Hôm nay,  

Tình yêu

25/01/202309:30:00(Xem: 3038)

Tản mạn


couple-in-love 


Mùa xuân đang trở lại, mùa xuân mang lại một thay đổi của đất trời và của cả lòng người. Khi xưa, nhà thơ Trần Tế Xương, trong dịp đầu xuân mừng năm mới, ông viết:

 

Xuân về chớ để xuân đi, thương kẻ quạt nồng cùng ấm lạnh, (viết cho bà Tú)

Tết mới khác gì tết cũ, vẫn người bán chữ với buôn văn. (Viết cho chính ông).

 

Ông Tú Xương quanh năm ngao du sơn thủy, mà khi năm cùng tháng tận, tết đến, ông còn biết trở về, nhớ và trở về với tình yêu của ông. Chúng ta cũng bắt chước nhà thơ tìm về tình yêu, cảm nhận tình yêu khi mùa xuân đến xem thử yêu đương dào dạt đến độ nào.

 

Nói bâng quơ là vậy, mà giờ đặt bút trên giấy, bản thân tôi giật mình vì với đề tài này, nó rộng rãi bao la quá, mà mình chưa biết nên bắt đầu ở chỗ nào. Hay là ta đọc thơ Xuân Diệu:

 

Một bận em ngồi xa anh quá

Bảo em ngồi xích lại gần hơn

Xích lại gần thêm một chút anh hơn

Ngoan ngoãn xích gần thêm chút nữa…

 

Anh sắp giận, em mỉm cười vội vã

Đến gần anh và mơn trớn em đây

Anh vui liền nhưng bỗng lại buồn ngay

Vì anh nghĩ thế vẫn còn xa lắm…

 

Có một lần tôi coi và nghe Ý Lan biễu diễn bài “Xa cách“ trên đây quá hay, nguời ca sĩ hát và trình bầy xúc cảm rất tuyệt vời. Bạn cứ nghe thử coi, cái “yêu“ của Xuân Diệu nó linh động và sâu lắng đến nỗi ta chỉ cần cảm mà chưa cần hiểu đã thấy đó là tình yêu.

 

Và ta hãy nghe Xuân Diệu định nghĩa tình yêu :

 

Làm sao cắt nghĩa được tình yêu

Có nghĩa gì đâu được buổi chiều

Nó chiếm hồn ta bằng nắng nhạt

Bằng mây nhè nhẹ gió hiu hiu

 

Rồi một ngày mai tôi sẽ đi,

Vì sao ai nỡ hỏi làm chi ?

Tôi khờ khạo lắm, ngu ngơ quá

Chỉ biết yêu thôi, chẳng biết gì…

 

Yêu là chết ở trong lòng một ít,

Vì mấy khi yêu mà chắc được yêu.

 

Bạn đừng tưởng Ông thi sĩ chỉ mộng mơ, vơ vẩn trên mây, ông khéo nhìn xa và sợ không được đền đáp… vì sợ xa cách mà ông tưởng tượng ra ngàn lối mở và viết ra cả một trời thơ:

 

Thơ ta hơ hớ chưa chồng

Ta yêu muốn cười mà không thì giờ

Mùa thi sắp tới em thơ

Cái hôn âu yếm xin chờ năm sau“

 

Thưa ngài thi sĩ, yêu là yêu, là vướng mắc, yêu là yêu không bờ bến rồi, là cho đi tình cảm, cho đi những xúc động nồng nàn, nào ai có thì giờ so bì phút đầu tiên ấy, là có được hay không được đền bù hay không? Lãng mạn là sóng tràn bờ và không so đo tính toán.

 

Thông thường, người ta chuộng tình yêu thuần hậu, có cho có nhận. Thế gian muốn cân bằng. Hạnh phúc là từ cảm nhận của hai bên trao qua gửi lại. Thế thôi quá đủ. Còn như có nên duyên vợ chồng hay không, là tùy thuộc ông tơ bà nguyệt nhớ hay quên buộc sợi chỉ hồng.

