Hôm nay,  

Anna

08/03/202309:42:00(Xem: 4249)
Truyện dịch

WWII_London_Blitz_East_London-Children

 


Cô bé tên là Anna, cô vừa là chị cả vừa là mẹ của tôi. Trên tấm hình này, cô bé lên mười hai tuổi. Còn tôi là con bé mặc áo đầm nhung có hai dây đeo, tôi bám theo cô ấy giống như bám vào phao cứu đắm.

 

Tấm hình được chụp vài tháng sau "thảm kịch", theo như mọi người trong làng nói. Hôm đó, tôi đang chơi tại gia đình Labbé, cách nhà tôi hai khối nhà. Họ có hai con trai, đứa lớn là François và đứa nhỏ là Emmanuel, cũng lên sáu giống tôi. Mọi người gọi nó là Manu. Nó là bạn trai yêu dấu của tôi, nó rất đẹp trai, và nó còn có hai quả banh cao su màu đỏ mà tôi thường lấy để tập tung hứng.

 

Chúng tôi đang chơi trên phòng của ba mẹ nó, ở tầng lầu có nhiều ánh sáng nhất. Bỗng dưng bà Labbé hét to lên, bảo chúng tôi nằm úp xuống sàn. Manu và tôi liền chui xuống gầm giường. Chúng tôi rất vui, còn có những đám bụi xốp mà chúng tôi cố hết sức để thổi vào mắt nhau. Tôi nhìn thấy đôi dép nhẹ của ông Labbé, khi tôi nhắm một mắt thì thấy chúng to lớn như thể có họ hàng với đôi hia bảy dặm của chú bé Tí Hon mà đêm nào tôi cũng bị ám ảnh.

 

Sàn nhà rất thơm mùi gỗ và hình như tôi sắp ngủ gục khi tưởng tượng Manu đang mang đôi dép to rộng của ba nó để leo núi. Nhưng rồi sao có quá nhiều tiếng động bên ngoài vầy nè: Nào là còi hú của xe chữa lửa, nào là máy bay gầm rú vang còn to hơn cả tiếng ngáy của ba tôi. Tiếng bom xé trời rồi nhỏ dần, làm cho thời gian qua đi rất nhanh khi tôi kịp đếm đến hai mươi, rồi lại tiếp tục kêu eo éo.

 

Bom đạn thì tôi quá biết rồi. Chúng rơi xuống đều đều như mưa từ bụng của máy bay, như đàn cá mà ta ném xuống biển vậy.

 

Bỗng dưng nguyên cái nhà rung lên giống hệt như đôi tay của Ngoại khi bà uống bột rễ diếp xoăn vào buổi sáng. Chỉ trong vài phút tôi bỗng bị điếc đặc. Bị điếc thì buồn cười lắm bạn ạ, ta không thể nghe gì nữa cả, ngay cả tiếng thở của chính mình cũng không nghe được, như thể ta chết vậy, nhưng là chết giả vờ. Chắc là Manu cũng chết luôn rồi, bởi vì nó siết tay tôi chặt ơi là chặt.

 

Thật lâu sau đó, không biết bao lâu, bởi vì tôi đã không còn đếm nữa, có người đến gọi chúng tôi ra.

Ôi, thật đúng lúc, vì tôi cũng không còn biết phải mơ điều gì để khỏi âu lo nữa.

 

Nhìn thấy mọi người ai cũng có vẻ gì bất thường, kỳ quặc, có vẻ như bọn cá gây bao nhiêu là thiệt hại khi vỡ ra trên nền đất như thế này.

 

Khi bước ra đường, tôi nhận biết ngay rằng mọi thứ không còn như trước kia nữa. Nhưng cho dù tôi cố nhíu mày để suy nghĩ cho kỹ, tôi cũng không biết có điều gì mất mát, có cái gì thiếu sót. Bà Labbé ôm tôi thật chặt vào lòng và nói:

 

– Bé cưng tội nghiệp của bác ơi, kinh khủng quá, bây giờ con sẽ ra sao đây?

 

Ngày thường thì bà ấy luôn dễ mến, tử tế đối với tôi, nhưng hôm nay, bà ghì tôi chặt quá, và cái tạp dề của bà rất thơm mùi hành.

 

Xém tí nữa là tôi trượt té vì giẫm lên cái bánh của xe hẩy (xe chòi của trẻ con). A, cái bánh xe này, tại sao nó lại nằm đây, mà sao có một bánh thôi nè? Tôi nhớ là đã cẩn thận xếp nó gọn ghẽ vào hiên trước nhà rồi kia mà.

 

Ôi, thôi, tôi biết rồi, đó là căn nhà! Không được rồi. Đó là điều không bình thường. Căn nhà không còn hiện hữu ở đó nữa. Giống hệt như trong truyện thần tiên, chỉ đơn giản là nó đã biến mất. Và ngay chỗ đó là một cái hố to sâu hoắm, đen thui, và khói đang bay ra như từ một cái nồi hầm vĩ đại.

Rồi sau đó tôi hét lên, hét thật lâu, và cố hết sức lực để hét, rồi tôi trở nên điếc thật, và chết thật sự. Nhưng điều đó đã không xảy ra, tôi chỉ không thể nói được trong rất nhiều tuần lễ.

 

Chính Anna là người đã tập cho tôi có thể nói trở lại, cười trở lại, rồi chạy nhảy, vui đùa. Cô bé đã có hai chị và một anh, tất cả đều có tóc vàng óng giống cô bé, thế thì bạn biết không! Không phải vì có thêm một bé tóc nâu nữa sẽ làm cho cô bé sợ hãi như cô nói đâu.

