Gò Vấp, Gia Định.
Chị nhớ lại, vào một buổi sáng ngày cuối tháng 1 năm 1973, khi Chị đi lấy bản tin ở bên Macv về cho AP, chị thấy sao hôm nay văn phòng đông thế. Ký giả của AP và cả của NBC News bên cạnh cũng chạy qua chạy lại, Chị nghe ông chánh văn phòng nói: Viêt Nam sắp ngưng bắn rồi, sắp hòa bình rồi…” Văn phòng Associated Press xôn xao, từ ông chánh văn phòng đến các ký giả, nhân viên của AP đều hứng khởi với cái tin “Nóng bỏng” này. Chị thấy các phóng viên của các hãng thông tấn, hãng truyền hình ngoại quốc chạy hối hả sang nhau và chạy qua cả đài phát thanh Quân Đội Việt Nam để cập nhật tin tức viết bài…
Chị đi bằng xe hàng. Là dân Đà Lạt gốc Huế nên chị gọi xe đò là “xe hàng”. Đi xe hàng, tức là xe đò, là xe chở người và cả hàng chứ không chở riêng hàng. Tiếng Việt hay như vậy đó! Đến Gò Công rồi đi xe lam vào Đồng Nguơn. Ấp Đồng Nguơn. Không phải đây là lần đầu tiên chị được thấy cảnh đồng quê. Đồng quê miền nam hầu như đâu đâu cũng giống nhau. Nhưng có đi nhiều mới thấy mỗi nơi có một chút khác. Phải thế không? Hay chính là cảm giác của chị mỗi lần một khác?
Tôi ước mơ có một ngày nào đó, khi thanh bình thật sự trở về trên nước VN, khi chính thể CS hoàn toàn tan rã, khi con người công chính trở lại làm nền tảng trong xã hội mới, chúng ta sẽ trở về, những ngưới bạn từ thời xa xưa, cùng nhau làm lại một bữa tiệc Tất Niên, mời vong linh các thầy, các bạn, các anh em đồng đội đã chết trong khói lửa chinh chiến, trong các biến cố tang thương của đất nước, trong các trại tù, trên biển…cùng nhập tiệc. Kẻ đang sống cùng người thiên cổ bên cạnh nhau hoài niệm đến một miền thùy dương ngọt ngào nhân tính, một ngôi trường thân yêu giàu truyền thống giáo dục và y đức, một thành phố mến yêu thơ mộng. Để nghe những người quá cố tâm sự về cái chết oan khiên của mình. Được như vậy, hương hồn các vị đó sẽ sớm được siêu thoát và vĩnh viễn an nghỉ chốn nghìn thu. Và chúng ta đây giảm khắc khoải đau thương…
Tôi đã có bốn cái Tết trong trại Panatnikhom và Sikiew, Thailand. Tết đầu tiên thật nhiều kỷ niệm và bất ngờ, vì lúc đó chúng tôi vừa nhập trại trong khi còn hơn một tuần nữa là Tết. Tôi và ba cô bạn đi chung chưa kịp gửi thư cho thân nhân ở nước ngoài để ca bài ca “xin tiền”. Ai lo bận bịu đón Tết thì lo, còn chúng tôi thì lo đi mượn tiền để mua vài vật dụng cần thiết như tấm trải nhựa, tre nứa, dây nilon để làm “nhà” (phải “an cư” mới “lập nghiệp” tỵ nạn được chớ).Khoảng một tuần trước Tết, có một nhóm mấy thanh niên đến thăm vì nghe nói chúng tôi là dân Gò Vấp, nên muốn nhận “đồng hương đồng khói”. Họ là những người trẻ như chúng tôi, nên câu chuyện mau chóng trở nên thân mật và rôm rả
Hỏi thăm ông Hai bán hoa lay-ơn gốc Bình Kiến, nhiều người ngơ ngác hỏi nhau. Tôi lại rảo qua thêm mấy vòng chợ hoa, cũng vừa đi tìm ông Hai, cũng vừa ngắm hoa và ngắm những chậu bonsai bày bán cuối năm, cũng tìm lại mình của gần 20 năm trước, năm nào cũng cứ vào những ngày này, tôi theo ba tôi hóng gió đón sương không hề chợp mắt cùng gian hàng cây kiểng rất bề thế của ba ở đây.
Có lẽ những rộn ràng, hân hoan nhất trong năm không phải là "ba ngày tết", mà là những ngày cận tết. Bắt đầu vào ngày 23 tháng chạp, tối đưa ông Táo về trời. Tất cả mọi sinh hoạt đều hướng về việc chuẩn bị để đón một mùa xuân mới, chào đón nguyên đán và mấy ngày xuân trước mặt. Lúc nhỏ là mùi vải thơm của bộ đồ mới, mùi gạo nếp ngâm cho nồi bánh và hương thơm ngào ngạt cho sàng phơi mứt dừa, mứt bí, mứt gừng ngoài sân. Những đêm ngủ gà ngủ gật ngồi canh bên nồi bánh tét cùng với má, với gia đình xúm quanh. Mùi bếp lửa, mùi khói hương, mùi áo mới lan tỏa của tuổi thơ ngan ngát những ngày xa...