 

Có nên vợ nên chồng hay không, cảnh đời nhiều chuyện rắc rối phức tạp, dễ nhớ, dễ quên. Nhưng mà tình yêu đúng nghĩa và bền bỉ thì sống mãi trong tâm tưởng con người. Cho nên có người nói tình yêu sinh ra và không mất đi. Như tình yêu trong nghịch cảnh của Rodrigue và Chimelle trong kịch bản Le Cid của Corneille như tình yêu đầy phong vị hy sinh của Aung San Suu Kyi và chồng là Michael Aris. Họ đã luôn nghĩ tới nhau dù xa nhau trên 20 năm. Bà ở lại quê hương, luôn tưởng nhớ dù không gặp lại ông cho tới ngày ông mất vì bạo bệnh.

 

Tình yêu gặp thuận cảnh và bao nhiêu cụ ông cụ bà đã sum họp bên nhau tới già. Các cụ luôn luôn người nọ biết lo và nghĩ về người sống bên cạnh mình, đúng như một nhà tâm lý đã nói: “Hôn nhân là cái chăn vừa đủ để đắp chung mà một người trong hai, trước khi kéo chăn về phần mình luôn kiểm soát xem bạn mình đã đủ ấm chưa.“ Cái chăn ấm đó mới thực sự là tình yêu đôi lứa.

 

Bạn thân, mình có người bạn gái rất thân, chị mình thì đúng hơn, chị X, con nhà bác, chị học giỏi, nữ công, nữ hạnh, đoan trang gồm đủ, tên trên giấy tờ của chị là Nguyễn Thị Đoan Trang. Khoảng năm 1960, chị vừa 18 tuổi. Chị có người yêu, một anh chàng tuấn tú có chức vụ trong quân đội, anh đẹp người, tính tình ôn hòa lẫn cương nghị. Cuộc tình của chị Trang với anh đẹp như một bài thơ, không suy tính không so đo và lớn lên ở tuổi mộng mơ. Chị hồn nhiên chép cho anh bao nhiêu là trang thơ của T.T.K.H, và anh, anh cũng nhiều lần đọc cho bạn nghe những vần thơ âu yếm của Nguyên Sa.

 

Không có anh

Ai cầm tay cho đỏ má hồng em

Ai thở nhẹ cho mây vào trong tóc

Không có anh lỡ một mai em khóc

Ánh thu buồn trong mắt sẽ hao đi…

Tóc sẽ dài thêm mớ tóc buồn thơ

Không có anh thì ai ve vuốt

Không có anh lấy ai cười trong mắt

Ai ngồi nghe em nói chuyện thu phong?

 

Cứ thế tình yêu trôi qua êm như nhung đẹp như lụa mượt mà. Vậy mà rồi hoàn cảnh không cho phép đi xa hơn, cũng đành, cho là những năm 1965-1970 chiến tranh ở Việt Nam ngày càng thô bạo. Anh T đi liên miên biền biệt vào chiến trường. Chị tôi vẫn đi học, phụ gia đình bán buôn, mỗi ngày chị vẫn trông chờ những lá thư anh gửi về. May mắn cho họ là chưa có chuyện gì đáng tiếc xẩy ra do binh lửa. Anh vẫn an toàn đứng vững giữa vùng bom đạn giăng giăng như những hàng kẽm gai xô lệch ngoài chiến hào.

 

Nhưng những tin tức đưa về từ mặt trận, những điệu ca lời hát:

 

Tôi có người yêu vừa chết đêm qua, chết không hẹn hò, chết không hận thù, chết thật tình cờ, nằm chết như mơ…

 

Tất cả đấy, những bài ca, những tác động tâm lý của âm nhạc, của cuộc chiến làm người ta hoảng loạn, khi âm thầm, khi mạnh mẽ. Cho đến một ngày, bà mẹ khuyên con gái là, xưa nay chinh chiến mấy ai về, bà thương con bà nói con là hãy quên đi người lính chiến, mặc dù anh là lính đa tình, tình non sông đất nước… gì gì đó, cũng không bằng yên thân hơn là lấy một ông thầy giáo cho yên tâm bà.

 

Trước mắt là vậy, còn anh T, anh dù không về được thành phố, có lẽ anh cũng đã cảm nhận:

 

Thôi em xanh mắt bồ câu

Vàng thau sợi nhỏ xin chờ kiếp sau.

(Cung Trầm Tưởng)

 

Chị Trang cũng qua rất nhiều trằn trọc suy nghĩ khóc thầm. Cuối cùng chị đành thuận theo ý gia đình. Trời thương, chị vẫn sống ở đó với chồng, con nhưng rồi hằng đêm, đêm khuya, vừa ru con ngủ, chị vừa chú ý lắng nghe tiếng đại bác xa xa vọng về. Chị vừa âm thầm cầu nguyện bình an vô sự cho người chị đã yêu.