 

Chính nhờ cô bé ấy mà hôm nay tôi có thể kể chuyện về bức hình cho con gái tôi nghe. Tôi đặt tên cho con gái là Anna...

 

Yves Brard

(thailan dịch)

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Chuyện ngày xưa, 1300 năm trước, xứ Hoa Hạ, tại một làng chuyên nghề chài lưới sống dọc hai bên bờ con sông Li, huyện Gullin, tỉnh Guangxi. Buổi chiều dần xuống êm đềm, mây mờ len lỏi giăng phủ ven lưng chừng núi, soi bóng xuống mặt sông tạo nên một bức tranh thủy mặc đẹp tuyệt vời pha chút nét sương khói mông lung; lão ngư phủ họ Tống phải chuẩn bị ít đồ ăn thức uống, và cả một ít thuốc hút cho chuyến đi săn cá đêm của mình...
Đứng trong hành lang phi trường Tân Sơn Nhất giây phút tiễn đưa cận kề thật não lòng, cả nhà cùng buồn, hai người ở lại tiễn hai người đi xa. Bà Tám cứ ôm riết thằng cháu nội đích tôn duy nhất trong tay, hết vuốt ve ngắm nghía nó từ đầu đến chân lại rưng rưng nước mắt hỏi cháu...
Mùa hè, trời cứ cao xanh, thăm thẳm, ong ong và chong chao cái nắng. Chỉ có mùa thu, bầu trời như xuống thấp hơn một cung bậc, và mây cứ từ đâu, đùn đẩy, xếp hàng, có khi chồng chất nhau thành những đụn mây với những màu sắc: trắng, xám, ánh vàng và có cả đen của màu... tóc làm nhung nhớ của một thời bịn rịn, với tóc mây (không phải tóc mai) thơm mùi bồ kết, hương nhu, thao thức hoài trong giấc ngủ...
Chúng ta “ăn để mà sống” hay “sống để mà ăn”? Tôi vẫn nghĩ rằng, mọi người đều phải trải qua cả hai giai đoạn kể trên, khi còn trẻ sung sức thì “sống để ăn”, và khi tuổi về xế chiều thì “ăn để sống”...
Ở nhà thường gọi là chị Xíu. Tên của chị là Lan Vy, chị họ của tôi. Chị em tôi chơi thân với nhau như chị em ruột. Tôi không có chị gái nên hình mẫu để tôi học hỏi chính là chị. Chị nổi tiếng xinh đẹp và hiền thục ngay từ lúc còn là nữ sinh đệ nhất...
Tôi đứng ngay tại Ngã Ba Hàm Rồng nhìn dáo dác chung quanh. Buổi trưa nắng chang chang. Thỉnh thoảng một cơn gió nổi lên cuốn theo những đám bụi đỏ mù trời. Tôi dụi mắt mấy lần cố tìm những gì thân quen của một quá khứ yêu dấu xa xưa...
Người Việt Nam chúng ta cũng có một bài thơ sống động mà có vẻ như ngôn ngữ của thi ca không thể nào diễn tả hết nét đẹp. Đó là những tứ thơ diễm lệ, đẫm đầy tình yêu và sự hào hùng của những người trẻ, những thủ lĩnh Việt Nam Quốc Dân Đảng, trong chuyến xe ra pháp trường Yên Bái ngày 17 tháng 6 năm 1930...
Tôi nhìn sững vào con bé đen (nên gọi là con bé hay là cô bé đây). Nó đang đứng nói chuyện với một người đàn ông Mỹ lớn tuổi, cũng đen như nó, ở trước cửa phòng ra vào khu tập thể dục. Con bé chừng mười bảy, mười tám tuổi là cùng, nước da đen cáy trông như một pho tượng đồng đen...
Tôi vốn mê đọc từ thuở còn rất nhỏ. Dĩ nhiên, mê bất cứ thứ gì cũng đều không tốt, vì nó sẽ hình thành một thứ nghiệp gì đó. Thêm nữa, chữ bao giờ cũng mơ hồ. Chữ là ký hiệu, là biểu tượng, là ngón tay chỉ trăng. Dù vậy, trong khi chữ là một hàng rào ngăn cách chúng ta với thực tại, chữ lại là một phương tiện để hiểu nhau, để cảm thông và để hoằng pháp.
Cách đường lớn có mấy mươi mét mà con hẻm 69/3/17 này là cả một thế giới khác. Chùa Ông Bổn nằm ngay ngã ba giao nhau của mấy con hẻm luôn, từ đây tỏa ra và chạy quanh quẹo sâu vô trong những xóm nhỏ khác nữa. Những con hẻm ở đây cả ngày chẳng có nắng giọi, chỉ trừ lúc giữa trưa, những ngôi nhà cao tầng bao quanh ở mặt tiền che chắn hết nắng trời. Cái không khí mát dịu hơn bên ngoài nhưng cũng rất ủm thủm ẩm thấp...
Chị Bông đi shopping về vội vàng lo sửa soạn bữa cơm chiều xong chợt nhớ ra hôm nay chồng sơn lại cái hàng rào patio nên ra vườn sau xem kết quả, chị tưởng tượng đến những hàng rào song sắt màu nâu mới mà lòng rộn ràng...
Tháng 10 năm 2019, tôi có tới bốn thân hữu của trên dưới sáu mươi năm quen biết, họ đã cùng nhau bỏ ra đi vào cõi vô cùng: Du Tử Lê, Nguyễn Tường Quý, Nguyễn Văn Trung và Trần Tuấn Kiệt. Thời gian ấy, tâm tư xáo trộn, thẫn thờ cả tháng. Chưa bao giờ tôi bị xúc động mạnh đến thế; và dĩ nhiên, chẳng có thể viết ra được một lời nào về họ!


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.