Người ta được nuôi lớn không chỉ bằng thức ăn, mà còn ở lời ru, tiếng hát, và những câu chuyện kể. Chú bé cháu của bà thích được bà ôm vác, gối đầu lên vai bà. Có khi bà mở nhạc từ chiếc nôi cho chú nghe thay cho lời hát, chiếc nôi chú bé đã nằm khi mới lọt lòng mẹ. Có khi bà hát. Bà không ru à ơi, nhưng âm điệu dân gian len vào trong từng lời hát. Chú bé mãi rồi ghiền nghe giọng hát của bà.
Lóng rày tôi hay tẩn mẩn viết về những hồi tưởng tuổi thơ, nhất là những côn trùng ngày xa xưa đó như chuồn chuồn, bươm bướm, ve sầu, dế mèn…Nhiều lúc ngồi nghĩ lẩn thẩn: tại sao vậy? Chắc đó là tâm trạng của người tuổi sắp hết đếm số, tiếc nuối những khi còn cắp sách tới trường. Cắp sách tới trường không phải là chuyện vui nhưng tuổi học trò thì vui thật. Lúc nào, khi nào, chỗ nào cũng toàn thấy chuyện vui chơi. Bạn chơi là người nhưng nhiều lúc là những côn trùng quanh quẩn bên người. Một ông bạn mới gặp nhướng mắt hỏi tôi viết về những bạn chơi nhiều hơn hai chân nhưng chưa thấy nhắc tới bạn của ông ấy. Đó là bọ ngựa. Ông này thuộc loại rắn mắt. Tôi không chung tuổi thơ với ông nhưng chắc ông cũng thuộc loại phá làng phá xóm. Ông kể chuyện ăn me chua trước mấy ông lính thổi kèn trong hàng ngũ khiến mấy ông thợ kèn này chảy nước miếng thổi không được. Tôi thuộc loại hiền nên không có bạn không hiền như bọ ngựa. Ông ta thì khoái bọ ngựa.
“Mày có vợ hồi nào vậy?” chưa kịp chào, mẹ đã ném ra câu hỏi bất ngờ. Tôi lặng thinh. Cục nghẹn trong cổ họng. Tiếng mẹ đã khàn nhưng nghe vẫn quen, vẫn gần gũi, nhưng đặm chút ngạc nhiên và thấp thoáng chút phiền muộn. Hệt như lần hỏi tôi mười mấy năm trước rằng Sao con trốn học. Đường dây điện thoại chợt kêu ù ù, như thể có máy bay hay xe vận tải cơ giới hạng nặng chạy qua chỗ mẹ đứng. Cũng có thể tại tai tôi ù. Tôi cũng không chắc lắm. Giọng nói mẹ chìm vào khối tạp âm hỗn độn. Mẹ lặp lại câu hỏi trong tiếng động cơ rì rầm. Rồi tất cả im vắng bất ngờ. “Hở con?” Mẹ nói.
Bê, con trai của Mẹ, đã theo Mẹ đến giảng đường từ thuở còn trong bụng Mẹ. Suốt thời gian đại học của Mẹ, Bê có nhiều đóng góp khác nhau theo từng thời kỳ. Khi Mẹ làm bài kiểm tra môn Đầu Tư và Tài Chính trong lục cá nguyệt đầu tiên, Bê mới ba tháng tuổi. Mẹ nhẩm tính, bài thi một tiếng rưỡi, đi về từ nhà đến trường thêm một tiếng rưỡi. Như vậy, Bê phải xa Mẹ ít nhất ba tiếng đồng hồ. Mẹ biết tính Bê, mỗi hai tiếng đồng hồ Bê oe oe đòi bú sữa Mẹ. Bê xấu đói lắm, đòi mà không được, Bê nhăn nhó um sùm. Ngày hôm đó, dì Thành đến giữ Bê. Dì Thành rất hồi hộp. Dì chưa có em bé, chẳng biết phải làm sao cho đúng ý Bê. Mẹ thi xong, phóng ra xe về nhà. Mẹ bắt đầu sốt ruột. Mẹ xa Bê đã hơn ba tiếng đồng hồ. Giờ này Bê chắc Bê đã thức giấc. Hy vọng Bê chịu khó nhâm nhi món trà thảo dược cho trẻ sơ sinh trong khi chờ Mẹ về. Thời đó chưa có điện thoại di động. Bởi vậy, có lo cũng để bụng, chứ Mẹ chẳng biết làm sao. Mẹ ba chân bốn cẳng chạy ba tầng lầu. Vừa đến cửa đã nghe tiếng Bê khóc ngằn ngặt.
Khi chơi những bản nhạc hay, Khang khóc theo giai điệu. Mước mắt chảy, tay kéo tình xuống lên, thân hình diệu dẻo theo cảm hứng. gần như mê cuồng, không biết mình là ai. Tôi cảm nhận được cái hay xuất thần nhưng không hiểu. Khang nói: -- “Cậu Út biết không, cái hay của âm nhạc làm cho lòng sung sướng nhưng cái đẹp của âm nhạc làm cho hồn cảm động. Khi món quà quá lớn, quá sức yêu, không thể cười, chỉ có thể khóc.” Tôi nghĩ, những lúc như vậy, Khang không chơi đàn, mà múa với hồn oan.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.