 

Đó chỉ là tự nhiên, vì tình yêu và tình thân ái nhân ái hòa trộn, lẫn lộn trong những tâm hồn cao thượng thích giữ kỷ niệm lâu bền.

 

Rồi, cũng có một lần chiến tranh dữ dội tràn về thành phố. Chị mang con chạy loạn. Trong lúc bối rối loạn ly trên đường bế con chạy giặc chị gặp lại người xưa. Họ cùng thoáng qua một chút ngỡ ngàng, rồi mừng rỡ, chị đỏ bừng đôi má dù trời rất lạnh. Thằng cu tí, con chị, đói, đòi sữa khóc vang. Anh lăng xăng giúp chị, đỡ giùm cái giỏ xách nặng nề, rồi mang bình sữa nóng của cu Tí chạy đi ngâm vô bồn nước lạnh cho nguội cho lẹ cho bé bú. Cu Tí càng la to, anh càng khoắng sâu cái bình sữa làm rơi đâu mất cắi nắp đậy. Hình như có vài giọt nước thấm vô núm vú bình nên sau đó con chị bị đau bụng ít ngày.

 

Sau này, nhớ đến chuyện di tản. Chị tôi vừa mỉm cười, rồi lặng người hình dung về cử chỉ lúng túng của anh T. Chị vẫn kể rằng, lúc chia tay, anh đứng yên nhìn theo mẹ con chị rất lâu.

 

Kỷ niệm khó quên và tình yêu khó phai, làm vơi đi nhiều tình huống gian nan, khốn khó trong cuộc sống. Bây giờ họ ở rất xa nhau hầu như không còn gặp lại. Chị tâm sự nhiều lần tình huống gian nan, khốn khó trong cuộc sống. Chị tâm sự nhiều lần tình yêu sinh ra thì không khi nào mất đi dù nó nhiều mơ mộng. Con người hằng ngày sống bằng thực tế ít ai sống cả bằng mơ mộng, nhưng mơ mộng và yêu đương bao giờ cũng là món trang sức diễm lệ làm dáng cho cuộc đời, vì cuộc đời ai cũng ca thán buồn nhiều hơn vui. Không có tình yêu, chúng ta nghèo nàn lắm!

 

Ngặt là thời buổi hôm nay, nhiều cuộc tình không bình thường ập đến. Những người trẻ tuổi họ đến với nhau đôi khi không vì cảm xúc, mà vì muốn có tiền, muốn thay đổi hoàn cảnh sống, muốn được ra khỏi xã hội Việt Nam. Nguyên nhân nội tại thì ai cũng thấy là đạo đức và lòng nhân ái thoái hóa. Tình yêu mất dần ý nghĩa, đó là sự mất mát đáng tiếc và uổng phí. Đó là sự mất mát đáng tiếc nhất trong những điều ta đã mất đi.

 

Thử hỏi những cô dâu Việt Nam lấy chồng Đại Hàn, Đài Loan, lấy chồng xa xứ, dị biệt tập quán ngôn ngữ, dị biệt luôn tình cảm… với tính cách mua bán thêm vào, liệu họ có được yêu thương và yêu thương cho đi đó là bao nhiêu? Tội nghiệp tuổi thanh xuân phải đánh đổi hạnh phúc cá nhân để lấy một số tiền, lấy một cuộc sống trong giai đoạn, không được đảm bảo vô lường nguy nan.

 

Người xưa vẫn nói: Con gái như hạt mưa sa/ Hạt vào đài các, hạt ra giếng sầu! Mọi tệ đoan xuống cấp, hoàn cảnh sống điêu linh tất cả đã triệt tiêu tình yêu của thế hệ trẻ. Tôi có một đứa con gái, nếu con sa vào đài các, tôi vui được một tháng, một năm. Còn ngược lại có lẽ buồn tới cuối cuộc đời. Thật ra không hẳn là tất cả. Nhưng đa số người trẻ không tìm thấy hạnh phúc ở đâu. Không biết tình yêu là thiêng liêng, là tự nhiên, là trân quý, nên họ không cần, không lưu luyến. Nhiều khi không cần để ý vì có cần cũng khó đến.

 

Một số em lập gia đình ở các xứ Đông Âu, Tây Âu, Mỹ, Pháp, Đức v.v… cầu mong cho các em có hạnh phúc trong tình yêu tự nhiên.

 

Hạnh phúc trong tình yêu tự nhiên không nghiêng ngả về sự hưởng thụ vật chất và kể cả sự thỏa mãn giới tính.

 

Một cuộc sống buông thả vô độ và đạo đức bỏ quên sẽ làm tình yêu biến chất là một sự đào thải đáng tiếc và nhiều thiệt thòi cần suy nghiệm lại.

 

Xin lỗi là tôi nói nhiều lời quá, nhưng tôi chỉ muốn lưu ý ở một điểm là khi nữ hoàng Cléopâtre muốn bảo vệ vương quốc Ai Cập của bà, bà phải kết hợp với đại đế César, còn khi muốn bảo vệ tình yêu của bà, bà đã sai cung nữ, thị nữ của bà, cùng với bà, ra sức mang được tướng Mac Antoine vào nơi trú ẩn (ngôi mộ) của bà, dù lúc đó đại tướng bị thương nặng và đi lang thang vất vưởng trên các lối đi của hoàng thành là lúc Octave đang mang đại quân đến tấn công Ai Cập với thế lực mạnh hơn vũ bão.

 

Tình yêu Cléopâtre, tình yêu tây phương nóng bỏng nồng cháy, hung hăng. Khác hẳn mối tình đông phương đằm thắm, dịu dàng tự nhiên của một Ando Chie Nhật Bản và ngài Kỳ Ngoại Hầu Cường Để Việt Nam. Ando Chie của xứ hoa anh đào lúc đầu là một cô gái làm tình báo thám báo. Nàng được lệnh theo dõi giám sát Kỳ Ngoại Hầu. Nhưng nhìn mãi nhìn hoài cái dáng dấp trang nhã và cử chỉ trang trọng từ tốn của người trước mặt, bà yêu Kỳ Ngoại Hầu từ lúc nào ngay bà cũng không biết, yêu ông như yêu một người yêu và lâu dần yêu như yêu một người chồng.

 

Còn ông, ông sống lưu vong ở Nhật Bản hàng chục năm trời, ông đợi cụ Phan Bội Châu sang, để cùng kết hợp cùng thực hiện phong trào đông du cứu nước. Đợi hoài. Lần lần bên cạnh Ando Chie, ông đã cảm động trước nghĩa cử ưu ái, sự săn sóc kín đáo dịu dàng của người con gái Nhật và có lần ông hỏi rằng: Ando, mình có phải Phật Bà Quan Âm của tôi?

 

Khi lưu vong ở Nhật, Cường Để mong được về lại Việt Nam. Khi về quê nhà, ông đã để lại một nắm tro tàn cho Ando Chie, bà nắm được một nắm, luồn vào trong tay áo Kimono trước khi trao lại tro cốt cho gia đình ông, mà bằng cảm tính bén nhạy, Ando biết là chồng mình rất vui lòng.

 

Thưa bạn, tình yêu là tự nhiên với những bản sắc tự nó có trong sự thơ mộng và thiêng liêng của bẩm sinh. Chúng ta nuối tiếc những căn bản thuần túy của tình cảm bao nhiêu, chúng ta càng tự hỏi làm sao để làm sống lại những thế hệ rất nhân bản, những thế hệ mà tình yêu là nguyên thủy, nguyên trang và nguyên diễm…

 

-- Chúc Thanh

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Vừa ngồi được phút chốc thì thấy một thiếu phụ lên xe, nhìn cái bụng lum lum có bầu biết là chị ta khó nhọc lắm. Nó uể oải đứng dậy nhường chỗ cho chị ta, mặc dù nó đã đứng suốt ngày trong xưởng, hai chân mỏi muốn rũ ra. Xe buýt đầy nhóc, mọi người chen chân đứng như thế mà chị còn mang cái bầu nữa thì mệt phải biết. Nghĩ mình nhường ghế cho chị cũng là một hành vi đẹp nên dù có mệt nó vẫn thấy vui vui và thoải mái trong lòng.
Không ai (kể cả các nhà khoa học, các giáo sư Bác sĩ giỏi) có thể tiên đoán chính xác khi nào đại dịch chấm dứt? Bao giờ thì có thuốc chủng ngừa? Cũng chẳng dám kỳ vọng mọi thứ sẽ quay về như cũ, trước khi có đại dịch. Nhưng hy vọng những điều căn bản tồn tại nhiều trăm năm như bắt tay nhau, như vỗ vai nhau... sẽ trở lại sau đại dịch như "sau cơn mưa trời lại sáng". Hơn lúc nào hết, người ta cần có hy vọng để sống, để thêm nghị lực cùng nhau vượt qua đại dịch, và phân cách.
Rừng núi xanh mướt, không khí trong lành và hơi se se lạnh thấm vào từng chân lông kẽ tóc, len lỏi vào từng tế bào. Cái cảm giác khoan khoái thật dễ chịu, làm cho hai huynh đệ thọ nhận được sự bình an trong phút giây hiện tại. Cây cỏ xung quanh như tỏa ra một năng lượng tươi mát tràn đầy sức sống. Bất chợt sư huynh hỏi khẽ: - Dường như có đôi mắt nào đó đang theo dõi chúng ta? Cả hai dừng bước, nhìn quanh một tí thì phát hiện ra đằng sau bụi rậm có mẹ con nhà nai đang tròn xoe mắt nhìn, tai vểnh bắt sóng động của âm thanh, chúng có thể nghe được những âm thanh nhỏ nhất mà tai người không nghe được. Mẹ con nhà nai đang cảnh giác cao độ, toàn thân mượt mà vàng sậm điểm xuyết những đốm hoa màu trắng.
Chiều nay khi những giọt nắng đang lao xao ngoài song cửa, những tán cây thầm thì trong gió chuyện nhân gian, anh bỗng nhẹ nhàng nhớ đến em, người con gái "vội cất bước quên dấu yêu ngọt ngào" ngày ấy. Anh trầm mình trong ký ức về “từng góc phố bâng khuâng dịu êm”. Anh tình cờ biết được một bản tình ca mà tác giả của nó cảm giác rằng nó bị thất lạc khá lâu rồi như chuyện chúng mình vậy đó em: "Lời hát ấy hôm nao miên man, ru em một thời Từng ánh mắt bao dung đam mê, cho em ngọt bùi"
Sau công phu sáng, bước ra nhà bếp xé tờ lịch thì hiện ra hôm nay là ngày 6 tháng 6 năm 2020. Ngày 6 tháng 6, bỗng như que diêm nào bất ngờ bật lên trong ký ức tôi đã từ lâu lắng xuống. Tại sao hôm nay lại bật lên? Biết rằng băn khoăn cũng chẳng có câu trả lời, như mưa mới rạt rào đây mà giờ nắng đã lên rực rỡ. Muôn sự còn muôn thẳm sâu mà sự phán đoán ước lệ của suy tưởng vật lý chưa chạm tới được sự mầu nhiệm của tâm linh. Đủ duyên thì lộ, chưa đủ duyên thì ẩn. Chấp nhận vậy thôi. Ngày 6 tháng 6 năm 1944. Ngày có tên lịch sử là D-Day.
Sau hơn một tháng, các chuyên viên Public Health làm việc không ngưng nghỉ, CDC công bố 60 trang guidelines hướng dẫn chi tiết cho "đời sống cùng với COVID-19" ở các trường học, các trung tâm giữ trẻ, các nhà hàng, và các cơ sở thương mại từ lớn đến nhỏ.... Mới nhìn thoáng qua thì dễ bị...."ngộp" vì quá nhiều yêu cầu, nhưng chi tiết không có nghĩa là không thể thực hiện. Cho đến lúc nào có vaccine chủng ngừa, không còn lựa chọn nào khác. Lâu dần đời cũng quen. Một cách lạc quan, khả năng thích ứng với lối sống mới của mỗi người, thêm một lần nữa, được thử thách.
Một buổi chiều im vắng bên dòng sông Cái Lớn. Theo hướng gió mơn man trên rừng dừa nước, Tím đẩy mái chèo một cách khoan thai, nhẹ nhàng. Chiếc xuồng nhỏ rẻ nước, lặng lờ trôi ngang đồn Nghĩa Quân. Tiếng đàn và tiếng hát nghe văng vẳng xa xa. Khi xuồng đến gần, Tím thấy một người lính đang ôm “cây đàn số 8” – do trẻ em trong làng đặt tên; vì không đứa nào biết cây đàn này tên là Guitar mà chỉ thấy thùng đàn giống như số 8 – ngồi trên hầm chống pháo kích.
Xe đò vừa vào Phan Rang thì kỷ niệm cũng vừa tràn về thốc tháo trong lòng bà, như làn gió nóng của miền Trung nắng cháy đang lùa vào các khung cửa xe một cách hăm hở. Bà gỡ đôi kính mát xuống để nhìn hai bên đường cho rõ hơn. Phan Rang. Con đường Thống Nhất. Bốn mươi năm. Nhưng bà ngạc nhiên vì thấy mình không đến nỗi lạc lõng sau những năm tháng dài như thế. So với nhiều thành phố khác, Phan Rang dường như không thay đổi gì mấy. Rõ ràng là con đường cũng như mấy thập kỷ qua, không được mở rộng ra chút nào. Từng hàng cây cổ thụ dễ đến trăm năm vẫn còn lác đác chạy dài theo hè phố. Nhà cửa có lô nhô nhiều căn cao hơn trước, nhưng chưa đủ để thành phố có một khuôn mặt khác lạ đối với người lữ khách lâu ngày vừa trở lại.
Tiếng khánh réo rắt ngân dài và lan toả trong không gian như những vòng sóng tròn, càng loang xa vòng tròn càng lớn, bao trùm cả đất trời. Âm thanh bay lên tận trời xanh, xuyên thấu vào lòng đất như mũi dùi chọc thủng cả địa ngục A Tỳ. Bọn quỷ đói rùng rùng kéo về hướng phát ra tiếng khánh, chúng đông hơn quân Nguyên, hình thù quái dị, trông gớm ghiếc vô cùng. Cứ thường lệ mỗi buổi chiều, chúng ngóng đợi tiếng khánh để được ăn bữa chiều.
Cũng vì ích kỷ muốn ăn ngon, muốn ăn bổ, nên con người đã tạo cho con virus Corona có cơ hội lây từ thú sang người ở Vũ Hán và chỉ với một thời gian ngắn đại dịch đã bùng phát gần như ở tất cả các quốc gia trên thế giới, hiện nay vẫn còn tiếp diễn chưa chịu dừng lại.
Một trong những cuộc đua Marathon nổi tiếng, và lâu đời nhất thế giới dành cho người tham dự từ nghiệp dư đến chuyên nghiệp từ khắp các quốc gia là Boston Marathon bị hủy bỏ . Cuộc đua truyền thống dài hơn 26 miles (khoảng 42km) hàng năm chạy qua 8 thành phố của Massachusetts bắt đầu từ năm 1897 chỉ có 15 người tham dự, là một trong 6 cuộc đua Marathon quan trọng nhất thế giới hàng năm. Lần đầu tiên trong 124 năm, sự kiện thể thao hàng năm -có lúc quy tụ đến nửa triệu người quan sát và hơn 38 ngàn vận động viên- bị hủy bỏ trong năm 2020 vì đại dịch cúm Tàu. Ngay cả trong hai thế chiến (1914-1918 và 1939-1945), Boston Marathon vẫn được tổ chức , và là một truyền thống văn hóa cả trăm năm của Bostonians.
Đó là một buổi chiều, lớp tôi được nghỉ môn học giữa giờ vì cô giáo bịnh. Chúng tôi, ba đứa bạn thân và tôi, rủ nhau ra ngoài trường, tản bộ trên vỉa hè quen thuộc có hàng cây rợp mát. Đi dọc theo đường Bà Huyện Thanh Quan, ngắm những căn biệt thự nằm khuất bên trong khoảng sân rộng, bốn đứa chúng tôi hỏi nhau căn nhà nào đẹp, và thích căn nào. Đứa thích nhà trồng nhiều hoa. Đứa thích nhà có cửa sổ bốn phía, v..v... Bỗng dưng tôi nghe có tiếng dương cầm văng vẳng trong gió khi vừa đi qua. Tôi dừng chân trước một biệt thự cổ kính. Âm thanh phát ra từ trên lầu. Tôi ngắm kỹ ngôi nhà và thấy bức tường đá của nó được phủ kín bởi một loại dây leo có lá nhỏ tròn, bò ngộ nghĩnh. Bức tường cao quá nên tôi không thấy gì bên trong, chỉ nhìn qua song cửa sân. Lúc đó tôi sợ bị người ta bắt vì tội nhìn lén nên đứng xớ rớ một lát rồi đi.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.